Phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - Xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU Chương 1 PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ - NHỮNG KHÍA CẠNH LÝ LUẬN CHUNG 1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề giải phóng phụ nữ 1.1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề giải phóng phụ nữ 1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY 1.2.1. Nhận thức về tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số 1.2.2. Tầm quan trọng của việc khai thác, phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA 2.1.1. Yếu tố tự nhiên 1.1.2.Yếu tố kinh tế (những đặc điểm kinh tế của các tộc người 2 vùng 2.1.3. Yếu tố văn hóa xã hội 2.1.4. Bản thân người phụ nữ các dân tộc thiểu số 2.2. NHỮNG TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (TỪ THỰC TIỄN Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA VÀ MỘT SỐ TỘC NGƯỜI CỤ THỂ) 2.2.1. Vài nét chung về nguồn lực con người, nguồn lực lao động ở một số tỉnh miền núi phía Bắc 2.2.2. Trong lĩnh vực kinh tế 2.2.3. Trong lĩnh vực chính trị 2.2.4. Trong lĩnh vực văn hóa 2.2.5. Trong quan hệ gia đình, hoạt động cộng đồng và xã hội 2.3. THỰC TRẠNG VIỆC KHAI THÁC, PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY 2.3.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc khai thác, phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc 2.3.2. Nguyên nhân hạn chế việc phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay Chương 3 NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY 3.1. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TIỀM NĂNG CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA KẾT LUẬN

doc107 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2220 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - Xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u mặt. Trong gia đình, phụ nữ vẫn phải chịu gánh nặng về công việc từ nội trợ đến sản xuất, từ chăm sóc con cái đến tham gia hoạt động cộng đồng, từ trồng trọt, chăn nuôi đến kinh doanh, buôn bán. Trong khi đó, sự chia sẻ trách nhiệm và gánh vác công việc gia đình từ phía nam giới tuy có tiến bộ nhưng vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa. Tóm lại, mặc dầu còn nhiều hạn chế, nhưng cũng cần khẳng định rằng trong thời kỳ đổi mới, tiềm năng của phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc đã được phát huy đáng kể. Nhờ vậy mà người phụ nữ các dân tộc đã có vị thế của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy rằng, hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết, song xu hướng chung là phụ nữ các dân tộc thiểu số ngày càng được nâng cao năng lực và tự khẳng định mình trong quá trình phát triển. 2.3.2. Nguyên nhân hạn chế việc phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay Thứ nhất, do nhận thức truyền thống. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn là thói quen tồn tại dai dẳng và ăn sâu bám rễ trong đầu óc con người và thậm chí trở thành tâm lý xã hội. Đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, tư tưởng này còn được nhân lên bởi nó gắn với những luật tục lạc hậu ngăn cản quá trình phát triển của phụ nữ. Tư tưởng này còn biểu hiện ngay trong chính bản thân người phụ nữ các dân tộc. Ví dụ như khi phải lựa chọn cho con trai hay con gái đi học thì nhiều bậc cha mẹ tỏ rõ thái độ và quyết định chọn con trai, còn con gái thì phải ở nhà bế em và làm việc. Vì vậy mà tình trạng em gái bỏ học nhiều hơn, mù chữ nhiều hơn cho nên khi trưởng thành tỷ lệ nam giới có năng lực cao hơn tỷ lệ nữ giới. Do ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ mà người phụ nữ cảm thấy tự ti, an phận, cam chịu và thụ động. Điều này cũng hạn chế khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo và chính đó là lực cản kìm hãm sự phát triển của họ. Tư tưởng đàn bà chỉ nên làm việc gia đình, đàn ông kiếm tiền đã tạo thành nếp nghĩ và tạo nên những định kiến giới trong phân công lao động khiến cho phụ nữ ít có cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao. Mặc dù phong tục tập quán ở một số dân tộc còn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống người phụ nữ, nhưng cũng có thể thấy rằng, hiện nay lớp trẻ đã tiến bộ nhiều, bớt dần sự lệ thuộc vào các hủ tục như những người lớn tuổi. Việc cưới gả trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, tệ thách cưới diễn ra nặng nề thì ngày nay nam, nữ có thể tự do yêu đương và bắt đầu có thể tự quyết về cuộc hôn nhân nhiều hơn... Đó là kết quả của quá trình vận động trong nhiều năm qua của chính quyền, các đoàn thể ở địa phương về việc thống nhất và thực hiện những quy ước, hương ước mới trong thôn bản cũng như là hệ quả của việc mở rộng giao lưu, phát triển kinh tế, tăng cường đầu tư giáo dục... Điển hình như ở dân tộc Dao, theo tục lệ nam giới không bao giờ được giặt quần áo cho vợ, thì hiện nay, trong các cuộc thảo luận nhóm, thanh niên đã nói rằng họ có thể làm mọi việc. Phong tục tập quán của mỗi dân tộc tuy có khác nhau nhưng còn ảnh hưởng khá đậm nét, phần nào còn cản trở đến sự phát triển của phụ nữ tiến tới bình đẳng giới. Những lực cản từ yếu tố văn hóa xã hội đã có tác động nhất định đến cơ hội tìm kiếm việc làm, tăng thêm thu nhập của người phụ nữ. Sự phụ thuộc về kinh tế thường dẫn đến những sự lệ thuộc khác trong cuộc sống của phụ nữ vào người chồng và gia đình nhà chồng. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm địa vị, vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Do đó, mở rộng và đổi mới các hình thức tuyên truyền nhằm dần xóa bỏ một số tập tục lạc hậu, những định kiến giới đang cản trở sự phát triển của phụ nữ trong hôn nhân, trong các quan hệ gia đình, trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nhất là tập quán sinh đẻ nhiều là một trong những cơ sở tạo quyền cho phụ nữ, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của họ trong gia đình. Thứ hai, nguyên nhân kinh tế - xã hội. Có thể nói yếu tố kinh tế có vai trò quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình và xã hội. Điều kiện kinh tế xã hội ở vùng các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta hiện nay vẫn thấp, hơn nữa lại chênh lệch rất lớn với các vùng miền đồng bằng Phụ nữ ở khu vực này thường làm những việc không mang lại giá trị kinh tế cao hoặc những công việc mà không được tính công như công việc nội trợ. Chính vì vậy mà tiếng nói của họ ít có trọng lượng và họ thường không có vai trò quyết định trong những vấn đề lớn. