Phát hiện, thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự - Từ quy định của pháp luật đến kinh nghiệm thực tiễn

Đối với dấu vết, khi thu thập phải ghi rõ trong biên bản các nội dung: Dấu vết thu thập là dấu vết gì, vị trí của dấu vết, đặc điểm về màu sắc, chiều hướng, độ cũ, mới của dấu vết; Về tên của dấu vết cần ghi rõ đó là dấu vết gì: Vân tay, vết máu, vết cày, vết cạy phá, dấu chân, dấu tay. Về đặc điểm của dấu vết: cần mô tả các nội dung hình dáng, kích thước, màu sắc và các đặc điểm khác của dấu vết. Ví dụ trong vụ án tai nạn giao thông, khi điều tra viên khám nghiệm ghi biên bản phải mô tả đầy đủ các dấu vết trên xe, trên mặt đường, chiều hướng của từng dấu vết, từ trái qua phải hay từ phải qua trái; kích thước của dấu vết, độ dài của dấu vết và vị trí từng dấu vết; để sau này phục vụ tốt cho công tác giám định làm rõ nguyên nhân tai nạn. Về vị trí của dấu vết, khi mô tả phải xác định các điểm chuẩn xung quanh và trên cơ sở đó mô tả khoảng cách của dấu vết so với các điểm chuẩn theo các hướng và so với các dấu vết khác để từ đó có thể xác định mối liên hệ giữa các dấu vết. Thu thập dấu vết thường được thực hiện bằng các phương pháp như chụp ảnh, ghi vào biên bản, lập sơ đồ (sơ đồ chung và sơ đồ riêng), đổ khuôn thạch cao hoặc bằng siliken (đối với các dấu vết ở dạng hằn), sao in bằng giấy poly (đối với dấu vết tay), thu vật mang vết. Bảo quản các dấu vết và vật mang vết phải thực hiện theo nguyên tắc là đóng gói riêng từng dấu vết, từng vật mang dấu vết và bên ngoài phải ghi rõ: số thứ tự, tên vụ án, thời gian và nơi xảy ra vụ án, họ tên người phát hiện, thu thập và bảo quản. Trong thực tiễn điều tra, truy tố thường sử dụng các vật dụng như bìa cứng, hộp cát tông, ống thủy tinh để bảo đảm an toàn trong thu thập, vận chuyển, nghiên cứu và lưu giữ. Đối vỡi các dấu vết thu thập bằng cách sao in qua giấy poly phải bảo quản nơi khô ráo, thoáng gió, khi vận chuyển phải để trong phong bì, không được để các vật nặng đè lên phong bì đựng dấu vết.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát hiện, thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự - Từ quy định của pháp luật đến kinh nghiệm thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 10 PHÁT HIỆN, THU THẬP, BẢO QUẢN NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẾN KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Đỗ Thị Ngọc Tuyết1 Tóm tắt: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự thực chất là quá trình phát hiện thu thập, củng cố, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Mọi giai đoạn của tiến trình giải quyết vụ án hình sự đều được mở ra và kết thúc từ vấn đề chứng cứ, bởi vì “...chứng cứ được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”2. Thực tiễn đã chứng minh rằng: nếu không có hoạt động phát hiện, thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ thì cũng không có chứng cứ để đánh giá và sử dụng nhằm “... phát hiện chính xác, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội...”3. Bài viết muốn trao đổi cùng bạn đọc một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) về nguồn chứng cứ, về kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động phát hiện, thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ khóa: Vụ án hình sự; tố tụng hình sự; chứng cứ; tội phạm. Ngày nhận bài: 10/01/2018; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng: 30/1/2018. Abstract: Process of demonstration in criminal procedure is the process of finding, collecting, enhancing, assessing and using evidence. All stages of solving criminal cases are opened and ended from evidence because “ evidence is used as ground to prove there are the act of committing crime, the offender and other facts needed for properly solving the case or not”. The reality shows that: If there is no activity of finding, collecting, maintaining evidence source, there is no evidence for assessment and usage in order to “.properly finding, equally and timely solving all acts of committing crime, preventing crime, not missing offenders, not making wrongful sentence”. The article exchanges views with readers on some regulations of the Criminal Procedure Code 2015 regarding to evidence source, practical experience of finding, collecting, maintaining evidence source in solving criminal cases. Keywords: Criminal cases; criminal