Tiếp tục đổi mới cách tiếp cận,
phương pháp xây dựng NTM
- Tập trung đánh giá, điều chỉnh, bổ
sung cách tiếp cận xây dựng NTM cho đầy
đủ. Trong đó lưu ý: (i) Tăng cường tiếp cận
xây dựng NTM từ cộng đồng thôn, bản, nhất
là ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng
sâu, vùng xa; (ii) Tiếp tục điều chỉnh bộ tiêu
chí theo hướng mở, chia thành các nhóm
cứng và mềm, tăng tính thiết thực, thể hiện
rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, đánh giá,
tránh chồng chéo, tạo điều kiện để người
dân tham gia điều chỉnh phù hợp với địa
phương;
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức
thực hiện, tập trung vào: (i) Phát huy mạnh
hơn vai trò của Ban phát triển thôn và các
Tổ tự quản; mở rộng phân cấp một cách
phù hợp, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
hoạt động; (ii) Hoàn thiện các quy định về
sự tham gia của người dân; cải tiến cơ chế
giám sát của người dân. Lưu ý đến người
nghèo và các nhóm yếu thế; (iii) Chú trọng
hơn, cưỡng chế hơn việc công khai minh
bạch thông tin, đảm bảo tốt cả hai chiều:
đến và phản hồi từ người dân đầy đủ và
chính xác; (iv) Hoàn thiện cơ chế phối hợp
giữa các ngành, phân cấp giữa các cấp; cải
tiến cách hướng dẫn thực hiện các tiêu chí
theo hướng tập trung, thu gọn nguồn tài
liệu, tránh tản mạn, dẫn chiếu ở nhiều văn
bản; (v) Cải tiến phương pháp, biểu mẫu
đánh giá kết quả xây dựng NTM và sự hài
lòng của người dân.
14 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy vai trò người dân trong xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT HUY VAI TRÒ
NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI 10 NĂM QUA
1.1. Vai trò chủ thể và trách nhiệm xã
hội của người dân trong xây dựng nông
thôn mới
Phát huy vai trò người dân trong
xây dựng NTM là vấn đề có tính nền tảng
và bao trùm, bởi lẽ, một là mọi vấn đề liên
quan, tác động đến chủ thể của bất cứ hoạt
động nào cũng luôn là quan trọng, là yếu
tố chủ quan có tính nền tảng; hai là người
dân tham gia toàn bộ mọi hoạt động xây
dựng NTM, là người đề xuất nhu cầu, tham
gia thực hiện, hưởng thụ, kiểm tra giám sát
mọi tiêu chí NTM, vì thế đây là vấn đề bao
trùm, liên quan đến toàn bộ các lĩnh vực
của NTM, là đối tượng nghiên cứu của tất
cả các chuyên ngành khoa học. Có thể nói,
bàn về bất kỳ chuyên đề nào của xây dựng
NTM cũng được quy chiếu đến vai trò chủ
thể của người dân, đều có một góc nhìn từ
phía người dân.
Việc phát huy sức dân trong xây dựng
NTM phải dựa trên vai trò chủ thể và trách
nhiệm xã hội có tính đặc thù của người dân
nông thôn. Mức độ phát huy phụ thuộc vào
cả hai phía tương tác: Chủ thể nhà nước (Chủ
thể công) và Chủ thể người dân. Trong đó,
các cơ quan nhà nước phải nhận thức đầy
đủ về vai trò chủ thể của người dân, thiết
PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TSKH BẠCH QUỐC KHANG
TSKH, Ủy viên Ban Chủ nhiệm kiêm Thư ký Khoa học Chương trình KHCN
phục vụ xây dựng NTM
270
271
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
lập hệ thống thể chế, chính sách và các quy
định cụ thể, tạo điều kiện và tổ chức thực
hiện quyền làm chủ của người dân; người
dân có quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
thực hiện quyền làm chủ của mình.