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc người phụ nữ ít có cơ hội, điều kiện để phát huy tiềm năng của bản thân, dẫn đến bất bình đẳng giới. Điều này cần phải được nhận thức rõ để từ đó có giải pháp thiết thực phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho phụ nữ. Thực chất, đây cũng chính là mọt trong những điều kiện cần thiết để giải phóng họ khỏi sự đói nghèo và bất bình đẳng giới. Hơn nữa, do điểm xuất phát thấp cộng với những khó khăn đặc thù nên phụ nữ các dân tộc thiểu số đang gặp rất nhiều khó khăn trên con đường phát triển trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay. Tình trạng thiếu việc làm, hoặc có việc làm nhưng đó là việc làm có giá trị kinh tế thấp với những điều kiện làm việc không đảm bảo cũng đang là vấn đề bức xúc. Cường độ làm việc của phụ nữ là quá cao khiến cho phụ nữ ít có thời gian nghỉ ngơi, học tập hoặc hưởng thụ văn hóa. Hơn thế nữa, phụ nữ vẫn luôn là nhóm xã hội ít được hưởng các chính sách phúc lợi xã hội. Một trong những nguyên nhân cản trở việc phát huy vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội là áp lực và trách nhiệm đối với công việc gia đình. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp làm cho phụ nữ mất cơ hội học tập, nâng cao trình độ, thiếu cơ hội tiếp cận thông tin. Hơn nữa, kinh tế gia đình khó khăn nên nhiều chị em an phận, tự ti nên không phát huy được tính tích cực xã hội. Những nguyên nhân trên ảnh hưởng không tốt đến tiến trình phát triển của phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Tuy trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn cố gắng tạo cơ hội cho phụ nữ thông qua nhiều chính sách thiết thực song những chính sách đó cũng cần phải được hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với đặc thù dân tộc miền núi. Điều đó sẽ không chỉ có tác động tích cực đến việc phát huy tiềm năng của phụ nữ mà cả quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước. Thứ ba, do cơ chế chính sách. Mặc dù trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thiết thực đối với sự phát triển của phụ nữ các dân tộc. Tuy nhiên, có nhiều chủ trương chính sách vẫn chưa đi vào cuộc sống, thậm chí còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân cần kể đến là lãnh đạo các cấp, các ngành, các đoàn thể chưa thực sự quan tâm đúng mức việc quán triệt quan điểm giới vào chủ trương, chính sách, thậm chí nhiều chủ trương, chính sách không phù hợp với điều kiện đặc thù miền núi, do đó chưa đem lại hiệu quả đồng thời cũng chưa thực hiện được trách nhiệm giới. Đánh giá vấn đề này, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị chỉ rõ: Đảng ta còn chậm đổi mới công tác vận động, Nhà nước thiếu và chậm thể chế hóa chế độ chính sách với phụ nữ. Hội liên hiệp phụ nữ chưa bao quát hết các đối tượng, chưa đề xuất đầy đủ và kịp thời để Đảng và Nhà nước bổ sung một số chế độ chính sách liên quan đến phụ nữ. Chính vì vậy mà việc đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với phụ nữ nói chung, phụ nữ các dân tộc thiểu số nói riêng để họ có thể phát huy tiềm năng của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề cấp thiết. Việc đổi mới chính sách đối với phụ nữ các dân tộc phải xuất phát từ thực tiễn với những đặc thù riêng đồng thời phải dựa trên quan điểm giới và phát triển. Thứ tư, do bản thân người phụ nữ. Đó là những yếu tố thuộc về bản thân người phụ nữ như trình độ và vốn hiểu biết xã hội của đa số bộ phận phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc còn nhiều hạn chế. Sự hiểu biết của họ về quyền của mình về chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội còn phiến diện và chưa đầy đủ. Vì vậy trong các hoạt động của mình, phần đông chị em chưa mạnh dạn tham gia hoặc vươn lên nắm bắt cơ hội, nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của mình. Tâm lý tự ti, an phận còn biểu hiện trong rất nhiều chị em phụ nữ. Vẫn còn nhiều phụ nữ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc chưa thực sự vượt lên chính bản thân mình, chưa biết vận động nam giới tham gia, chia sẻ cùng mình trong công việc nội trợ. Phần đông trong số họ vẫn còn định kiến về giới mình. Vẫn còn nhiều quan niệm cho rằng đó là công việc của riêng người phụ nữ. Đa số chị em chưa chủ động nắm bắt thông tin về bình đẳng giới, chưa tích cực tham gia sinh hoạt các nhóm, hội do phụ nữ tổ chức. Vì vậy, muốn phát huy tiềm năng của mình, bản thân phụ nữ cần phải nâng cao nhận thức cho chính mình và gia đình, khắc phục sự tự ti, an phận, vượt khó khăn, rào cản và tự vươn lên để khẳng định khả năng của mình trong mọi mặt của đời sống. Đồng thời, cần tăng cường phát huy tính tích cực xã hội của mình bằng việc tham gia xây dựng chính quyền cũng như các tổ chức đoàn thể. Có thể nói, những nhân tố khách quan là những điều kiện rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là sự tự nỗ lực vươn lên của bản thân phụ nữ. Sự tựu nỗ lực vươn lên của phụ nữ vượt qua những rào cản từ phía gia đình và xã hội, tự khẳng định và chứng minh khả năng của mình chính là điều kiện phát triển bản thân và góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của gia đình và xã hội. Chương 3 Những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay 3.1. Những phương hướng cơ bản nhằm phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc 3.1.1. Phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số chỉ có hiệu quả khi có sự nhận thức, thực hiện đồng bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số, sự gắn bó cộng đồng, trách nhiệm toàn xã hội, từ tổ chức, đoàn thể đến từng cá nhân người phụ nữ dân tộc thiểu số Nhận thức đúng tiềm năng, vai trò, vị trí của phụ nữ cũng như ý nghĩa xã hội của sự phát triển của phụ nữ không chỉ có ý nghĩa thực tiễn trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài đối với sự phát triển của đất nước. