Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về
minh bạch tài sản, thu nhập.
Kinh nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt
Nam đều cho thấy, minh bạch tài sản, thu
nhập ngày càng đóng vai trò quan trọng
như một công cụ trong PCTN. Vai trò này
đã được công nhận trong UNCAC và đang
dần được hoàn thiện trong hệ thống pháp
luật Việt Nam (nhất là qua lần sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật PCTN năm 2012
và trong Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) đang
được Chính phủ xây dựng hiện nay). Thông
qua kiểm soát tài sản, thu nhập sẽ làm bộc lộ
các khoản thu nhập bất chính mà người có
chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để tham nhũng. Tuy nhiên, như đã đề
cập thì không có một mô hình (cơ chế) kiểm
soát tài sản, thu nhập chung được các quốc
gia áp dụng mà căn cứ vào tình hình tham
nhũng, nguồn lực dành cho công tác kiểm
soát tài sản, thu nhập, chế độ chính trị để
áp dụng cơ chế phù hợp nhằm bảo đảm hiệu
quả của công tác này trên thực tế.
Qua thực tiễn Việt Nam, để tăng cường
minh bạch tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn, chúng tôi cho rằng, dự
thảo Luật PCTN (sửa đổi) nên tập trung vào
các vấn đề như:
- Về xác định đối tượng chịu sự kiểm
soát tài sản, thu nhập: Việc lựa chọn đối
tượng chịu sự kiểm soát tài sản, thu nhập là
rất quan trọng, nếu lựa chọn đối tượng phù
hợp với khả năng chi trả về tài chính và cán
bộ làm công tác kiểm soát thì hiệu quả sẽ
cao hơn nhiều khi lựa chọn đối tượng rộng
mà nguồn lực không đáp ứng được. Mặc dù
Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác PCTN, lãng phí đề ra chủ trương “Tiến
tới tất cả đảng viên là cán bộ, công chức đều
phải kê khai tài sản, công bố trong chi bộ,
cấp ủy và giải trình nguồn gốc khi có yêu
cầu”; nhưng kinh nghiệm PCTN cho thấy,
công chức giữ vị trí cao trong bộ máy nhà
nước, nhất là người đứng đầu các cơ quan,
tổ chức, đơn vị có nhiều quyền tự quyết
và thẩm quyền cao hơn thì càng có cơ hội
tham nhũng và nếu kiểm soát chặt chẽ các
đối tượng này thì những cán bộ, công chức
dưới quyền cũng không dám tham nhũng.
Chúng tôi cho rằng, chủ trương từng bước
mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài
sản, thu nhập của Đảng là đúng đắn, nhưng
nên thực hiện sau khi công tác PCTN đã
thực sự có hiệu quả và cần thiết phải tiến
thêm một bước nữa để kiểm soát được cả
xung đột lợi ích của cán bộ, công chức, viên
chức. Tuy nhiên, trước mắt chưa nên mở
rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản,
thu nhập để tập trung nguồn lực tốt nhất cho
việc kiểm soát bảo đảm hiệu quả, tránh tình
trạng hình thức như thời gian qua.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và kiến nghị sửa đổi luật phòng, chống tham nhũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bằng cách so sánh với các tiêu chuẩn và kinh nghiệm quốc tế có liên
quan, bài viết chỉ ra một khoảng trống lớn của pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực kiểm soát tài sản và thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn,
đặc biệt là các nội dung liên quan đến vấn đề phạm vi, đối tượng phải
kê khai tài sản, thu nhập; công khai bản kê khai tài sản; xác minh và
thu hồi tài sản không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp; việc có
một biện pháp tổng thể hơn trong việc theo dõi biến động về tài sản, thu
nhập. Đây cũng là những nguyên nhân trong việc không thể kiểm soát
được tài sản và thu nhập của công chức thời gian qua. Từ đó, bài viết đề
xuất các biện pháp để cải thiện cơ chế kiểm soát tài sản và thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn.
Hoàng Nam Hải*
Abstract:
This article, in comparison with the relevant international standards
and practices, points to a large gap in the laws of Vietnam in the
field of properties and income controlling of the government officials
in high powerful positions, particularly the provisions on the scope
and subjects for whom to declare their properties and income; public
declarations of their properties; verification and confiscation of the
properties not proved their eligibility; a comprehensive measure to
monitor their properties and income. This is also the reason for the
inability to control the properties and income of the public servants
for recent time. This article provides the measures to improve the
control mechanism of the properties and income of people with high
positions and powers.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kiểm soát tài sản, thu nhập;
người có chức vụ, quyền hạn; chống
tham nhũng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 03/08/2017
Biên tập: 18/09/2017
Duyệt bài: 27/09/2017
Article Infomation:
Keywords: properties and income
control; persons in high positions and
powers; anti corruption
Article History:
Received: 03 Aug. 2017
Edited: 18 Sep. 2017
Appproved: 27 Sep. 2017
* ThS, Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP
CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN VÀ KIẾN NGHỊ
SỬA ĐỔI LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1. Pháp luật quốc tế và một số quốc gia về
kiểm soát tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn
Khi thực hiện chức năng kiểm soát,
pháp luật sẽ xây dựng các tiêu chí nhận diện
hành vi vi phạm pháp luật và nhận diện các
chủ thể có khả năng thực hiện hành vi đó.