Vai trò chủ thể của người dân nông
thôn trong xây dựng NTM được thể hiện ở
các góc độ:
(i) Chủ thể nhận thức chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về xây dựng nông thôn mới. Từ coi dân là đối
tượng của tuyên truyền, phổ biến trở thành
chủ thể nhận biết (dân biết) là sự khác biệt
lớn về tư tưởng phát huy sức dân;
(ii) Chủ thể thực hiện mọi hoạt động
xây dựng NTM: Người dân trực tiếp tham gia
trong phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất,
xây dựng hạ tầng nông thôn, xây dựng văn
hóa và quản lý xã hội, xây dựng và giữ gìn
cảnh quan, bảo vệ môi trường, giữ gìn an
ninh trật tự Họ góp ý, góp công, góp sức,
góp tiền, góp đất, góp hiện vật, thời gian
và nhiều loại tài sản hữu hình, vô hình khác
trong các hoạt động này;
(iii) Chủ thể kiểm tra, giám sát, phản
biện xã hội trong xây dựng nông thôn mới;
(iv) Chủ thể xây dựng hệ thống chính
trị cơ sở “của dân, do dân và vì dân”. Họ là
lực lượng chính xây dựng tổ chức và tích cực
tham gia hoạt động của chính quyền, đoàn
thể các cấp, qua đó thể hiện trách nhiệm xã
hội của mình;
(v) Chủ thể hưởng thụ thành quả xây
dựng NTM. Đây chính là chủ thể thực chất,
thúc đẩy người dân tích cực tham gia, kiểm
tra, giám sát quá trình xây dựng NTM.
Trách nhiệm xã hội là một khung đạo
đức gợi ý rằng một thực thể, dù là cá nhân
hay tổ chức, thì đều có bổn phận phải hành
động vì lợi ích của xã hội nói chung. Những
hành động đó vượt lên trên các trách nhiệm
pháp luật. Trách nhiệm xã hội của từng cá
nhân bao gồm sự tham gia của người dân
vào cộng đồng, các tổ chức đoàn thể xã hội.
Việc người dân tham gia tích cực vào các
hoạt động xã hội thể hiện trách nhiệm xã
hội và vai trò chủ thể của họ. Mọi công việc
trong xây dựng NTM ở xã, thôn đều cần đến
sự tham gia của người dân với trách nhiệm
xã hội của họ. Đặc biệt, khi gặp khó khăn,
trở ngại, nhất là trong xây dựng hạ tầng ở
địa bàn khó khăn, việc phát huy trách nhiệm
xã hội của người dân là giải pháp quan trọng
“khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Thực trạng phát huy vai trò chủ thể
người dân trong xây dựng NTM 10 năm
qua ở nước ta nhìn từ hai phía Nhà nước và
Người dân thể hiện khá nhiều vấn đề cần
quan tâm giải quyết. Giữa nhận thức và thực
hành vai trò chủ thể của người dân luôn có
khoảng cách và khoảng cách đó luôn biến
đổi qua các thời kỳ với tư cách vừa là yếu tố
tác động, vừa là hệ quả của quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
1.2. Thực tế phát huy vai trò người
dân trong xây dựng NTM 10 năm qua
a) Tổ chức thực hiện vai trò chủ thể của
người dân trong xây dựng NTM
Trong xây dựng NTM, chủ trương,
đường lối và hành động thực tiễn của chúng
ta về phát huy vai trò người dân có những
chuyển biến tích cực.
Về nhận thức, chúng ta đã sớm khẳng
định vai trò chủ thể của người dân trong
272
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
phát triển nông nghiệp, nông thôn, mà rõ
nhất là trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 BCH TW khóa X: “Trong mối quan hệ mật
thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông
thôn, nông dân là chủ thể của quá trình
phát triển”1. Trong xây dựng NTM Đảng,
Nhà nước đã chủ trương phải dựa vào dân:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân hưởng thụ” và chủ trương đó được cụ
thể hóa thành quy định của Chương trình
MTQG xây dựng NTM: “Phát huy vai trò
tham gia của cộng đồng dân cư nông thôn
là chính, mọi hoạt động do người dân bàn
bạc, quyết định”.
