Thứ ba, gắn công tác bảo tồn, khai thác
luật tục về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường nhằm phát triển sự bền vững các
vùng dân tộc thiểu số với công tác thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của đồng bào các
dân tộc thiểu số.
Luật tục là tài sản vô giá của các dân
tộc thiểu số. Bởi vậy, để bảo tồn và khai
thác được giá trị của luật tục phục vụ cho
nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường, trước hết phải khơi dậy quyền
được làm chủ của đồng bào dân tộc thiểu số
với núi rừng, nguồn nước, nương rẫy. Quyền
làm chủ đó sẽ được nhân lên khi chính quyền
cấp cơ sở, các cơ quan quản lý nhà nước đưa
ra được những hoạt động phù hợp để thu hút
họ trong khối đại đoàn kết.
Một trong những mục đích cơ bản khi
xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện và
triển khai pháp luật đến các vùng dân tộc
thiểu số là làm thay đổi nhận thức của cán
bộ và đồng bào dân tộc đối với việc bảo
tồn, khai thác và phát huy giá trị của luật
tục nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường. Vì vậy, Nhà nước cần chú trọng,
quan tâm hướng dẫn, tạo điều kiện cho các
bản, làng, khi xây dựng quy ước của buôn,
bản, làng, cần kế thừa, tiếp thu di sản, tinh
hoa của luật tục trước đây nhằm nâng cao
nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số
về các giá trị tích cực của luật tục; nhận biết
được các nội dung lạc hậu, mê tín dị đoan
trái pháp luật, xoá bỏ những nội dung luật
tục không phù hợp và tự giác thực hiện pháp
luật của Nhà nước.
Quá trình tiếp thu, kế thừa và phát huy
giá trị của luật tục là một quá trình lâu dài và
phức tạp. Vì vậy, trong quá trình thực hiện,
cần phải xây dựng một cơ chế sử dụng và
cải biến luật tục linh hoạt, có khả năng thích
ứng cao trong những điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy giá trị của luật tục trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Luật tục như là bộ “bách khoa thư” về đời sống mọi mặt, chứa đựng
các tri thức dân gian vô cùng phong phú, đúc rút từ kinh nghiệm sống
của nhiều thế hệ. Luật tục đóng vai trò quan trọng trong đời sống của
đồng bào các dân tộc thiểu số và góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên và môi trường.
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LUẬT TỤC TRONG BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Hoàng Văn Quynh*
Abstract:
The customary is known as the “Encyclopedia” of all aspects of the
social life, which contains rich folk knowledge, derived from the
experience through several generations. The customism plays an
important role in the lives of ethnic minorities and contributes to the
protection of natural resources and the environment.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật tục, tài nguyên thiên
nhiên, dân tộc thiểu số, pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 01/09/2017
Biên tập: 04/11/2017
Duyệt bài: 11/11/2017
Article Infomation:
Keywords: The customary, natural
resources, ethnic minorities, laws
Article History:
Received: 01 Sep. 2017
Edited: 04 Nov. 2017
Appproved: 11 Nov. 2017
* ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luật tục là một hệ thống các quy tắc xử sự mang tính dân gian, quy định về mối quan hệ
ứng xử của con người đối với môi trường
tự nhiên và con người với con người trong
cộng đồng, thể hiện ý chí của toàn thể cộng
đồng, được thực hiện một cách tự giác,
theo thói quen, truyền khẩu, nhưng vẫn có
tính cưỡng chế và bắt buộc đối với mọi
người. Luật tục là những quy định do cộng
đồng đặt ra để điều hoà mối quan hệ của
tập thể cộng đồng một cách tự nguyện và
dân chủ.
Ở Việt Nam, luật tục có phạm vi ảnh
hưởng khá lớn đối với đời sống của nhiều
cộng đồng dân tộc thiểu số. Luật tục tác
động đến các quan hệ dân sự, hôn nhân gia
đình; giáo dục, văn hoá, tín ngưỡng; lĩnh
vực quản lý sử dụng đất đai, bảo vệ sản xuất,
tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 22(350) T11/2017
Trong sự phát triển của đời sống kinh
tế - xã hội hiện nay, luật tục vẫn đang thể
hiện những mặt tích cực và hạn chế nhất
định, nhất là trong việc bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường.
1. Vai trò của luật tục đối với việc bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Trong các bộ luật tục của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, ngoài việc quy định các
vấn đề xã hội, quản lý cộng đồng thì vấn đề
bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường sinh thái cũng được quy định rất cụ
thể. Các bộ luật tục là một kho tàng phong
phú tri thức về tài nguyên môi trường sinh
thái. Đó là các tri thức về đất đai, rừng núi,
động thực vật... Những tri thức đó được chắt
lọc, đúc rút thành kinh nghiệm và sự hiểu
biết hàng nghìn đời của các dân tộc thiểu số.