Từ đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
kiểm soát sẽ đối chiếu vào thực tế để xác
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 19(347) T10/2017
định chủ thể thỏa mãn những điều kiện, tiêu
chí trở thành đối tượng thuộc phạm vi kiểm
soát; đồng thời chủ động tiến hành theo dõi
các hành vi của chủ thể nhằm phát hiện ra
các dấu hiệu vi phạm các quy tắc đã thừa
nhận. Nếu chủ thể có hành vi vi phạm hoặc
gây ảnh hưởng đến nguyên tắc kiểm soát đã
đặt ra thì tùy từng trường hợp sẽ bị áp dụng
các chế tài nhất định để xử lý.
Như vậy, có thể hiểu kiểm soát tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn
trong phòng, chống tham nhũng (PCTN) là
“tổng thể những biện pháp, cách thức mà
Nhà nước sử dụng để theo dõi (biết được) số
lượng, nguồn gốc tài sản và giám sát sự biến
động về tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn nhằm ngăn ngừa các chủ thể
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng;
phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng”.
Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của
cá nhân nói chung, của người có chức vụ,
quyền hạn nói riêng không chỉ đơn thuần là
một biện pháp PCTN mà còn nhằm để xác
định các khoản thu nhập (chính đáng) phải
chịu thuế thu nhập cá nhân (TNCN); xác
định tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của
tài sản; tăng cường tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, viên
chức; tăng cường niềm tin của người dân
vào bộ máy hành chính công
Trên bình diện quốc tế, nhiều văn kiện,
công ước đã đề cập đến minh bạch và kiểm
soát tài sản, thu nhập như: Công ước Chống
hối lộ công chức nước ngoài trong giao dịch
kinh doanh do Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế thông qua năm 1977, Công ước Liên
châu Mỹ về Chống tham nhũng do Tổ chức
các quốc gia châu Mỹ thông qua năm 1996,
Công ước Chống tham nhũng liên quan đến
công chức của các quốc gia thành viên Liên
minh châu Âu do Hội đồng Liên minh châu
Âu thông qua năm 1997, Công ước Luật
hình sự về tham nhũng do Ủy ban Bộ trưởng
của Hội đồng châu Âu thông qua năm 1999,
Công ước Luật dân sự về tham nhũng do
Ủy ban Bộ trưởng châu Âu thông qua năm
1999 và đặc biệt có tác động đến Việt Nam
là Công ước của Liên hiệp quốc về Chống
tham nhũng (UNCAC) được thông qua năm
2003 (Việt Nam ký phê chuẩn năm 2009).
Nhìn chung, các công ước này đều đặt
ra những tiêu chuẩn nhất định cho việc kiểm
soát tài sản, thu nhập của công chức phù hợp
với điều kiện của quốc gia thành viên. Trong
đó, khoản 5 Điều 8 của UNCAC đã yêu cầu
các quốc gia thành viên: “Khi thích hợp và
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên nỗ
lực thiết lập các biện pháp và cơ chế yêu cầu
công chức báo cáo cơ quan có thẩm quyền
về các vấn đề có liên quan, trong đó có
những hoạt động công việc, các khoản đầu
tư bên ngoài hay tài sản hoặc quà tặng giá trị
lớn, những thứ mà có thể gây xung đột lợi
ích khi họ thực hiện công vụ”. Hay khoản 5
Điều 52 quy định “Mỗi quốc gia thành viên
sẽ xem xét việc thiết lập, căn cứ vào pháp
luật quốc gia, hệ thống công khai tài chính
hiệu quả đối với nhóm công chức nhất định,
và quy định chế tài thích hợp đối với việc
không chấp hành...”.
Hướng dẫn kỹ thuật về việc thực thi
UNCAC cũng đưa ra một số khuyến nghị
như: Công khai tất cả các loại thu nhập và
tài sản chủ yếu; Cho phép thực hiện việc so
sánh giữa các năm; Ngăn chặn việc che giấu
tài sản; Tiếp cận được với thể nhân hoặc
pháp nhân có liên quan; Nghĩa vụ chứng
minh nguồn gốc tài sản, thu nhập thuộc về
người kê khai; Ngăn chặn việc kê khai tài
sản không tồn tại; Cơ quan giám sát có đủ
quyền hạn, năng lực; Có chế tài xử lý đủ để
răn đe.