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ đối với các cấp, các ngành trong chiến lược đào tạo, bổ nhiệm, tạo điều kiện cho phụ nữ có điều kiện để hội nhập càng sâu, rộng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với khu vực dân tộc miền núi phía Bắc thì đây là vấn đề đòi hỏi phải có phương pháp, biện pháp cụ thể khắc phục những phong tục tập quán lạc hậu, quan điểm “coi thường phụ nữ” còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ các cấp các ngành, ở địa phương. Vấn đề phụ nữ nói chung và phụ nữ khu vực miền núi phía Bắc nói riêng đã được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn, những chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị, luật pháp...về vấn đề phụ nữ chưa được các ngành, các cấp quan tâm, đầu tư đúng mức. Nghị quyết lần thứ bảy BCHTW (khóa IX) chỉ ra một nguyên nhân chủ quan quan trọng cản trở bước phát triển các vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói chung là: “Nhận thức của các cấp, các ngành và của nhiều cán bộ, đảng viên về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, công tác dân tộc chưa sâu sắc, chưa toàn diện. Một số chính sách chưa được cụ thể hóa và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của địa phương. Một bộ phận cán bộ, đảng viên vùng dân tộc còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chưa chủ động khơi dậy và phát huy tốt các nguồn lực của địa phương”. Mặt khác, khía cạnh thứ hai của vấn đề nhận thức này là sự nhận thức, nỗ lực, tự vươn lên của bản thân chị em phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc. Hiện nay, do điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình và địa phương khó khăn, do điều kiện thông tin còn nhiều hạn chế nên một bộ phận không nhỏ chị em phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc chưa nhận thức rõ vị thế xã hội của mình, chưa “đòi hỏi” quyền và nghĩa vụ của mình để tự vươn lên mọi mặt, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, gia đình và bản thân mình. Do vậy, việc nhận thức đầy đủ trách nhiệm của các cấp, các ngành của từng địa phương, của cán bộ và nhân dân các dân tộc, của bản thân phụ nữ trong phát huy tiềm năng vốn có, tính tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm ra khâu đột phá trong quá trình phát triển kinh - tế xã hội từng địa bàn, từng dân tộc cụ thể là rất cấp thiết. 3.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc phải gắn liền với khai thác, phát huy tiềm năng từng vùng, từng dân tộc, trong đó có tiềm năng to lớn của phụ nữ các dân tộc thiểu số Phụ nữ các DTTS miền núi phía Bắc là lực lượng lao động lớn, đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của vùng và của đất nước. Đặc biệt, hiện nay, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước phải tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tạo môi trường tốt để phát triển nguồn nhân lực nữ. Một trong những điều kiện căn bản chính là phát triển kinh tế - xã hội, tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy tiềm năng của mình và đó cũng chính là tạo điều kiện giải phóng phụ nữ. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải gắn bó hữu cơ với nhau trong chiến lược phát triển. Chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội, đồng thời, chính sách xã hội phải góp phần thúc đẩy chính sách kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người trong xã hội phát huy khả năng của mình. Tuy nhiên, phụ nữ vùng dân tộc thiểu số có những nét đặc thù riêng, với những điều kiện khác hơn so với phụ nữ cả nước, vì vậy, khi xây dựng chính sách kinh tế - xã hội không những phải chú ý đến đặc thù giới mà còn phải chú ý tới đặc điểm các tộc người. Có như vậy thì chính sách kinh tế - xã hội mới mang lại hiệu quả. Nhận thức đúng về tiềm năng của phụ nữ các DTTS ở miền núi phía Bắc và khai thác, phát huy tiềm năng đó đúng hướng sẽ tạo ra động lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Bên cạnh những tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản, nguồn vốn..., cần phải khai thác, phát huy tiềm năng nguồn lực rất lớn ở các tỉnh miền núi phía Bắc là nguồn lực con người, nguồn lực sức lao động, sự đa dạng, phong phú trong các giá trị văn hóa truyền thống, cả những ngành nghề truyền thống, trong đó nguồn lực phụ nữ nói chung, phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng. Việc điều tra, đánh giá toàn diện, xác thực, khách quan về tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, thấy rõ những đóng góp về tinh thần và vật chất của người phụ nữ đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội là cấp thiết. Làm tốt điều đó giúp đưa ra được các chế độ chính sách, hệ thống luật định phù hợp, mang lại hiệu quả. 3.1.3. Khai thác, phát huy tiềm năng của phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc phải xuất phát từ sự quan tâm của các địa phương, từ nội lực của cơ sở Gia đình và xã hội cố gắng tạo ra những điều kiện, cơ hội để phụ nữ có thể phát huy mọi tiềm năng thì chính bản thân người phụ nữ phải cố gắng vươn lên khắc phục những mặt hạn chế, bất cập và khai thác tối đa tiềm năng của mình. Phụ nữ phải xóa bỏ tư tưởng tự ti, mặc cảm, an phận với những gì đã có, đồng thời phải ra sức học tập nâng cao trình độ về mọi mặt thì mới xóa bỏ được sự tụt hậu so với nam giới. Khai thác, phát huy tiềm năng của phụ nữ các dân tộc gắn với các chương trình phát triển ở địa phương và cơ sở, phù hợp với những đặc điểm, điều kiện và thế mạnh của từng địa phương thì mới mang lại hiệu quả thiết thực. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta 3.2.1. Nhóm giải pháp giáo dục nhận thức nâng cao trình độ (bao gồm nhận thức từ phía xã hội các cấp chính quyền và nhận thức của chính bản thân phụ nữ các dân tộc thiểu số) Ngày nay, trước những thay đổi lớn của mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, vị trí người phụ nữ các dân tộc cũng ngày được nâng cao. Hơn bao giờ hết, phụ nữ phải cố gắng vươn lên, phải nỗ lực cả trong nhận thức và hành động. Các nhà nghiên cứu đã xác định rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu cản trở quá trình phát triển phụ nữ, tiến tới giải phóng phụ nữ là do nguyên nhân nhận thức. Nhận thức của xã hội, và đặc biệt là của các cấp chính quyền về khả năng của phụ nữ còn phiến diện, chưa đầy đủ vì vậy mà chưa xây dựng được những chính sách tốt nhằm khai thác, phát huy tiềm năng của họ. Hơn bao giờ hết các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể quần chúng phải xác định rõ trách nhiệm của mình trong công