procedure; evidence; offenders. Date of receipt:10/01/2018 ; Date of revision:18/01/2018 ; Date of approval: 30/1/2018. Phát hiện, thu thập và bảo quản chứng cứ trong vụ án hình sự có mối liên hệ mật thiết với nhau, là hoạt động mang tính khoa học, tính pháp lý, thực tiễn nên phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, phải khách quan, tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của BLTTHS4. Cần phải nhận thức thống nhất là: chứng cứ chỉ có trong các nguồn chứng cứ được quy định trong BLTTHS. Sau đây là một số điểm đặc thù cần lưu ý của việc phát hiện, thu thập, bảo quản các nguồn chứng cứ. 1. Vật chứng Theo quy định tại Điều 74 BLTTHS năm 2003, Điều 89 BLTTHS năm 2015, vật chứng bao gồm vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm; vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền và những 1 Tiến sỹ, Giảng viên cao cấp, Học viện Tư pháp 2 Khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm 2003; Điều 86 BLTTHS năm 2015 3 Điều 2 BLTTHS năm 2015 4 Khoản 2 Điều 64 BLTTHS năm 2003; Điều 87 BLTTHS năm 2015 Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 11 vật khác được thu thập theo trình tự luật định và có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội. Những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội có thể là súng, dao, lê, gậy, côn để giết người hoặc gây thương tích; vam, kìm cộng lực để phá, cắt khóa, thang để trèo vào nhà lấy trộm; phương tiện để chở hàng phạm pháp như xe máy, ô tô...; Vật mang dấu vết của tội phạm có thể là đồ vật có dính vết máu thu được ở hiện trường vụ án giết người, đồ vật có in dấu vân tay, chân, giày dép...khi khám nghiệm hiện trường hoặc khám xét; Vật là đối tượng của tội phạm có thể là tiền, tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt hoặc có mục đích chiếm đoạt. Ngoài các vật nêu trên, những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội cũng là vật chứng, như đồ vật, tài sản người phạm tội đã mua sắm hoặc có được bằng tiền phạm tội mà có. Để phát hiện được các loại vật chứng nêu trên có thể sử dụng các phương pháp như i) quan sát bằng mắt thường kết hợp với ánh sáng tự nhiên hoặc ánh sáng nhân tạo, ii) sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phát hiện như kính lúp, kính hiển vi soi nổi, so sánh... kết hợp sử dụng các loại bột kim loại, chất hóa học như bột sắt, đồng... Ví dụ, (1) Phát hiện dấu vết cậy, phá, mở khóa cần sử dụng ánh sáng kết hợp sự quan sát của mắt để có thể sơ bộ kết luận xem khóa đã bị cậy, phá, cắt bằng cách nào, bằng phương tiện gì... (2) Phát hiện dấu vết máu ở hiện trường bằng cách quan sát, thông thường vết máu tại hiện trường ở dạng đọng thành vũng, mảng, có khi là các vết nhỏ li ti dạng máu phun...quan sát màu của vết máu cho thấy có thể ở dạng màu đỏ, màu đỏ sẫm hoặc đỏ nâu...do phụ thuộc vào thời gian, yếu tố môi trường, nhiệt độ không khí. Cần tìm những dấu vết này ở nơi thủ phạm đập phá, lục lọi, lau chùi, rửa chân tay, thay quần áo, ở đồ vật, hung khí bị vứt bỏ và tìm kỹ ở các khe kẽ khuất kín của các phương tiện, vật dụng, hung khí; (3) Phát hiện các dấu vết lông, tóc, chất bài tiết, chất nội tiết trong các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người. Trước hết phải xác định phạm vi có thể để lại các loại dấu vết này, cụ thể là chúng thường tập trung nơi thủ phạm đi vào hoặc thoát ra khỏi hiện trường như tường rào, tường đổ, mảnh vỡ, các đồ vật do thủ phạm đánh rơi như áo, mũ, khăn, giày dép. Nếu là hiện trường trong nhà, cần chú ý tìm kiếm ở nền nhà, giường chiếu, chăn, góc bàn, tủ, găng tay hoặc ở các công cụ gây án. Trường hợp xác định được nạn nhân thì cần quan sát, tìm kiếm các dấu vết nêu trên ở móng tay, kẽ bàn tay, xung quanh bộ phận sinh dục. Điều 105 BLTTHS năm 2015 quy định: “Vật chứng phải được thu thập kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh, có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản theo quy định của pháp luật”. Vật chứng thường được phát hiện, thu giữ, tạm giữ trong các trường hợp: i) khi thực hiện các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét; ii) khi người làm chứng, bị hại, bị can chỉ nơi có vật chứng để cơ quan có thẩm quyền thu thập; iii) người tham gia tố tụng, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc người dân mang vật chứng đến nộp cho cơ quan tiến hành tố tụng và