Kiểm soát tài sản, thu nhập của người
có chức vụ, quyền hạn nhằm PCTN đang là
biện pháp được nhiều quốc gia áp dụng với
các mô hình tương đối đa dạng. Nhưng nhìn
chung đều tập trung chủ yếu vào việc kiểm
soát thông qua kê khai tài sản, thu nhập và
trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản, thu
nhập, bên cạnh đó là các biện pháp hỗ trợ
khác như đối chiếu, so sánh với kê khai thuế
TNCN, thanh toán không sử dụng tiền mặt...
Ở các quốc gia khác nhau, việc kiểm
soát tài sản, thu nhập cũng có sự khác nhau
và không có một quy chuẩn pháp lý quốc tế
cụ thể nào để các quốc gia áp dụng cùng một
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 19(347) T10/2017
biện pháp, mà tùy thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh của từng quốc gia để có những mô hình
nhất định cho việc kiểm soát tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn như:
- Về đối tượng kê khai tài sản, thông
thường khi lựa chọn đối tượng để kiểm soát,
các quốc gia thường dựa trên các tiêu chí
như dựa trên trách nhiệm hoặc chức trách
của họ (ví dụ cán bộ quản lý các nguồn thu,
quản lý mua sắm công, cấp phúc lợi, quản lý
và cấp đất đai); hoặc lựa chọn đối tượng
dựa trên vị trí ngạch, bậc (công chức phải
giữ một chức vụ nhất định).
+ Các quốc gia lựa chọn đối tượng
kiểm soát dựa trên chức trách của người có
chức vụ, quyền hạn1 thường có xu hướng
kiểm soát diện đối tượng rất rộng bao gồm
hầu hết các công chức, vì công chức có nguy
cơ tham nhũng thường rất lớn. Việc kiểm
soát theo phương thức này có ưu điểm là
kiểm soát được hầu hết các diện đối tượng
có nguy cơ tham nhũng và góp phần trong
việc đẩy lùi cơ bản tham nhũng và đặc biệt
là hướng đến kiểm soát xung đột lợi ích. Tuy
nhiên, nhược điểm lớn nhất của nó là rất khó
bảo đảm hiệu quả do làm làm giảm khả năng
kiểm soát nhóm công chức cao cấp có nguy
cơ tham nhũng cao, rất tốn kém về cả nhân
lực và vật lực cho việc triển khai, đồng thời
dễ gây cảm giác bộ máy nhà nước có vấn
đề nghiêm trọng, tham nhũng tràn lan. Qua
theo dõi đánh giá của nhiều tổ chức và thực
tế hiệu quả công tác chống tham nhũng ở
một số quốc gia cho thấy, không có bằng
chứng thuyết phục nào về việc nếu mở rộng
tối đa phạm vi đối tượng bắt buộc kê khai
tài sản, thu nhập sẽ dẫn đến hiệu quả phòng
ngừa tham nhũng cao hơn.
Còn ở các quốc gia lựa chọn đối tượng
dựa trên vị trí ngạch, bậc, thường chỉ tập
trung vào kiểm soát nhóm công chức cao
cấp (như quan chức chính phủ hoặc thành
viên nghị viện). Ưu điểm của nó là sẽ tập
1 Ví dụ như Latvia, Estonia và một số nước Trung Âu và Đông Âu.
2 Ví dụ như ở Albani, Belarus, Kazakhstan
3 Ví dụ ở Cộng hòa liên bang Đức, Vương quốc Anh
4 Ví dụ ở Latvia, Albani
trung nguồn lực tốt hơn cho việc kiểm soát
tài sản, thu nhập của nhóm đối tượng này
và khi đã kiểm soát được nhóm đối tượng
này thì sẽ bảo đảm cho việc nhóm đối tượng
có chức vụ thấp hơn, nhất là công chức do
người có chức vụ, quyền hạn quản lý trực
tiếp không dám tham nhũng. Nhiều quốc gia
trên thế giới áp dụng mô hình kiểm soát này
là các quốc gia có chỉ số minh bạch cao như
Đức, Na Uy, Thụy Điển.
+ Cũng có quốc gia2, ngoài việc kiểm
soát tài sản, thu nhập của công chức còn áp
dụng biện pháp này đối với cả những người
có liên quan (chủ yếu là vợ, chồng, cha, mẹ,
con). Tuy nhiên, thông thường việc kiểm soát
chỉ đặt ra khi có bằng chứng cho thấy công
chức có dấu hiệu tham nhũng hoặc giầu lên
một cách bất thường, mà ít quốc gia áp dụng
mô hình này cho việc kiểm soát tài sản, thu
nhập định kỳ. Lý giải cho điều này, có thể
thấy công chức bị ràng buộc bởi nhiều yếu
tố, trong đó có quyết định tuyển dụng hoặc
quyết định bổ nhiệm bắt buộc phải công khai
tài sản, thu nhập, trong khi đó người thân
của họ là những công dân bình thường thì
phải bảo đảm hạn chế xâm phạm quyền bí
mật đời tư của họ, chỉ khi có căn cứ xác định
dấu hiệu chuyển dịch tài sản tham nhũng từ
người có chức vụ, quyền hạn sang cho người
thân thì những người này mới phải kê khai
tài sản, thu nhập để bảo đảm tính minh bạch
cũng như góp phần có hiệu quả trong thu hồi
tài sản tham nhũng.