Nhận thức được vị trí, vai trò của môi
trường thiên nhiên đối với đời sống con
người, các dân tộc thiểu số luôn đặt bản thân
mình ngang hàng và hoà mình vào thiên
nhiên, quan niệm đời sống của mình là một
phần của tự nhiên. Cho nên các điều khoản
của luật tục luôn mang yếu tố hoà đồng, tôn
trọng tự nhiên, coi các lực lượng trong tự
nhiên là người bạn tin cậy. Vì thế, cách ứng
xử ở đây không phải là sự chinh phục, khuất
phục các lực lượng tự nhiên, tàn phá, huỷ
diệt tự nhiên mà là sự hoà đồng trong thế cân
bằng, hài hoà.
Hơn nữa, để bảo vệ tốt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái,
các dân tộc thiểu số miền núi thường "thiêng
hoá" các lực lượng trong tự nhiên, coi những
lực lượng đó đều có linh hồn, có sức sống.
Cho nên, đồng bào ứng xử với thiên nhiên
không phải là với vật vô tri, vô giác. Với
việc “thiêng hoá” này, từ lâu các dân tộc
thiểu số đã hình thành một quan niệm trong
dân gian là đất đai, rừng núi, nguồn nước,
cây cối, động thực vật đều chứa đựng
những “linh hồn”, có các vị thần cai quản.
Bởi vậy, khi con người - do có nhu cầu - xâm
phạm tới thiên nhiên thì đều phải có lời cầu
khấn, phải thực hiện các nghi lễ, phải tuân
thủ các tập tục nghiêm ngặt, thậm chí xác
định, trong một số trường hợp, con người
hoàn toàn không được xâm phạm tới thiên
nhiên. Các quan niệm trên đã được phản ánh
rất rõ trong luật tục và điều đó đã góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Nói cách khác, ở đây con người đã biết lợi
dụng thế giới siêu nhiên, thế giới tâm linh
để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của
chính nơi cộng đồng họ sinh sống.
Luật tục của dân tộc Thái có nhiều
điều quy định về vấn đề này: “Mường
trong mường là Chiềng Ly Mường Muổi
và các mường ngoài trong châu Muổi, chỗ
nào cũng có phi (ma) phù hộ cho bản, cho
mường của mình. Mường nào có Minh bản
Nen mường (Minh và Nen là gốc của linh
hồn) che chở, có khúc sông sâu, suối lớn nơi
chứa đựng các loài cá, có núi rừng rợp bóng
bản mường”;
“Đầu Mường có “rừng hồn chiềng”
gọi là cửa Xen là rừng cấm kiêng rộng lớn
cây to cổ thụ mọc san sát”;
“Cuối mường có “rừng hồn chiềng”
gọi là cửa Pọng, cũng là rừng cấm kiêng
rộng lớn cây to cổ thụ mọc san sát”;
“Cạnh mường còn có khu rừng mang
tên Chiềng Kẻo là khu rừng tha ma của
mường cũng là rừng kiêng cấm không được
chặt phá”;
“Vùng nước có nơi gọi là Paks Bôm và
Pak Muổi nơi kiêng cấm để cúng, để tế trâu
đen, khấn tới chủ dòng nước của mường,
chủ rắn, chủ thuồng luồng; cạnh đó có khu
rừng cấm. Giết trâu trắng để tế trời và chủ
đất Mường”;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 22(350) T11/2017
“Vùng đất còn có các rừng gò săn, là
nơi trời đặt cho người trần gian chuyên kiếm
ăn; còn có khu rừng đầu nguồn đầu nước,
nơi ở của loài ma thiêng, không được chặt
phá bừa bãi”1
Với những quy định như vậy, người
Thái đen ở Thuận Châu (Sơn La) nói riêng
và dân tộc Thái nói chung đã bảo vệ tốt được
những cánh rừng, những nguồn nước. Quan
niệm thiêng hoá mọi mặt của đời sống xã
hội, đặc biệt là việc thiêng hoá các nguồn tài
nguyên thiên nhiên thể hiện trong luật tục đã
cho thấy những nét độc đáo của luật tục của
các dân tộc thiểu số về cách ứng xử với môi
trường, quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên. Điều này đã góp phần không nhỏ vào
việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên
nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
trước đây cũng như hiện nay.