tác tuyên truyền giáo dục các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển toàn diện các vùng dân tộc thiểu số trong đó có vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ dân tộc thiểu số. Vấn đề liên quan đến chiến lược và chính sách phát triển phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc là hệ thống các vấn đề phức hợp liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đến các cấp, các ngành. Tuy nhiên, khảo sát, nghiên cứu cho thấy một số vấn đề còn bất cập. Vì vậy, bước đầu chúng tôi nêu ra một số kiến nghị sau đây liên quan đến việc phát huy tiềm năng của phụ nữ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc trong phát triển kinh tế - xã hội: Thứ nhất, các cấp, các ngành cần có sự nhận thức rõ và quan tâm đẩy mạnh công tác nghiên cứu đặc điểm văn hóa - xã hội - giới của phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc. Đây là một đề tài nghiên cứu tổng hợp làm luận cứ cho hệ thống các đề tài nghiên cứu phục vụ mục tiêu, chiến lược vì sự phát triển của phụ nữ khu vực này nói riêng và đất nước nói chung. Những năm qua nhiều dự án, nhiều chương trình về miền núi, về phụ nữ các DTTS miền núi phía Bắc đã được triển khai. Song, đó mới chỉ là những công trình, những dự án nghiên cứu mang tính “khai phá” hoặc giải quyết trên một số lĩnh vực. ở tầm quốc gia cần có những chương trình nền tảng của mọi chương trình. Chính vì vậy mà việc đầu tư nghiên cứu chiến lược về phụ nữ cần được triển khai trên quy mô khoa học và có sự đầu tư lớn. Thứ hai, để cho phụ nữ DTTS khu vực miền núi nói chung, miền núi phía Bắc nói riêng có điều kiện phát triển, cần phải có sự phối hợp giữa các cơ quan làm công tác chính quyền với cơ quan phụ nữ. UBDTVMN cần có chương trình nghiên cứu về kế hoạch hoạt động của chương trình với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt cần có sự quan tâm của cấp tỉnh ở miền núi để có chương trình của ủy ban với tỉnh hội cũng như các cấp, các ngành liên quan. Thứ ba, cần có kế hoạch tổ chức nghiên cứu về tiềm năng phụ nữ các DTTS để có phương hướng và tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tiềm năng của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng. Chiến lược hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước không làm mất đi mà cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Chính đối tượng phụ nữ DTTS là thành tố quan trọng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người. Vì thế mà cần khắc phục các “trở lực” sau: - Tư tưởng xem thường phụ nữ, bất bình đẳng nam nữ - Xóa bỏ những quan niệm của nam giới và xã hội đối với phụ nữ ở các tộc người cùng với những yếu tố lạc hậu: tập tục lạc hậu, không muốn phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, “trói buộc” phụ nữ vào cuộc sống gia đình - Nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, khoa học kỹ thuật, quản lý xã hội. Việc khắc phục các vấn đề trên đây phải đồng thời là việc tổ chức các chương trình, kế hoạch phát triển của phụ nữ DTTS nằm trong chiến lược quốc gia và các địa phương. Đó không chỉ là việc khắc phục về mặt tư tưởng mà còn là chương trình hành động. Nếu yêu cầu chiến lược về con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi cao ở phụ nữ nói chung thì đối với phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc lại càng phải có kế hoạch, biện pháp, chủ trương phù hợp mới đáp ứng được yêu cầu, mới có khả năng phát huy khả năng của họ lên ngang tầm với đòi hỏi chung của đất nước. Để thực hiện yêu cầu đó, đòi hỏi các cấp, các ngành quan tâm và tự bản thân mỗi chị em phụ nữ phải tự mình vươn lên. Phụ nữ phải chủ động trang bị kiến thức về nghề nghiệp và vốn sống để chống lại những phong tục tập quán lạc hậu, coi thường và trói buộc bản thân mình. Họ phải tự vươn lên trước mọi khó khăn, chịu thương, chịu khó, biết hy sinh vì chồng, vì con song cũng phải tự chủ, sáng tạo. Những biểu hiện của tâm lý tự ti, mặc cảm, an phận thủ thường... đã và đang tồn tại trong phụ nữ các dân tộc thiểu số. Đấu tranh, khắc phục, loại bỏ tâm lý đó là yêu cầu bức thiết để phát huy tiềm năng của phụ nữ các DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay. 3.2.2. Nhóm giải pháp phát triển kinh tế Phụ nữ khu vực dân tộc và miền núi đóng vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất, gia đình và xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế nông nghiệp (nguồn thu chính của phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc), chăm sóc sức khỏe gia đình và nuôi dạy con cái. Đóng góp này góp phần quan trọng trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế của cộng đồng. Do vậy, việc nhận rõ vai trò, tiềm năng của phụ nữ thông qua việc phối hợp nghiên cứu về giới trong các dự án xóa đói giảm nghèo sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách có quyết định đúng đắn hơn khi hình thành các chính sách về phát triển nhằm nâng cao năng lực của phụ nữ các DTTS. Quán triệt và thống nhất trong hành động về tính tất yếu phải tăng cường lồng ghép giới với các chính sách kinh tế - xã hội với chính sách bình đẳng giới là hoạt động cần thiết. Không thể đạt được mục tiêu bình đẳng giới nếu không đặt vấn đề này cùng với mục tiêu phát triển kinh tế nói chung. Để phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Nhà nước cần có chính sách đầu tư và quản lý đầu tư tốt hơn nữa để xây dựng kết cấu hạ tầng: giao thông, điện, trường học, trạm y tế..., đồng thời phải có chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật và giống cây trồng, vật nuôi cho đồng bào để phát triển kinh tế gia đình thông qua các nhóm như: Nhóm tín dụng - gia đình; xóa đói giảm nghèo. Nhà nước và chính quyền địa phương cần tăng cường cán bộ khoa học, kỹ thuật (chú trọng cán bộ biết tiếng dân tộc thiểu số) để đến từng bản hướng dẫn bà con làm kinh tế một cách cụ thể, thậm chí, đối với những dân tộc, những địa phương kém phát triển phải “cầm tay chỉ việc”, tránh tình trạng chỉ đạo chung chung, chỉ đạo từ xa có thể áp dụng cho mọi vùng, mọi miền. Việc các hộ gia đình tham gia vào các nhóm, các câu lạc bộ, được hưởng lợi từ việc vay vốn của các dự án để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, sẽ tăng thu nhập và giảm đói nghèo cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy đến việc phát huy