- Phạm vi tài sản, thu nhập phải kê
khai, một số quốc gia3 kiểm soát khá ngặt
nghèo khi quy định người có chức vụ, quyền
hạn kê khai con số chính xác về thu nhập
và nguồn gốc của thu nhập đó; đồng thời kê
khai các tài sản bao gồm cả động sản và bất
động sản (đối với động sản và bất động sản
thường xác định ngưỡng giá trị tối thiểu).
Tuy nhiên, cũng có quốc gia4 chỉ kiểm soát
những loại tài sản có giá trị lớn và với một số
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 19(347) T10/2017
loại tài sản nhất định. Đặc biệt, nhiều quốc
gia5 yêu cầu kê khai và kiểm soát cả những
khoản chi tiêu có giá trị lớn. Việc bắt buộc
kê khai cả tài sản, thu nhập và các khoản chi
tiêu sẽ bảo đảm giám sát được cả đầu vào và
đầu ra của tài sản, thu nhập, là cơ sở quan
trọng cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn.
- Hình thức công khai bản kê khai tài
sản, thu nhập: Có thể nói, đây là một trong
những nội dung làm đau đầu các nhà lập
pháp nhất, khi phải lựa chọn giữa yêu cầu
giám sát của nhân dân đối với công chức và
bảo vệ quyền riêng tư của công chức. Tuy
nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, khi đã lựa
chọn làm công chức nhà nước thì các công
chức phải chấp nhận đặt quyền riêng tư thấp
hơn lợi ích công. Việc công khai bản kê
khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn sẽ tạo những điều kiện thuận lợi
nhất cho người dân giám sát việc kê khai tài
sản, thu nhập của cán bộ, công chức bằng
cách cho phép người dân tiếp cận với bản
kê khai tài sản, thu nhập. Đây là một trong
những yếu tố tạo nên sự thành công của hệ
thống kê khai tài sản, thu nhập6. Tuy nhiên,
việc xác định phạm vi công khai cũng có
sự khác biệt lớn ở các nước khác nhau như
Đan Mạch, Bosnia & Hercegovina, Rumani,
Montenegro cho phép công khai mọi
thông tin và tờ khai để người dân giám sát;
nhưng một số quốc gia thì lại công khai nội
dung của tờ khai hạn chế hơn như Lithuania,
Croatia, Latvia; cũng có quốc gia chỉ công
khai một số đối tượng “chủ chốt” trong hệ
thống chính trị cho người dân giám sát như
Hoa Kỳ, Ucraina
- Hình thức kiểm soát việc kê khai tài
sản, thu nhập: Thông thường, các quốc gia
căn cứ vào việc lựa chọn phạm vi đối tượng
phải kê khai tài sản, thu nhập để lựa chọn
hình thức kiểm soát phù hợp, nhưng tựu
trung lại, có 02 hình thức kiểm soát: hoặc
là áp dụng biện pháp kiểm soát từ đơn giản
5 Như Latvia, Litva,...
6 Mukherjee, Ranjana và Omer Gokcekus (2006), Offcials’ asset declaration laws: Do they prevent corruption? (http://
works.bepress.com/omer_gokcekus/36/).
đến phức tạp cho các loại đối tượng chịu sự
kiểm soát khác nhau nhằm hướng tới hiệu
quả cao nhất (thường được áp dụng khi quốc
gia lựa chọn đối tượng kiểm soát dựa trên
trách nhiệm hoặc chức năng); hoặc là áp
dụng biện pháp như nhau cho tất cả các đối
tượng chịu sự kiểm soát tài sản, thu nhập
(thường được áp dụng khi các quốc gia lựa
chọn đối tượng dựa trên vị trí ngạch, bậc).
Lý giải cho điều này, hầu hết các ý kiến đều
cho rằng, công chức giữ chức vụ càng cao
thì càng phải được kiểm soát chặt chẽ hơn
so với các công chức khác và việc áp dụng
nhiều hình thức kiểm soát sẽ giảm bớt được
gánh nặng của tài chính và nhân lực cho
việc này.