Về mặt thực tiễn, chúng ta đã rút ra
nhiều bài học kinh nghiệm trong và ngoài
nước, chuyển từ cách làm chương trình
MTQG kiểu cũ sang phong trào sâu rộng của
dân, đẩy mạnh tuyên truyền để dân biết, lấy
dân làm chủ thể, dựa vào sức dân, thi đua
tạo động lực thay cho áp lực.
Từ đó đã chọn cách tiếp cận và phương
pháp phù hợp. Đây là vấn đề lớn đáng để
nghiên cứu sâu hơn, chỉ xin đề cập đến một
số khía cạnh. Chương trình xây dựng NTM
là chương trình toàn quốc, nhưng chọn địa
bàn triển khai thực hiện là cấp xã/thôn, lấy
đó địa bàn cơ bản, là nơi hội tụ các nguồn
lực, là đối tượng để xây dựng Bộ tiêu chí
NTM. Điều đó là đúng đắn, bởi xã/thôn là
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
2 Văn bản quan trọng nhất là Quyết định 41/2016/QĐ-TTg, Thông tư 01/2017/TT-BKHĐT của Bộ KH-ĐT, theo đó người
dân được tạo điều kiện để tăng cường sự tham gia vào các hoạt động của Chương trình từ việc xác định đối tượng thụ
hưởng đến việc lập kế hoạch, triển khai, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện, đảm bảo tính công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong suốt quá trình thực hiện Chương trình.
3 05 hình thức tham gia của người dân: (1) Tham gia ý kiến vào đề án xây dựng NTM, bản đồ án quy hoạch NTM cấp xã;
(2) Tham gia vào lựa chọn những công việc cần làm trước, làm sau thiết thực với yêu cầu của người dân trong xã và phù
hợp với khả năng, điều kiện của địa phương; (3) Quyết định mức độ đóng góp trong xây dựng các công trình công cộng
của thôn, xã; (4) Cử đại diện (Ban giám sát) tham gia quản lý và giám sát các công trình xây dựng của xã; (5) Tổ chức
quản lý, vận hành và bảo dưỡng các công trình sau khi hoàn thành.
nơi gần với cộng đồng nhất, phát huy tốt
nhất vai trò của dân, người dân có điều kiện
tham gia từ đầu đến cuối, thực sự được làm
chủ và hưởng thụ thành quả. Từ xác định
địa bàn đúng, Chương trình xây dựng NTM
được chuyển thành các dự án phát triển, dự
án xây dựng cụ thể ở xã/thôn. Điều này giúp
cho Chương trình MTQG được thực hiện có
sự tham gia tích cực của người dân, đảm
bảo tính thiết thực, tiết kiệm, chất lượng và
hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng của dân.
Từ cách tiếp cận đó, chúng ta thiết lập
được hệ thống các quy định cụ thể cho các
chủ thể, làm rõ cơ chế hoạt động, vận hành
của Chương trình, quy định rõ ràng chức
trách của các chủ thể Nhà nước và chủ thể
người dân2. Ví dụ, trong Sổ tay của Chương
trình xây dựng NTM quy định rõ cách thức
tham gia của người dân vào các công trình
của địa phương3. Toàn bộ các giải pháp phát
huy vai trò người dân xét cho cùng được
hiện thực hóa nhờ cách thức tổ chức quản
lý, dẫn dắt của hệ thống chính quyền các
cấp và các cơ quan chỉ đạo, điều hành xây
dựng NTM. Điểm tiến bộ là người dân được
coi là chủ thể hưởng thụ. Vì thế, công tác chỉ
đạo thực hiện Chương trình thường xuyên
được rà soát, cải tiến để hướng về người
dân, tập trung vào những vấn đề thiết thực
nhất với người dân, nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người dân.