iv) người, cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành các hoạt động đấu tranh chống tội phạm đã phát hiện và thu thập. Việc thu thập vật chứng thường được tiến hành như sau: Thứ nhất, khi phát hiện có vật chứng tại chỗ nào thì phải đảm bảo sự có mặt của người chứng kiến, trường hợp khám xét chỗ ở thì phải có thêm chủ nhà hoặc đại diện của họ. Sau đó người có thẩm quyền thận trọng lấy vật chứng ra khỏi nơi đó và chuyển về một địa điểm có người coi giữ lập biên bản. Các vật chứng được thu giữ, tạm giữ phải được cân, đong, đo, đếm và ghi cụ thể vào biên bản; Thứ hai, có biện pháp thu thập, bảo quản phù hợp với từng vật chứng. Ví dụ: i) nếu vật chứng thuộc loại quan trọng như cờ, điều lệ hoạt động, danh sách các thành viên trong các tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân hoặc những phương tiện thông tin liên lạc, tài liệu tình báo trong các vụ án gián điệp thì phải chụp ảnh cùng với bị can (hoặc người bị buộc tội) tại nơi HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 12 phát hiện. Những vật chứng có thể xác nhận vào góc hay phía sau thì yêu cầu bị can hoặc đại diện của họ ký xác nhận vào đó; ii) nếu vật chứng ở thể lỏng thì phải cho vào lọ thủy tinh hoặc túi PE; iii) nếu vật chứng là vũ khí, chất dễ nổ, dễ cháy thì phải đưa về trạng thái an toàn, tuyệt đối không dược để gần lửa, khi vận chuyển cần tránh để va chạm mạnh. Thứ ba, phải niêm phong ngay tại nơi thu thập đối với những vật chứng dễ biến dạng, biến chất, cần đưa đi giám định, chất độc, chất gây ô nhiễm, vàng, bạc, kim loại quý. Thứ tư, lập biên bản và bản thống kê vật chứng. Khi thu thập vật chứng, phải ghi cụ thể trong biên bản các nội dung sau: Vật gì, tên của vật được gọi là gì. Ví dụ con dao, khẩu súng, hay công cụ phương tiện khác, nếu là mô tô xe máy, thì phải ghi rõ biển số, số khung, số máy. Đặc điểm của vật, tùy từng loại vật mà có cách mô tả cụ thể, nhưng nhìn chung phải thể hiện được các nội dung: Số lượng, chất lượng, trọng lượng, khối lượng, hình dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, tính nguyên vẹn và trạng thái mới, cũ của vật (ví dụ thu giữ con dao tại hiện trường, kích thước về độ dài, độ rộng, phần cán, phần lưỡi của từng con dao, dấu vết để lại trên con dao; thu được một cái gậy có dính máu ở hiện trường thì phải ghi rõ gậy được làm từ chất liệu gì, kích thước dài, rộng là bao nhiêu, máu dính ở phần nào của gậy, màu của máu, trên thân có phát hiện dấu tay hay dấu vết gì khác không...) Những dấu vết của tội phạm để lại trên vật chứng. Trường hợp trên vật chứng có dấu vết thì phải mô tả dấu vết theo nội dung củng cố dấu vết đã nêu trên. Phải mô tả từng dấu vết, kích thước của dấu vết, màu sắc của dấu vết, chiều hướng của dấu vết. Nơi tìm thấy vật: Nơi tìm thấy vật và cách thức giấu vật liên quan chặt chẽ tới giá trị chứng minh của chứng cứ, giá trị pháp lý của chứng cứ, làm phát sinh căn cứ pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng khác. Ví dụ: thu giữ dấu vết vật chứng trên người hoặc nơi ở của đối tượng, thì có thể tiến hành bắt khẩn cấp đối tượng (Điểm c Khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003)5, còn thu giữ ở nơi khác, thì căn cứ vào việc thu giữ vật chứng không bắt khẩn cấp đối tượng được. Bảo quản vật chứng phải đảm bảo yêu cầu giữ được sự nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng vật chứng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng vật chứng phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Điều 75 BLTTHS năm 2003, Điều 90 BLTTHS năm 2015 quy định: Tất cả vật chứng khi được phát hiện phải tiến hành thu thập ngay, phải được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng, trừ các trường hợp: vật không thể di chuyển về kho vật chứng, đã được giao cho cơ quan, tổ chức hoặc người có trách nhiệm bảo quản theo quy định của pháp luật; tài liệu (như giấy tờ, tranh, ảnh...) có số lượng ít, đã xếp vào hồ sơ vụ án và đã được giao cho cán bộ thụ lý vụ án quản lý theo chế độ công tác hồ sơ; vật đã được giao cho cơ quan thụ lý vụ án quản lý trong thời gian sử dụng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử; vật chứng cần giao cho cơ quan chuyên trách bảo quan; vật thuộc loại mau hỏng, không thể bảo quản lâu tại kho vật chứng (như lương thực, thực phẩm tươi sống, dược phẩm, dược liệu ...), được chuyển cho cơ quan chức năng để tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Việc xử lý vật chứng phải tuân thủ đúng quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2003, Điều 106 BLTTHS năm 2015. 