Nhìn chung, việc lựa chọn đối tượng
có nghĩa vụ kê khai; loại tài sản, thu nhập
phải kê khai; công khai bản kê khai tài sản,
thu nhập thường căn cứ vào mục đích của
hệ thống kê khai tài sản, thu nhập. Đối với
các quốc gia sử dụng hệ thống kê khai tài
sản, thu nhập với mục đích kiểm soát xung
đột lợi ích là chính (thường là ở các quốc gia
đã đạt những kết quả nhất định trong việc
phòng, chống tham nhũng) sẽ lựa chọn hệ
thống kê khai tài sản, thu nhập cho hầu hết
các công chức. Còn đối với các quốc gia sử
dụng hệ thống này cho mục đích chống tham
nhũng thì sẽ lựa chọn đối tượng có nghĩa
vụ kê khai hẹp hơn để bảo đảm các nguồn
lực cho việc thực thi có hiệu quả, bởi vì khi
lựa chọn đối tượng không phù hợp, thực
thi không hiệu quả sẽ đem lại hệ lụy rất lớn
không chỉ cho hệ thống pháp luật được đánh
giá là thiếu nghiêm minh mà còn gây mất
lòng tin của công chúng đối với hệ thống
chống tham nhũng và xa hơn nữa là hệ thống
chính trị.
2. Thực tiễn pháp luật kiểm soát tài sản,
thu nhập ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khi tình hình tham nhũng
đang được đánh giá là nghiêm trọng, diễn
biến phức tạp thì việc bảo đảm thực hiện có
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 19(347) T10/2017
hiệu quả cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập
sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng vào từng
bước kiềm chế, đẩy lùi tham nhũng. Kinh
nghiệm cho thấy, khi tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn được kiểm soát
một cách chặt chẽ, cơ chế xử phạt nghiêm
minh thì cán bộ, công chức sẽ không dám
tham nhũng và khi đã tham nhũng thì những
tài sản trên cũng sẽ bị giám sát chặt chẽ để
phát hiện và thu hồi.
Luật PCTN hiện hành cũng đã có một
số quy định về minh bạch tài sản, thu nhập,
tặng quà và nộp lại quà tặng Đồng thời,
trong hệ thống pháp luật cũng có các biện
pháp hỗ trợ khác cho việc kiểm soát tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn
như kiểm soát qua thuế TNCN (trong Luật
Thuế TNCN); Thanh toán không sử dụng
tiền mặt (trong Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp, Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
đề án thanh toán không sử dụng tiền mặt
giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm
2020; Quyết định số 2453/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đề án đẩy mạnh
thanh toán không sử dụng tiền mặt giai đoạn
2011-2015)... Tuy nhiên, nhiều quy định
trong pháp luật hiện hành còn thiếu tính khả
thi, thiếu tính đồng bộ, chưa phù hợp với
thực tiễn nên việc áp dụng pháp luật về
kê khai tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn trong thời gian qua được đánh
giá là còn hình thức, chưa thực sự là một
biện pháp quan trọng góp phần PCTN như
kỳ vọng. Qua nhiều năm thi hành, chúng ta
có thể thấy:
- Việc minh bạch tài sản, thu nhập:
Luật PCTN hiện hành quy định 11 loại đối
tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản7 với trung
bình hàng năm có khoảng 1 triệu cán bộ,
công chức thuộc diện kê khai tài sản, thu
nhập (gồm cả kê khai mới và kê khai bổ
sung); trong khi đó, căn cứ xác minh tài sản,
thu nhập (Điều 47) lại thiếu cụ thể, dễ bị lạm
7 Điều 7 Nghị định số 78/2023/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ quy định về minh bạch tài sản, thu nhập.
8 Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
9 Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
dụng và cũng không quy định việc xác minh
theo xác suất nên thực tế cho thấy, trong 10
năm (từ năm 2006 đến năm 2016), chỉ có
4.859 trường hợp được xác minh và xử lý
được 17 trường hợp kê khai không trung
thực8. Mặt khác, việc quy định các loại tài
sản, thu nhập phải kê khai cũng thiếu tính rõ
ràng, như chưa quy định phải kê khai đối với
các khoản chi tiêu, nhất là các khoản chi tiêu
lớn (cho con cái hoặc bản thân đi học tập
ở nước ngoài, du lịch). Đồng thời, Luật
PCTN cũng giao cho quá nhiều cơ quan có
chức năng quản lý bản kê khai và xác minh
tính trung thực của bản kê khai tài sản, thu
nhập (cơ quan quản lý cán bộ) nhưng lại
không giao thẩm quyền cụ thể cũng dẫn
đến tình trạng “cha chung không ai khóc”
và nảy sinh tình trạng không muốn “vạch áo
cho người xem lưng”; các cơ quan này cũng
không thể có chuyên môn, kinh nghiệm
trong việc đánh giá chứng cứ, tài liệu để xác
định tài sản của người có chức vụ, quyền
hạn có hợp pháp hay không để kiến nghị xử
lý. Bên cạnh đó, Luật PCTN cũng chưa có
cơ chế cụ thể trong việc xử lý tài sản mà
người có chức vụ, quyền hạn không chứng
minh được nguồn gốc dẫn đến biện pháp
kê khai tài sản, thu nhập được đánh giá là
còn rất hình thức, chưa thực sự phục vụ cho
việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người
có chức vụ, quyền hạn và chưa bảo đảm là
một biện pháp phòng ngừa tham nhũng theo
đúng nghĩa.