Ở vùng Tây Nguyên, các dân tộc Êđê,
M’nông quan niệm về đất đai, sông suối,
cây cối, rừng rú gắn với ông bà tổ tiên,
với biểu tượng thiêng liêng của người Pô lăn
(chủ đất) truyền từ đời này qua đời khác:
“Đất đai, sông suối, cây rừng là cái
nong, cái nia, cái lưng của ông bà;
Ông bà là người giữ cái hang (nơi sinh
ra người Êđê), trông coi rừng, trông coi cây
Ktơng, cây Kdjar;
Nếu cây quéo không ra hoa, cây muỗm
ra hoa không tốt, đó là vì con cháu đã mất
nết, hư thân;
Vì vậy, ông bà thử hỏi trưởng buôn
xem;
Cây Kthih (cây củ ấu) trong suối đã
héo nhiều, cây môn nước trong đầm đã khô
1 Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, Luật tục Thái (Tập quán pháp), Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 1999; tr.156
2 Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Luật tục Êđê (Tập quán pháp), (1996), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.470-471.
nhiều, phải chăng, có những người là anh
chị em của nhau mà lăng nhăng tằng tịu
với nhau;
Ông bà hãy hỏi trưởng buôn, ông bà sẽ
phạt kẻ có tội một lợn, ông bà sẽ đòi kẻ có
tội một gà”2.
Như vậy, luật tục đã coi mọi lỗi lầm
của con người, từ lười nhác, trộm cắp, loạn
luân tức là con người làm những điều xấu
đều để lại hậu quả làm cho đất đai, rừng rú,
nguồn nước bị “ô uế”, khiến cho thần linh
tức giận và trừng phạt.
Luật tục các dân tộc thiểu số thể hiện
cái nhìn nhân văn với các lực lượng trong
tự nhiên. Luật tục coi việc phá hoại, làm ô
uế đất đai, sông suối, nguồn nước, cỏ cây
là sự xúc phạm tới thần linh. Tinh thần của
luật tục đã định hướng cách ứng xử của con
người với thiên nhiên chan chứa tính nhân
văn, ngăn chặn sự phá hoại vô ý thức của họ
đối với thiên nhiên.
Bên cạnh đó, luật tục còn xác định
quan hệ sở hữu đối với tài nguyên thiên
nhiên. Ví dụ, luật tục:
Luật tục M’nông khẳng định tính “cha
truyền con nối” trong thừa hưởng bất động
sản, thừa hưởng môi trường thiên nhiên’
khẳng định chủ sở hữu cộng đồng đối với
tài nguyên thiên nhiên (rừng, đất rừng, sông
suối...):
“Quản lý đất, quản lý rừng
Quản lý nước, quản lý suối
Quản lý ao cá, quản lý khu rẫy
Tổ tiên chết con cháu kế thừa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 22(350) T11/2017
Cha mẹ chết con cháu kế thừa”3
Trong những thập kỷ qua, chúng ta
đã xem nhẹ quyền sở hữu truyền thống của
cộng đồng buôn làng, nơi bà con các dân tộc
thiểu số sinh sống, đối với rừng và đất rừng,
nên có nơi, có lúc tài nguyên rừng và đất đai
không có người quản lý, khiến tài nguyên
thiên nhiên và đất đai bị xâm hại và tàn phá
nghiêm trọng.
Những ví dụ nêu trên cho chúng ta
thấy, trong luật tục, vấn đề quản lý cộng
đồng, điều hoà các mối quan hệ xã hội, vấn
đề sở hữu tài nguyên thiên nhiên được chú
trọng và quy định chặt chẽ. Ngoài ra, luật
tục còn quy định cụ thể về việc xây dựng
mối quan hệ cộng đồng, làng bản (buôn)
dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ,
đoàn kết; việc giữ gìn, khai thác, bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và môi trường.
Tóm lại, luật tục của một số dân tộc
thiểu số ở Việt Nam như là bộ “bách khoa
thư” về đời sống mọi mặt của tộc người,
chứa đựng các tri thức dân gian vô cùng
phong phú, đúc rút từ kinh nghiệm sống
của nhiều thế hệ. Đó là những tri thức về
môi trường tự nhiên, về làm nương rẫy, hái
lượm, săn bắt Những tri thức này đã được
định hình và trở thành nguyên tắc sống, lẽ
sống của con người trong cộng đồng và có
vai trò quan trọng trong việc ứng xử, quản lý
và bảo vệ, khai thác tài nguyên, môi trường.
2. Những vấn đề đặt ra nhằm phát huy giá
trị của luật tục trong bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường
Thứ nhất, cần nhận thức một cách
khách quan và khoa học những giá trị tri
thức bản địa, truyền thống cả về phương
diện tích cực cũng như hạn chế của luật tục
3 Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. Tr. 524.
các dân tộc thiểu số Việt Nam về bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và môi trường. Trong
quá trình hoạch định chính sách phát, pháp
luật về kinh tế, xã hội nói chung, bảo vệ tài
nguyên và môi trường nói riêng ở vùng sâu,
vùng xa, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số,
Nhà nước cần đặc biệt chú ý, quan tâm đến
việc giá trị của luật tục.