tiềm năng của phụ nữ. Tiềm năng và sự đóng góp của phụ nữ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc phần nào đã được gia đình và cộng đồng biết đến và ghi nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng hiệu quả làm việc của phụ nữ không cao, phần vì bất lợi về giới còn hiện hữu khá rõ nét trong sự phân công công việc, trong tiếp cận các nguồn lực, phần vì khả năng thực sự của họ chưa được phát huy một cách triệt để...Vì vậy, việc loại bỏ những bất lợi và cản trở trên sẽ giúp người phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc có nhiều cơ hội hơn trong tham gia học tập, tập huấn, đào tạo để nâng cao năng lực cho bản thân và thực hiện tốt hơn khả năng của mình. Bên cạnh đó, cần có những đầu tư nhằm vào phụ nữ như nâng cao trình độ học vấn, bồi dưỡng những kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, những hiểu biết về thị trường.. có như vậy thì họ mới có khả năng tham gia phát triển kinh tế và điều đó sẽ làm tăng thêm nhiều lợi ích và hiệu quả của quá trình phát triển bền vững ở cộng đồng các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc. 3.2.3. Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ chế chính sách Trong sự nghiệp đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ, vì công bằng xã hội và bình đẳng giới, vai trò của các cơ quan hoạch định chính sách là vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với việc sửa đổi, bổ sung, ban hành những chính sách và giải pháp đồng bộ để thực sự tạo cơ hội, điều kiện đưa khoa học công nghệ vào phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đối với các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì bên cạnh những chính sách chung cần có những chương trình, chính sách đặc thù phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa miền núi. Có như vậy mới tạo ra được những nhân tố mới thúc đẩy quá trình phát triển tiến tới thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát huy khả năng của mình đồng thời bồi dưỡng để những tiềm năng có thể được hiện thực hóa trong cuộc sống. Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bình đẳng giới. Vì đó là một trong những điều kiện tiên quyết và quyết định đến việc người phụ nữ có được phát huy khả năng của bản thân hay không. Đặc biệt, Quốc hội cần sớm ban hành Luật Bình đẳng giới. Chú trọng các chính sách về giáo dục nhằm nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn, nghề nghiệp cho phụ nữ và trẻ em gái. Đặc biệt, cần chú ý tới vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số phía Bắc hiện nay, nơi mà tỷ lệ trẻ em gái thất học và bỏ học giữa chừng khá cao và nhiều gia đình ở đồng bào dân tộc thiểu số chỉ muốn đầu tư cho con trai học lên các cấp học cao hơn. Chính sự khác biệt về giáo dục giữa nam giới và nữ giới ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay là một trong những nguyên nhân thúc đẩy và làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác và sự khác nhau trong cơ hội phát triển giữa nam giới và phụ nữ ở vùng này. Các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà làm luật cần chú ý bổ sung quan điểm giới vào hệ thống chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hóa xã hội... nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ các dân tộc thiểu số khu vực miền núi có cơ hội phát triển ngang bằng với nam giới. Muốn thực hiện được điều đó, cần phải có biện pháp cụ thể về: nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ dân tộc DTTS ở miền núi phía Bắc. Qua nghiên cứu cho thấy, hiện nay, trình độ học vấn của phụ nữ khu vực này rất thấp. Học vấn thấp dẫn tới việc tiếp cận và xử lý các thông tin liên quan đến khoa học kỹ thuật trong sản xuất gặp nhiều trở ngại; học vấn thấp cũng dẫn tới việc nhận thức thái độ và hành vi về các vấn đề chăm sóc sức khỏe - kế hoạch hóa gia đình; tiếp cận và quản lý các nguồn lực khó khăn...và suy rộng ra, học vấn thấp cũng là nguyên nhân của sự đói nghèo và bất bình đẳng giới. Vì vậy, việc nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ nói chung, phụ nữ dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng chính là khâu then chốt để nâng cao vị thế phụ nữ cũng như phát huy được những tiềm năng của phụ nữ vùng này. Muốn vậy, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo cho đồng bào ở miền núi phía Bắc, trong đó phụ nữ và trẻ em gái là đối tượng cần có chính sách phù hợp. Cần phải đa dạng hóa các loại hình giáo dục ở mọi cấp học, ngành học. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ dưới mọi hình thức. Phấn đấu đạt tỷ lệ nhập học tương đương (45%-55%) giữa trẻ em trai và trẻ em gái thuộc mọi thành phần dân tộc, vùng miền, chương trình, ngành học và cấp học. Khuyến khích và có chính sách thu hút tỷ lệ nhập học của phụ nữ trong các môn học kỹ thuật ở các trường đại học và dạy nghề. Xóa bỏ tư tưởng phong kiến lỗi thời cản trở trẻ em gái đến trường. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các ngành nghề kỹ thuật. Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích các trẻ em gái đến trường bằng cách miễn hoặc giảm học phí, trợ cấp học bổng và xây mới, nâng cấp các trường dân tộc nội trú phục vụ học sinh vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Cần có chính sách bình đẳng hơn trong đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ nữ thuộc các dân tộc thiểu số. Thực tế hiện nay cho thấy, công tác đào tạo và sử dụng cán bộ DTTS còn có sự chênh lệch lớn giữa các dân tộc, giữa tỷ lệ cán bộ nam và nữ. Lực lượng cán bộ DTTS được đào tạo có hệ thống mới chỉ tập trung cao ở một số dân tộc như Tày, Thái, Mường, nhiều tỉnh thiếu cán bộ người DTTS một cách trầm trọng, nhất là đối với hai dân tộc: Mông và Dao. ở Điện Biên, người Kinh chỉ chiếm 20,7% dân số nhưng có tới 82,38% tổng số cán bộ công chức, người Thái chiếm 40,4% dân số nhưng chỉ chiếm 11,3% cán bộ công chức, con số tương ứng của người Mông là 28,8% và 4,4%, các DTTS khác là 11% và 2,02% [28, tr.77]. Đội ngũ cán bộ công chức DTTS (xét theo cơ cấu giới) mặc dù những năm qua có nhiều tiến bộ nhưng tỷ lệ giữa cán bộ nam và nữ vẫn còn chênh lệch lớn, nhất là cấp xã. Tỷ lệ cán bộ, công chức nam và nữ người DTTS bình quân trên cả nước (cấp xã) là 91,9% và 8,1%; xét riêng từng địa phương thì cán bộ nữ ở tỉnh Hòa Bình: 9,2%, Thái