- Việc tặng quà và nộp lại quà tặng,
theo quy định của Luật PCTN thì đối với
những loại quà tặng có giá trị từ 500.000
đồng trở lên bắt buộc phải nộp lại, nghiêm
cấm mọi trường hợp nhận quà tặng của các
cá nhân khác có liên quan đến công việc
do mình giải quyết. Theo đánh giá, trong
10 năm chỉ có 879 cán bộ, công chức nộp
lại quà tặng với tổng giá trị 3,3 tỷ đồng, có
01 trường hợp vi phạm được phát hiện và
xử lý9. Nguyên nhân được cho là hiện nay
Luật PCTN quy định theo hướng dựa vào
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 19(347) T10/2017
tính tự giác của cán bộ, công chức mà chưa
có bất kỳ biện pháp nào để kiểm soát quà
tặng mà cán bộ, công chức nhận được; đồng
thời, pháp luật thiếu cơ chế trong việc khen
thưởng những người đã nộp lại quà tặng và
thực tế, một số trường hợp sau khi nộp lại
quà tặng đã phải giải trình rất nhiều lần hoặc
bị dự luận “soi mói”, đánh giá sai lệch nên
họ không muốn khai báo sau khi sự việc
xảy ra.
- Bên cạnh đó, Luật Thuế TNCN quy
định thu nhập từ sản xuất nông nghiệp, từ
tiền lãi gửi tiết kiệm không phải là đối tượng
phải kê khai để nộp thuế TNCN; quy định
của pháp luật về đất đai về việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì việc khai báo
giá nộp thuế, phí chủ yếu là theo khung giá
nhà nước ban hành trong khi giá trị thực tế
có thể cao gấp nhiều lần cũng làm cho việc
kiểm soát tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn thiếu toàn diện
- Đặc biệt, Luật PCTN hiện hành đang
thiếu một giải pháp tổng thể để theo dõi biến
động tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn (không có bất kỳ quy định nào
kết nối được các dữ liệu trong kê khai tài
sản, thu nhập với thuế TNCN, đăng ký bất
động sản, động sản và việc theo dõi những
giao dịch lớn qua tài khoản) nên thực tế
cho thấy, việc họ có kê khai tài sản, thu nhập
hay không cũng không có căn cứ đối chiếu,
so sánh nếu họ không thuộc diện đối tượng
phải xác minh. Mặt khác, việc Luật PCTN
không quy định chế tài xử lý tài sản không
chứng minh được nguồn gốc cũng dẫn đến
việc kiểm soát chỉ mang tính hình thức và
thiếu tác dụng răn đe. Đồng thời, do chưa
kiểm soát được tài sản, thu nhập của các
đối tượng khác trong xã hội nên việc dịch
chuyển tài sản nhằm tránh sự kiểm soát cũng
gây khó khăn cho việc xác định tính trung
thực của việc kê khai tài sản, thu nhập
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát tài sản, thu nhập của người có chức
vụ, quyền hạn
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về
minh bạch tài sản, thu nhập.
Kinh nghiệm quốc tế và thực tế ở Việt
Nam đều cho thấy, minh bạch tài sản, thu
nhập ngày càng đóng vai trò quan trọng
như một công cụ trong PCTN. Vai trò này
đã được công nhận trong UNCAC và đang
dần được hoàn thiện trong hệ thống pháp
luật Việt Nam (nhất là qua lần sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật PCTN năm 2012
và trong Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) đang
được Chính phủ xây dựng hiện nay). Thông
qua kiểm soát tài sản, thu nhập sẽ làm bộc lộ
các khoản thu nhập bất chính mà người có
chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để tham nhũng. Tuy nhiên, như đã đề
cập thì không có một mô hình (cơ chế) kiểm
soát tài sản, thu nhập chung được các quốc
gia áp dụng mà căn cứ vào tình hình tham
nhũng, nguồn lực dành cho công tác kiểm
soát tài sản, thu nhập, chế độ chính trị để
áp dụng cơ chế phù hợp nhằm bảo đảm hiệu
quả của công tác này trên thực tế.