Để kế thừa, duy trì luật tục trong việc
bảo vệ tài nguyên môi trường, Nhà nước có
thể thừa nhận các quy định của luật tục (quy
phạm phong tục, tập quán) và “đề lên thành
luật” những quy định phù hợp với mục đích
quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên môi
trường của Nhà nước.
Thứ hai, việc nghiên cứu, vận dụng
các giá trị của luật tục về bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường phải phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Khi nghiên cứu về luật tục của các dân
tộc thiểu số Việt Nam, các nhà khoa học đã
khẳng định vai trò, tầm quan trọng của luật
tục; coi đó là một kho tàng tri thức quý báu
do các dân tộc thiểu số sáng tạo ra. Nhưng,
luật tục không thể thay thế luật pháp hiện
hành để quản lý và điều hành xã hội. Sự kế
thừa, vận dụng những giá trị của luật tục
nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao tính
thực tiễn, sự phù hợp với từng địa phương
và tộc người để nâng cao hiệu quả của luật
pháp, đưa luật pháp đến sát thực đời sống xã
hội của các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Trên cơ sở vận dụng tri thức truyền
thống của luật tục, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cần quan tâm đến việc bảo vệ hệ
thống rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, đất
đai, nguồn nước phục vụ cho đời sống và
sản xuất một cách bền vững đối với các dân
tộc thiểu số ở các khu vực này.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 22(350) T11/2017
Với điều kiện thực tế ở nước ta hiện
nay, việc tiếp tục sử dụng luật tục để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong
lĩnh vực bảo vệ nguồn tài nguyên môi
trường ở cộng đồng các dân tộc miền núi
là cần thiết, nhưng phải có chọn lọc và cách
thức sử dụng phù hợp. Trước hết cần phải
xác định phạm vi các quy định của luật tục
có thể tiếp thu, kế thừa, duy trì và phải đáp
ứng các yêu cầu: không trái với tinh thần
của pháp luật. Chỉ nên áp dụng luật tục trong
những trường hợp quy định tương ứng của
pháp luật về bảo vệ tài nguyên môi trường
(nếu có) chưa thể hoặc khó xâm nhập vào
đời sống thực tế của cộng đồng các dân tộc
ít người miền núi. Sự kết hợp này thúc đẩy
sự phát triển của cộng đồng và phát huy hiệu
quả cao trong việc quản lý, khai thác, bảo vệ
nguồn tài nguyên, môi trường.
Thứ ba, gắn công tác bảo tồn, khai thác
luật tục về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường nhằm phát triển sự bền vững các
vùng dân tộc thiểu số với công tác thực hiện
và phát huy quyền làm chủ của đồng bào các
dân tộc thiểu số.
Luật tục là tài sản vô giá của các dân
tộc thiểu số. Bởi vậy, để bảo tồn và khai
thác được giá trị của luật tục phục vụ cho
nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường, trước hết phải khơi dậy quyền
được làm chủ của đồng bào dân tộc thiểu số
với núi rừng, nguồn nước, nương rẫy. Quyền
làm chủ đó sẽ được nhân lên khi chính quyền
cấp cơ sở, các cơ quan quản lý nhà nước đưa
ra được những hoạt động phù hợp để thu hút
họ trong khối đại đoàn kết.
Một trong những mục đích cơ bản khi
xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện và
triển khai pháp luật đến các vùng dân tộc
thiểu số là làm thay đổi nhận thức của cán
bộ và đồng bào dân tộc đối với việc bảo
tồn, khai thác và phát huy giá trị của luật
tục nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường. Vì vậy, Nhà nước cần chú trọng,
quan tâm hướng dẫn, tạo điều kiện cho các
bản, làng, khi xây dựng quy ước của buôn,
bản, làng, cần kế thừa, tiếp thu di sản, tinh
hoa của luật tục trước đây nhằm nâng cao
nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số
về các giá trị tích cực của luật tục; nhận biết
được các nội dung lạc hậu, mê tín dị đoan
trái pháp luật, xoá bỏ những nội dung luật
tục không phù hợp và tự giác thực hiện pháp
luật của Nhà nước.
Quá trình tiếp thu, kế thừa và phát huy
giá trị của luật tục là một quá trình lâu dài và
phức tạp. Vì vậy, trong quá trình thực hiện,
cần phải xây dựng một cơ chế sử dụng và
cải biến luật tục linh hoạt, có khả năng thích
ứng cao trong những điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Georges Condominas (1997), Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
2. Hà Huy Thành (chủ biên) (2001), Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1998), Luật tục M’nông, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn (1996), Luật tục Êđê (Tập quán pháp), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ngô Đức Thịnh (2000), Luật tục với việc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Luật tục và phát triển
nông thôn hiện nay ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1999), Luật tục Thái (Tập quán pháp), Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 22(350) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_huy_gia_tri_cua_luat_tuc_trong_bao_ve_tai_nguyen_thien.pdf