Nguyên: 3,4%, Điện Biên: 5,8% [58, tr.51]. Bên cạnh đó, việc bố trí, sử dụng cán bộ còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Mức độ bố trí, sử dụng đạt hiệu quả thấp, nhiều người trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của công việc nhưng chưa được bố trí công việc phù hợp... Vì vậy, chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ đối với vùng DTTS nói chung DTTS miền núi phía Bắc nói riêng cần được quan tâm hơn nữa, để phát huy, khai thác tiềm năng nguồn lực con người của khu vực, trong đó có nguồn lực nữ. 3.2.4. Nhóm giải pháp về phát huy vai trò của hệ thống chính trị (đặc biệt là Hội liên hiệp phụ nữ các cấp) trong việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho phụ nữ và phát huy tiềm năng của phụ nữ Các cấp ủy đảng: cần có nhận thức đúng đắn sâu sắc về tiềm năng của phụ nữ và sự cần thiết phát huy các tiềm năng đó. Các chủ trương, chính sách của Đảng phải bám sát đời sống, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của chị em. Các cấp chính quyền: Có nhiệm vụ cụ thể hóa, xây dựng chương trình, kế hoạch, có tính khả thi tổ chức thực hiện, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống. Trong đó, cần coi trọng việc xây dựng chiến lược về cán bộ nữ. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về những khả năng cũng như vai trò vị thế của phụ nữ các dân tộc trong đời sống kinh tế - xã hội để từ đó có sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ phát triển. Hội phụ nữ các cấp phải là cầu nối giữa Đảng và các tầng lớp phụ nữ thông qua việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là những chủ trương, chính sách có liên quan đến phụ nữ các dân tộc thiểu số. Mặt khác, Hội phải thực hiện công tác tham mưu, tư vấn cho các cấp ủy đảng về các vấn đề cơ cấu cán bộ, đào tạo nguồn cán bộ nữ. Hội phải nắm bắt sâu sát tâm tư, nguyện vọng của chị em phụ nữ để từ đó tham mưu và đề xuất với Đảng những chính sách phù hợp. Hội có nhiệm vụ tuyên truyền, thông tin về mục tiêu bình đẳng giới. Cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đối với việc phát huy tiềm năng của phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới, đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay. Do điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém nên ở những vùng này việc tiếp cận với các nguồn thông tin còn nhiều hạn chế và bất cập. Thực tế cho thấy, nơi nào tổ chức Đảng và chính quyền có nhận thức cao và có sự quan tâm đến phụ nữ, lồng ghép giới vào các chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương thì ở nơi đó việc phát huy tiềm năng của phụ nữ cũng như thực hiện bình đẳng giới được cải thiện đáng kể. Ngược lại, nơi nào mà các cấp ủy chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội buông lỏng sự quản lý, lãnh đạo thì vấn đề phụ nữ chưa được quan tâm và khả năng của phụ nữ chưa được phát huy, hơn nữa tình trạng bất bình đẳng giới còn nặng nề hơn, vai trò, vị thế của người phụ nữ bị giảm sút. Cần quán triệt nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển phụ nữ cũng như về bình đẳng giới: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ chính trị về tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của ban Bí thư trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21/1/2002; Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về vấn đề giới: Thiết thực chăm lo sự bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ. Để ngày càng khẳng định được vị thế xã hội của mình trong việc tham gia ra các quyết định quan trọng của gia đình, người phụ nữ cần phải nâng cao hiểu biết và năng lực ra các quyết định về các vấn đề quan trọng. Việc phụ nữ nâng cao năng lực và sự chủ động trong việc ra quyết định trong sản xuất phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội khác là điều kiện quan trọng để tiến tới sự bình đẳng giới thực sự trong gia đình và ngoài xã hội. Muốn vậy, cần phải tạo cơ hội và điều kiện để phụ nữ DTTS ở miền núi phía Bắc có thể nâng cao và phát huy khả năng của mình trong mọi vấn đề của đời sống xã hội. Cụ thể là cần thiết tạo điều kiện cho họ tham gia các lớp tập huấn, các khóa đào tạo ngắn hay dài hạn liên quan đến hoạt động sản xuất, tư vấn họ ra các quyết định liên quan đến kinh tế hộ gia đình như trong hoạt động vay vốn đầu tư sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Cần đặc biệt chú ý đến việc tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội, tự học hỏi, tự đào tạo để nâng cao kiến thức văn hóa và khắc phục tâm lý mặc cảm, tự ti, xóa bỏ sự “tự định kiến giới” để tiến tới chủ động và tích cực phấn đấu nâng cao sự bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Cần giúp cho người phụ nữ hiểu được rằng vị thế xã hội thấp kém của họ so với nam giới hiện nay không phải chỉ do những khác biệt về mặt thể chất tự nhiên mang lại mà là bắt nguồn từ những yếu tố xã hội. Vì vậy, muốn đấu tranh xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu coi thường phụ nữ, thì bản thân phụ nữ phải biết vươn lên, không ngừng nâng cao trình độ học vấn và vốn hiểu biết xã hội để tự khẳng định năng lực bản thân và của giới mình. 3.2.5. Nhóm giải pháp xây dựng gia đình văn hóa và khu dân cư văn hóa Dù ở bất cứ cương vị nào, phụ nữ đều phải giành thời gian và trách nhiệm cho gia đình. Bởi vì gia đình có bền vững, hạnh phúc thì bản thân người phụ nữ mới có thể phát huy hết vai trò, tiềm năng của mình. Do bị chi phối nhiều bởi công việc gia đình, phụ nữ các DTTS thường thiệt thòi hơn trong việc học tập, nâng cao trình độ, nắm bắt thông tin và tham gia các hoạt động xã hội. Điều này lại càng thể hiện rõ hơn đối với phụ nữ DTTS miền núi phía Bắc do nhiều điểm đặc thù chi phối. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội cần tập trung làm giảm nhẹ công việc gia đình cho phụ nữ. Ngoài các chính sách tạo việc làm, tăng thêm thu nhập để phụ nữ tăng thêm thu nhập gia đình, xây dựng gia đình no ấm thì đặc biệt tăng cường các hệ thống dịch vụ gia đình nhằm giảm nhẹ công việc nội trợ cho phụ nữ; cần mở rộng và nâng cấp các hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo, các cơ sở y tế, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em... để tạo điều kiện cho phụ nữ có thời gian học tập, làm những công việc khác. Việc khuyến khích nam giới tham gia và chia sẻ công việc gia đình cần được tăng cường và mở rộng. Xây dựng gia đình văn hóa là môi trường tốt nhất để thiết lập quan hệ bình đẳng giới. Có thể nói phong trào xây dựng gia đình văn hóa là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình truyền thống, vừa đấu tranh loại bỏ những phong tục lạc hậu, tập quán bảo thủ đang tồn tại ở một số dân tộc và tiếp thu những giá trị văn hóa mới, tiên tiến. Cần thiết lập quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên nam và nữ trong gia đình Gia đình là tế bào của xã hội. Sự bền vững và ổn định của hôn nhân, hạnh phúc, ấm no của gia đình có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của xã hội tương lai và của dân tộc. Đối với gia đình các dân tộc thiểu số, nơi còn có những ràng buộc khắt khe đối với người phụ nữ, học vấn của phụ nữ chưa cao và hơn nữa có nhiều vấn đề đang đặt ra như đói nghèo, bệnh tật..., chính sách xã hội đối với gia đình ở đây cần phải được coi là một chiến lược lâu dài, toàn diện gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng, của đất nước. Xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế phải nhằm nâng cao phúc lợi cho gia đình, tạo sự ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cho các thành viên trong gia đình, nhất là cho người phụ nữ. Phát triển “văn hóa gia đình” là giải pháp hữu hiệu để khai thác, phát huy tốt nhất tiềm năng của phụ nữ các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay. Kết luận Phụ nữ dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam, có đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội mang tính đặc thù trong quá trình phát triển. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, phụ nữ các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã và đang cùng với các tộc người của mình phát huy những giá trị vốn có. Khi đất nước đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đang đứng trước những vấn đề mới đặt ra. Đó là những “thách thức” có tính lịch sử đối với phụ nữ khu vực này: sự bất cập giữa năng lực (chưa được chuẩn bị hoặc chuẩn bị chưa đầy đủ) với yêu cầu, nhiệm vụ, công việc của thời kỳ mới với tốc độ công nghiệp hóa và cơ chế thị trường; giữa trách nhiệm chị em phải đảm đương và quyền hạn bị hạn chế; giữa điều kiện sức khỏe có hạn và khả năng cống hiến; giữa công việc gia đình với vai trò người mẹ, người vợ, người con dâu (thậm chí là người bà) với công việc xã hội; giữa cống hiến với hưởng thụ... Nếu trước đây trong thời kỳ “hành chính bao cấp” các vấn đề đặt ra chưa bức xúc thì ngày nay đang trở nên gay gắt đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nói riêng. Nếu so với phụ nữ ở các đô thị, đồng bằng thì phụ nữ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc trên mọi phương diện đều khó khăn hơn, kể cả những điều kiện để phát huy khả năng của họ. Chính vì vậy, khi đặt vấn đề phụ nữ và phát triển, phát huy tiềm năng của họ thì các cấp chính quyền, cộng đồng địa phương phải có những chương trình, kế hoạch phù hợp với đặc điểm khu vực này. Vấn đề phụ nữ không phải là của riêng giới nữ mà là vấn đề xã hội, nhưng không phải là vấn đề chung chung, trừu tượng. Vì vậy, các chương trình phát triển của phụ nữ phải được đưa vào chương trình phát triển, kế hoạch tổng hợp của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương. Các chiến lược, chính sách, chương trình phát triển phụ nữ khu vực dân tộc thiểu số ở miền núi nói chung, khu vực miền núi phía Bắc nói riêng hiện nay cần chú ý khai thác và quan tâm các yếu tố: bản sắc văn hóa dân tộc từ vai trò của phụ nữ các tộc người; đặt vấn đề trong nhu cầu phát triển hiện đại, công nghiệp hóa đất nước. Đó là những quan điểm cơ bản, thiết yếu để tìm ra những “bước đi” phù hợp với vùng miền núi phía Bắc, từng nhóm dân tộc hay từng dân tộc cụ thể để phụ nữ khu vực này có điều kiện tham gia và phát huy tốt tiềm năng, vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Trên cơ sở của mục tiêu Đại hội X đề ra, căn cứ vào “Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010” và cương lĩnh hành động của Hội nghị thế giới về phụ nữ mà Chính phủ ta đã cam kết, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong các kỳ đại hội đã thống nhất mục tiêu là: Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt nam nhằm tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao kiến thức mọi mặt của phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng, góp phần thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng bảo vệ Tổ quốc; xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ Hội ngày càng vững mạnh để phát huy đầy đủ vai trò đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Đó là mục tiêu tổng hợp cho một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước - của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Mục tiêu đó là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch phát triển phụ nữ các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên mục tiêu đó phải được cụ thể hóa cho từng khu vực, từng vùng dân tộc trong các mục tiêu phát triển của các địa phương nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho phụ nữ khu vực này có cơ hội phát triển. Để thực hiện các mục tiêu đó, trước hết cần phải có sự đầu tư cơ bản, có chiều sâu trong việc nghiên cứu về phụ nữ ở khu vực này. Thực hiện việc điều tra nghiên cứu cơ bản về phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nhằm đánh giá thực trạng đời sống vật chất và tinh thần của họ, những tiềm năng mà họ có, đã được phát huy và chưa được khai thác, phát huy; về vai trò và vị trí của họ trong đời sống gia đình, cộng đồng, xã hội, để trên cơ sở thực tiễn đó nắm vững đặc điểm từng vùng, từng khu vực mà đề ra những giải pháp, các định hướng cũng như chính sách phù hợp, kịp thời, để tháo gỡ từng bước những bức xúc còn đang là nỗi trăn trở không chỉ của phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Đây là bước đi ban đầu rất quan trọng. Chỉ có như vậy, mới có những quyết sách đúng đắn để hỗ trợ, giúp đỡ cho phụ nữ vùng dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng, phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi nói chung sớm có cơ hội và bắt nhịp với cộng đồng, với khu vực trong giai đoạn phát triển của đất nước ta hiện nay. Và cũng chỉ có như vậy, chúng ta mới thực hiện được và thực hiện đúng vấn đề đặt ra là: vì sự tiến bộ của phụ nữ, vì sự phồn vinh của đất nước. Vấn đề khai thác, phát huy tiềm năng của phụ nữ, phát triển phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc là vấn đề mới và rộng. Luận văn mới chỉ là những khám phá bước đầu, chắc chắn còn nhiều vấn đề mà luận văn chưa có điều kiện giải đáp. Chúng tôi rất mong muốn trong thời gian tới sẽ đi sâu nghiên cứu và phát triển đề tài mà chúng tôi vô cùng tâm đắc này./. Danh mục tài liệu tham khảo Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.. Trần Thị Vân Anh (1997), Kết hợp giới vào các bước xây dựng chính sách, Sổ tay công tác nữ công, Hà Nội. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La 2004 - 2005. Báo cáo của tổ chức phi chính phủ về 10 năm thực hiện cương lĩnh hành động Bắc Kinh. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội ở các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân (1996), Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Thị Bình (1997), Một số vấn đề chính sách xã hội với phụ nữ nông thôn trong giai đoạn hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Thị Bình (1997), Thực trạng môi trường Việt Nam hiện nay và sự tác động của nó đến đời sống sức khỏe của phụ nữ. Mười năm tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Đỗ Thị Bình (1998), "Phụ nữ và vấn đề tiếp cận vốn trong bối cảnh kinh tế nông thôn hiện nay”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (2). Đỗ Thúy Bình (1986), "Về cơ cấu gia đình các dân tộc ở miền Bắc", Tạp chí Dân tộc học, (3), tr.3. Đỗ Thúy Bình (1991), "Gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam. Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Hà Nội. Đỗ Thúy Bình (1992), "Gia đình người H’mông trong bối cảnh kinh tế hiện nay", Tạp chí Dân tộc học, (2), tr. 20. Đỗ Thúy Bình (1993), Gia đình - Những biến đổi kinh tế - văn hóa - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Thúy Bình (1993), "Một số vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thực trạng đời sống phụ nữ các dân tộc ít người góp phần hoàn thiện chính sách xã hội", Tạp chí Dân tộc học, (2), tr. 37. Bộ Chính trị (1989), "Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi”, Báo Nhân dân. Bộ Tư pháp (1996), Pháp luật vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP (1995), Việt Nam qua lăng kính giới, Hà Nội. Công ước Liên Hợp quốc (2004), Về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội (Tái bản lần 2). Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế xã hội miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Văn Dũng (2004), Thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Một số văn kiện chính sách về dân tộc miền núi, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bế Văn Đảng (1995), 50 năm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Luân Thị Đẹp (2004), Vai trò của phụ nữ dân tộc Dao ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Phạm Thị Hoàng Hà (2005), Thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lương Thu Hằng (2002), “Vai trò của phụ nữ các Thái trong hoạt động kinh tế", Tạp chí Dân tộc học, (2). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959. Nguyễn Thị Khoa (1998), "Tìm hiểu khó khăn và thuận lợi của phụ nữ nông thôn trong sản xuất hiện nay", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (4). Nguyễn Thị Khoa (1994), "Kinh tế hộ gia đình và sự tiến bộ của phụ nữ", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1). Phan Thanh Khôi (1998), “Giới và lập kế hoạch dưới góc độ giới- một hướng mới tiếp cận con người", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (10). Nguyễn Linh Khiếu (1999), "Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế phi nông nghiệp", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (3). Hà Quế Lâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Ngọc Lân (1996), "Mấy nét về thực trạng đời sống kinh tế của gia đình phụ nữ nghèo", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (4). Lê Ngọc Lân (1996), Thực trạng đời sống và khả năng tham gia phát triển kinh tế của gia đình phụ nữ nghèo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin- Stalin (1977), Phụ nữ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hoàng Thị Lịch (1997), Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Kim Loan (2005), Giải phóng phụ nữ: Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. C.Mác - Ph.Ăngghen (1962), Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăng ghen (1967), Về vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1982), Tuyển tập, Tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, Tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Hữu Ngà (2005), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc thiểu số", Tạp chí Dân tộc học, (3). Ngân hàng Thế giới (2000), Báo cáo tổng quan đưa vấn đề giới vào phát triển, Hà Nội. Nguyễn Quốc Phẩm- Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về các dân tộc và quan hệ dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Quốc Phẩm (2000), Hệ thống chính trị cáp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Thị Thạch (1995), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ: Nguồn gốc và giá trị hiện thực", Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (4). Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Lê Ngọc Thắng (1998), “Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống kinh tế - văn hóa các dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, (5) Lê Thi (1999), Việc làm đối với phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Chu Thị Thoa (2002), Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tổng cục thống kê (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Hà Nội. Đặng Thị ánh Tuyết (2005), Thực hiện bình đẳng giới các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ủy ban Dân tộc và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc miền núi (2002), vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Phát huy nội lực từng vùng các dân tộc nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn các tỉnh miền núi, vùng cao Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphuy gtri dduc truyen thong cua Pn DTTS.doc