Qua thực tiễn Việt Nam, để tăng cường
minh bạch tài sản, thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn, chúng tôi cho rằng, dự
thảo Luật PCTN (sửa đổi) nên tập trung vào
các vấn đề như:
- Về xác định đối tượng chịu sự kiểm
soát tài sản, thu nhập: Việc lựa chọn đối
tượng chịu sự kiểm soát tài sản, thu nhập là
rất quan trọng, nếu lựa chọn đối tượng phù
hợp với khả năng chi trả về tài chính và cán
bộ làm công tác kiểm soát thì hiệu quả sẽ
cao hơn nhiều khi lựa chọn đối tượng rộng
mà nguồn lực không đáp ứng được. Mặc dù
Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác PCTN, lãng phí đề ra chủ trương “Tiến
tới tất cả đảng viên là cán bộ, công chức đều
phải kê khai tài sản, công bố trong chi bộ,
cấp ủy và giải trình nguồn gốc khi có yêu
cầu”; nhưng kinh nghiệm PCTN cho thấy,
công chức giữ vị trí cao trong bộ máy nhà
nước, nhất là người đứng đầu các cơ quan,
tổ chức, đơn vị có nhiều quyền tự quyết
và thẩm quyền cao hơn thì càng có cơ hội
tham nhũng và nếu kiểm soát chặt chẽ các
đối tượng này thì những cán bộ, công chức
dưới quyền cũng không dám tham nhũng.
Chúng tôi cho rằng, chủ trương từng bước
mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 19(347) T10/2017
sản, thu nhập của Đảng là đúng đắn, nhưng
nên thực hiện sau khi công tác PCTN đã
thực sự có hiệu quả và cần thiết phải tiến
thêm một bước nữa để kiểm soát được cả
xung đột lợi ích của cán bộ, công chức, viên
chức. Tuy nhiên, trước mắt chưa nên mở
rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản,
thu nhập để tập trung nguồn lực tốt nhất cho
việc kiểm soát bảo đảm hiệu quả, tránh tình
trạng hình thức như thời gian qua.
- Về hình thức kiểm soát, không nên
xây dựng quy định chung thống nhất cho tất
cả các đối tượng chịu sự kiểm soát, mà thiết
lập quy định riêng cho từng nhóm đối tượng.
Hiện nay, dù vẫn còn nhiều tranh luận giữa
việc xây dựng hệ thống các quy định về kiểm
soát áp dụng chung cho tất cả các ngành,
gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp và cho
tất cả các cán bộ, công chức từ bộ trưởng
đến công chức thường; nhưng với việc quy
định riêng theo phân cấp trách nhiệm, thẩm
quyền thì việc đầu tư nguồn lực tập trung
sẽ dễ dàng và đạt được hiệu quả cao hơn.
Do đó, chúng tôi cho rằng, Luật chỉ nên quy
định nguyên tắc chung về hình thức kiểm
soát, còn mỗi cơ quan quản lý công chức có
thể xây dựng quy tắc kiểm soát riêng dựa
trên nguyên tắc chung đó cho phù hợp với
từng vị trí công tác nhằm bảo đảm kiểm soát
có hiệu quả.
- Tài sản, thu nhập thuộc đối tượng
kiểm soát: Trong khi hệ thống pháp luật về
thuế thu nhập và thanh toán không sử dụng
tiền mặt của Việt Nam chưa hoàn thiện, còn
nhiều sơ hở thì việc lựa chọn tài sản, thu
nhập phải kê khai dựa trên giá trị như Luật
PCTN hiện hành là phù hợp. Tuy nhiên,
chúng ta cũng mới chỉ kiểm soát được đầu
vào (nghĩa là kiểm soát việc kê khai những
tài sản, thu nhập phát sinh) mà chưa kiểm
soát được đầu ra (các khoản chi tiêu thường
xuyên, bất thường, nhất là các khoản chi tiêu
có giá trị lớn) dẫn đến việc xác minh tài sản,
thu nhập rất khó khăn và trong nhiều trường
hợp, bản thân người có chức vụ, quyền hạn
cũng khó chứng minh tài sản đó được mua
bằng nguồn tiền nào, cho dù nguồn tiền đó
là hợp pháp.
- Nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc tài
sản, thu nhập và cơ chế xác minh việc kê
khai tài sản, thu nhập: Luật PCTN mới chủ
yếu dựa vào tính tự giác của người có nghĩa
vụ kê khai, chỉ trừ một số trường hợp nhất
định như khi có tố cáo về việc không trung
thực trong kê khai; khi xét thấy cần có thêm
thông tin phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm,
cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ
luật đối với người có nghĩa vụ kê khai; khi
có căn cứ cho rằng việc giải trình nguồn gốc
tài sản tăng thêm không hợp lý hoặc khi có
yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền. Do đó, trong trường hợp nếu
có căn cứ cho thấy tài sản của cán bộ, công
chức, viên chức tăng lên bất thường thì cũng
không có căn cứ để xác minh tài sản, thu
nhập. Vì vậy, cần có những quy định trong
việc xác minh theo xác suất để tăng cường
hơn tính răn đe đối với công chức cố tình
không kê khai hoặc kê khai không trung
thực. Bên cạnh đó là việc quy định chặt chẽ,
rõ ràng hơn về quy trình xác minh, việc cung
cấp tài liệu, thông tin cho cơ quan xác minh
để bảo đảm không bị lạm dụng và tránh
làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của
người có nghĩa vụ kê khai. Đồng thời, cũng
chỉ nên quy định một hoặc một số cơ quan
có thẩm quyền xác minh tài sản, thu nhập
để bảo đảm rằng công chức của các cơ quan
này phải thực sự có trình độ, kinh nghiệm
trong hoạt động điều tra, xác minh tính hợp
pháp và bất hợp pháp của tài sản, thu nhập,
kèm theo đó là quy định cụ thể về nhiệm vụ,
quyền hạn, bảo đảm tính độc lập cho hoạt
động của cơ quan này, cơ chế xử lý nghiêm
minh, bảo đảm tài chính cho hoạt động của
cơ quan này thực sự có hiệu quả.