2. Lời khai, lời trình bày Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) nước ta quy định: Chứng cứ được xác định từ lời khai, lời trình bày của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người tố giác, báo tin về tội phạm; Người chứng kiến; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm; bị can, bị cáo. Lời khai, lời trình bày được ghi nhận và lưu giữ trong các loại tài liệu như biên bản ghi lời 5 Điểm c khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 quy định cũng những căn cứ như trên nhưng chỉ được giữ người trong trường hợp khẩn cấp Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 13 khai, bản trình bày, đơn trình báo. Các tài liệu này được sử dụng làm nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án nên các thông tin chứa đựng trong đó phải đảm bảo tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Thu thập chứng cứ là lời khai của bị can, bị cáo; Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ; Lời trình bày của bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động điều tra cụ thể thì ngoài việc phải tuân thủ các thủ tục pháp luật quy định còn phải tuân thủ những thủ tục khác như: không được hỏi cung vào ban đêm (trừ khi không thể trì hoãn và phải ghi rõ lý do vào biên bản); thủ tục tách riêng từng người hỏi cung, lấy lời khai, thủ tục tham dự của người đại diện trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi; thủ tục tham gia tố tụng của người giám hộ trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. 3. Dữ liệu điện tử Dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ mới được quy định tại Điều 99 BLTTHS năm 2015. Việc ghi nhận dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ góp phần giải quyết nhiều vướng mắc của thực tiễn, đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án về các tội phạm sử dụng công nghệ cao. Các loại dữ liệu điện tử bao gồm ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Điểm đặc thù của dữ liệu điện tử chính là phương thức tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi các phương tiện điện tử thay vì dữ liệu in ấn theo phương thức truyền thống. Thực tế dữ liệu điện tử rất đa dạng, có thể là ký hiệu, chữ viết, chữ số, âm thanh, hình ảnh hoặc dạng tương tự được thể hiện dưới hình thức tín hiệu điện tử lưu trữ trong máy tính hoặc các trang thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số. Đó có thể là những vật chứng được phát hiện và thu giữ tại nơi tội phạm xảy ra, mang dấu vết tội phạm như: “cookies”, “URL”, web server logs, Email logs (đây là những thông tin do máy tính tạo ra); hoặc cũng có thể là những thông tin điện tử do con người tạo ra được lưu giữ trong máy tính hoặc các thiết bị điện tử khác, như các văn bản, bảng biểu, các hình ảnh, thông tin được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử. Dữ liệu điện tử có tính đặc thù như trên nên trước tiên cần phát hiện nó là gì, là phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền hoặc các nguồn điện tử khác. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác. Việc phát hiện, thu giữ cũng như phục hồi chứng cứ điện tử cần phải được tiến hành một cách khẩn trương nhưng thận trọng, yêu cầu sự cụ thể và chính xác cao. Một trong những nguồn chứng cứ quan trọng trong các vụ án sử dụng công nghệ cao để phạm tội là những vật chứng thu giữ tại nơi tội phạm xảy ra, mang dấu vết tội phạm hoặc cũng có thể là những thông tin điện tử do con người tạo ra được lưu giữ trong máy tính hoặc các thiết bị điện tử khác, như các văn bản, bảng biểu, các hình ảnh, thông tin được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử. Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc trong thu thập chứng cứ nói chung, hoạt động thu thập chứng cứ điện tử phải tuân thủ quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2015, phải đáp ứng những yêu cầu đặc thù như bảo vệ tính nguyên trạng của dữ liệu được lưu trữ trong phương tiện điện tử, việc ghi lại dữ kiệu (copy) phải được thực hiện đúng quy trình và sử dụng các thiết bị đáng tin cậy và phần mềm được thế giới công nhận, có thể kiểm chứng được trong quá trình thu thập. Phải bảo vệ được tính nguyên vẹn của dữ liệu điện tử lưu trong máy. Việc thu thập dữ liệu điện tử đòi hỏi phải là những chuyên gia được đào tạo để thực hiện việc thu thập, phục hồi chứng cứ điện tử, về các phương thức tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được dữ liệu điện tử. Khi thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử, phải đảm bảo tính khách quan, tính nguyên trạng và tính kiểm chứng được của chứng cứ, đảm bảo khi được Tòa án triệu tập phải chứng minh được quá trình khôi phục dữ liệu, tìm được chứng cứ; khi cần thiết HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 14 có thể lặp lại quá trình đi tới kết quả tương tự. Việc phục hồi chứng cứ điện tử trên máy tính và các thiết bị điện tử số chính là hoạt động khôi phục lại trạng thái làm việc của máy tính, thiết bị điện tử số khi đối tượng đang sử dụng thì bị thu giữ; là quá trình tìm kiếm các dữ liệu đã được lưu giữ trong quá trình sử dụng trên máy tính, bao gồm cả dữ liệu đã bị xóa khỏi máy tính, đó còn là quá trình khôi phục, phân tích, tìm kiếm, thu giữ những dữ liệu có liên quan đến vấn đề chứng minh tội phạm. Để phục hồi các chứng cứ điện tử, đầu tiên cần phải thu giữ đầy đủ vật chứng là công cụ, phương tiện để phạm tội, phải bảo quản tốt những vật chứng thu được để phục vụ cho quá trình phục hồi. 4. Kết luận giám định, định giá tài sản Kết luận giám định, kết luận định giá tài sản được xác định là nguồn chứng cứ quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự, bởi vậy yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền phải phát hiện, xác định chính xác trong vụ án cụ thể này có trường hợp nào bắt buộc phải trưng cầu giám định theo quy định tại khoản 3 Điều 155 BLTTHS năm 2003, Điều 206 BLTTHS năm 2015. Nếu có trường hợp phải bắt buộc trưng cầu giám định thì phải ra quyết định trưng cầu giám định, ở đó phải nêu rõ những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định. Cá nhân, cơ quan, tổ chức giám định trên cơ sở kiến thức chuyên môn của mình đánh giá và kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận đó. Để làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định, cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định giải thích kết luận giám định; hỏi thêm người giám định về những tình tiết cần thiết. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lí do. Nếu kết luận chưa rõ, chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. BLTTHS năm 2015, Điều 101 đã quy định định giá tài sản là một trong các hoạt động điều tra, người định giá là người tham gia tố tụng và kết luận định giá là một nguồn chứng cứ. Kết luận định giá tài sản là tài liệu có giá trị trong hồ sơ vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, tội phạm chức vụ, tội phạm kinh tế. Kết luận định giá tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để kết luận về giá của tài sản được yêu cầu. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền phải phát hiện, xác định chính xác tài sản cụ thể nào cần được định giá để phục vụ việc giải quyết vụ án, sau đó ban hành quyết định yêu cầu định giá tài sản 5. Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án Biên bản về hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án là biên bản ghi nhận quá trình tiến hành các hoạt động này. Ví dụ: Biên bản kiểm tra, xác minh nguồn tin tội phạm, biên bản khám xét, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản phiên tòa. Các biên bản này là một trong những nguồn chứng cứ, các tình tiết được ghi trong biên bản có thể được coi là chứng cứ nếu nó phù hợp với các tình tiết khác trong vụ án. Các biên bản hoạt động tố tụng, ngoài việc phản ánh trung thực diễn biến và kết quả hoạt động tố tụng như địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ. Biên bản hoạt động tố tụng phải có chữ ký của những người mà BLTTHS quy định mới có giá trị pháp lý và mới được sử dụng làm nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 87 BLTTHS năm 2015. Ví dụ: biên bản hỏi cung bị can phải có chữ ký của Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên (trong trường hợp KSV hỏi cung) và bị can, trong trường hợp hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện của bị can chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần, thể chất thì phải có thêm chữ ký của những người này. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa (nếu có) trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của người tiến hành hỏi cung, bị can và người có mặt. Các biên bản phải được lập theo quy định tại các Điều 95, 125 BLTTHS năm 2003, các Điều 178,258, 259 BLTTHS năm 2015, phải phản ánh chính xác hoạt động tố tụng đã diễn ra. Việc vi Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 15 phạm các quy định về lập biên bản sẽ làm cho biên bản không có giá trị và các tình tiết được ghi nhận trong biên bản không được coi là chứng cứ. 6. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác Đây là quy định mới trong BLTTHS năm 2015 (Điều 103), được bổ sung là một trong số các nguồn chứng cứ. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay, giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài như vụ án do người nước ngoài thực hiện ở Việt Nam, vụ án mà hành vi phạm tội được thực hiện ở cả Việt Nam và nước ngoài, người có liên quan đến vụ án ở nước ngoài, việc thực hiện ủy thác tư pháp và các hình thức hợp tác quốc tế khác giữ một vai trò quan trọng. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. 7. Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án Đối với dấu vết, khi thu thập phải ghi rõ trong biên bản các nội dung: Dấu vết thu thập là dấu vết gì, vị trí của dấu vết, đặc điểm về màu sắc, chiều hướng, độ cũ, mới của dấu vết; Về tên của dấu vết cần ghi rõ đó là dấu vết gì: Vân tay, vết máu, vết cày, vết cạy phá, dấu chân, dấu tay. Về đặc điểm của dấu vết: cần mô tả các nội dung hình dáng, kích thước, màu sắc và các đặc điểm khác của dấu vết. Ví dụ trong vụ án tai nạn giao thông, khi điều tra viên khám nghiệm ghi biên bản phải mô tả đầy đủ các dấu vết trên xe, trên mặt đường, chiều hướng của từng dấu vết, từ trái qua phải hay từ phải qua trái; kích thước của dấu vết, độ dài của dấu vết và vị trí từng dấu vết; để sau này phục vụ tốt cho công tác giám định làm rõ nguyên nhân tai nạn. Về vị trí của dấu vết, khi mô tả phải xác định các điểm chuẩn xung quanh và trên cơ sở đó mô tả khoảng cách của dấu vết so với các điểm chuẩn theo các hướng và so với các dấu vết khác để từ đó có thể xác định mối liên hệ giữa các dấu vết. Thu thập dấu vết thường được thực hiện bằng các phương pháp như chụp ảnh, ghi vào biên bản, lập sơ đồ (sơ đồ chung và sơ đồ riêng), đổ khuôn thạch cao hoặc bằng siliken (đối với các dấu vết ở dạng hằn), sao in bằng giấy poly (đối với dấu vết tay), thu vật mang vết. Bảo quản các dấu vết và vật mang vết phải thực hiện theo nguyên tắc là đóng gói riêng từng dấu vết, từng vật mang dấu vết và bên ngoài phải ghi rõ: số thứ tự, tên vụ án, thời gian và nơi xảy ra vụ án, họ tên người phát hiện, thu thập và bảo quản. Trong thực tiễn điều tra, truy tố thường sử dụng các vật dụng như bìa cứng, hộp cát tông, ống thủy tinh để bảo đảm an toàn trong thu thập, vận chuyển, nghiên cứu và lưu giữ. Đối vỡi các dấu vết thu thập bằng cách sao in qua giấy poly phải bảo quản nơi khô ráo, thoáng gió, khi vận chuyển phải để trong phong bì, không được để các vật nặng đè lên phong bì đựng dấu vết. BLTTHS quy định những người tham gia tố tụng và bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đều có thể cung cấp các tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giải quyết vụ án. Các tình tiết liên quan đến vụ án ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu nó thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ. Trong thực tiễn, các tài liệu đồ vật này rất đa dạng, ví dụ: tài liệu về nhân thân bị can, bị cáo; bản nhận xét của trường học hoặc của các cơ sở đào tạo về bị can đang là học sinh của trường, của cơ sở đào tạo đó; khẩu súng, côn sắt nghi là công cụ phạm tội được người dân phát hiện, tìm thấy và nộp cho Cơ quan tố tụng. Trường hợp tài liệu, đồ vật khác trong vụ án nếu được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm; vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội thì được coi là vật chứng. Trên đây là những điểm đặc thù, những kinh nghiệm thực tiễn trong phát hiện, thu thập, bảo quản các nguồn chứng cứ để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự và giải quyết đúng đắn, khách quan, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội./. Tài liệu tham khảo 1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. 2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_hien_thu_thap_bao_quan_nguon_chung_cu_trong_vu_an_hinh.pdf
Tài liệu liên quan