- Việc xử lý tài sản không chứng minh
được nguồn gốc hợp pháp: Ngoài việc các
cơ quan chức năng, nhất là cơ quan tiến hành
tố tụng nếu không chứng minh được tài sản
do phạm tội mà có thì hệ thống pháp luật
hiện nay cũng đã có một số quy định nhất
định trong việc xử lý tài sản, thu nhập không
chứng minh được nguồn gốc hợp pháp như
Thuế TNCN quy định về truy thu thuế và
xử phạt hành chính đối với các trường hợp
kê khai thuế không trung thực; Bộ luật Dân
sự quy định trường hợp xử lý tài sản vô chủ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 19(347) T10/2017
phương và cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước được Hiến pháp quy định, song
Nhà nước không thể làm hết mọi công việc
trong xã hội. Hiện nay, hoạt động tự quản
của người dân đang được phát huy và đã có
đóng góp đáng kể vào quản lý xã hội. Đây
là kết quả quan trọng trong việc dân chủ hóa
các hoạt động kinh tế - xã hội, sự đổi mới
rất cơ bản về mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đây cũng là nét đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam - một
nhà nước mang tính nhân dân sâu sắc.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
phải giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân, tính nhân dân của Nhà nước
XHCN, bảo đảm Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam không chỉ là Nhà nước
của giai cấp công nhân mà còn là Nhà nước
của các tầng lớp nhân dân và các dân tộc
Việt Nam. Đồng thời, phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân, tính dân tộc trong
xây dựng nhà nước pháp quyền, không tuyệt
đối hóa hay xem nhẹ mặt nào.
Vận dụng những thành tựu của Cách
mạng Tháng Mười trong điều kiện mới,
chúng ta tiếp tục nghiên cứu, nắm vững
và thực hiện tốt những định hướng cơ bản
trên để không chỉ làm cho việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thu
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng; mà
còn là sự khẳng định, bổ sung, phát triển
những giá trị lịch sử và bài học thực tiễn
của Cách Mạng tháng Mười trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đặc
biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, trên cơ sở đó để Đảng, Nhà nước đề ra
chủ trương, đường lối đúng đắn lãnh đạo
nhân dân ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN trong tình hình mới
hoặc tài sản của Nhà nước bị chiếm giữ
trái phép Do đó, Luật PCTN cần phải có
những quy định cụ thể trong việc chuyển
những vụ việc mà người có chức vụ, quyền
hạn không chứng minh được nguồn gốc hợp
pháp của tài sản sang cơ quan quản lý thuế,
cơ quan điều tra để tiến hành các thủ tục về
truy thu thuế, xử phạt hành chính và trường
hợp nếu cơ quan điều tra chứng minh được
tài sản do phạm tội mà có thì tiến hành các
thủ tục thu hồi tài sản theo tố tụng.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về kết
nối thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong theo dõi di, biến động tài sản của
người có chức vụ, quyền hạn.
Cần xác định rõ cơ quan chịu sự kiểm
soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Có cơ chế cho việc kết nối thông tin giữa
bản kê khai tài sản, thu nhập với bản kê khai
thuế TNCN, các giao dịch ngân hàng và các
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối
với bất động sản, động sản phải đăng ký của
người có chức vụ, quyền hạn. Chỉ khi theo
dõi được những di, biến động đó thì mới có
thể dễ dàng trong phát hiện các loại tài sản
tăng lên bất thường. Do đó, chúng tôi cho
rằng, nên thành lập một trung tâm độc lập có
chức năng quản lý và theo dõi việc kê khai
tài sản, thu nhập; có quyền sử dụng dữ liệu
của các cơ quan khác nhằm so sánh, tổng
hợp thông tin về các biến động tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về hình sự, hành chính, cán bộ, công chức,
viên chức và dân sự để bảo đảm xử lý được
cán bộ, công chức, viên chức có hành vi
kê khai gian dối và thu hồi được tài sản có
nguồn gốc bất minh cũng như cơ chế xử lý
hành vi làm giầu bất hợp pháp
(Tiếp theo trang 6)
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ ...
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 19(347) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_kiem_soat_tai_san_thu_nhap_cua_nguoi_co_chuc_vu.pdf