273
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
b) Đánh giá gián tiếp sự đóng góp của
người dân qua những thành tựu nổi bật của
xây dựng nông thôn mới
Các thành tựu nổi bật của xây dựng
NTM 10 năm qua đều nhờ sự đóng góp to
lớn của người dân. Có thể nói, các thành
tựu đó thực sự là những chuyến biến to
lớn, toàn diện, có tầm chiến lược, tạo ra
bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển
nông thôn Việt Nam.
Về tổng thể, đến nay (hết 6/2019), cả
nước đã có 4.458 (50,01%) xã đạt chuẩn
NTM; bình quân cả nước đạt 15,26 tiêu chí/
xã; có 76/664 (11,45%) đơn vị cấp huyện
thuộc 34 tỉnh, TP đã hoàn thành nhiệm vụ/
đạt chuẩn NTM; cả nước không còn xã dưới
5 tiêu chí, không còn nợ đọng xây dựng cơ
bản. Xây dựng NTM đã về đích trước 1,5
năm so với mục tiêu năm 2020 (50% số xã
đạt chuẩn; bình quân 15% tiêu chí/xã).
Đặc biệt, Đồng Nai, Nam Định, Bình Dương
và Đà Nẵng là 04 tỉnh, thành phố đầu tiên có
100% số xã đạt chuẩn NTM, trong đó, tỉnh
Đồng Nai có 100% xã và 100% đơn vị cấp
huyện đạt chuẩn. Nhiều địa phương đang
chuyển sang xây dựng NTM nâng cao, kiểu
mẫu, theo hướng bền vững.
Trong những lĩnh vực cụ thể, nơi thể
hiện rõ nét sự đóng góp của người dân, đã
có các thành tựu nổi bật:
- Kết quả huy động nguồn lực thực
4 Nếu trong 5 năm đầu tiên bắt tay xây dựng NTM hầu hết các xã đều vận động người dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng,
khiến tổng mức huy động khá lớn, trong khi nguồn NSNN thì ít, nên tỷ lệ này khá cao, thì 3 năm qua sự huy động chủ yếu ở
các xã chưa đạt chuẩn về xây dựng hạ tầng, còn ở các xã đã đạt tiêu chí này chỉ duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp để đạt chuẩn
mới (trong khi nguồn NSNN lại tăng lên). Tuy tỷ lệ nhỏ, nhưng tổng mức huy động thì xấp xỉ, bình quân dân đóng góp 19.000
tỷ đồng/năm, so với 21.489 tỷ đồng/năm giai đoạn I.
hiện Chương trình thể hiện mức độ tham
gia trực tiếp của người dân. Trong 3 năm
qua (2016-2018), nguồn lực đóng góp của
người dân chiếm 6,9% (56.799 tỷ đồng)
trong tổng nguồn lực huy động khoảng
820.964 tỷ đồng. Bên cạnh đó, nguồn vốn
doanh nghiệp đóng góp chiếm 4,81%. Nếu
coi doanh nghiệp cũng thuộc nhóm chủ
thể người dân (cùng với các chủ kinh tế hộ
khác), thì nguồn đóng góp của người dân
nói chung chiếm 11,71%, trong khi nguồn
NSNN cấp trực tiếp cho xây dựng NTM chỉ
chiếm 2,9%.
Mặc dù tỷ lệ đóng góp của người dân
trong 3 năm qua (6,9%) nhỏ hơn so với
12,62% của giai đoạn I (2010-2015), nhưng
không có nghĩa mức độ đóng góp của người
dân bị sụt giảm. Khi so mức đóng góp đó với
tiến độ xây dựng hạ tầng nông thôn qua hai
giai đoạn sẽ thấy tính tích cực của nó4.
- Kết quả xây dựng hạ tầng kinh tế -
xã hội: Nhờ huy động tốt các nguồn lực cho
phát triển hạ tầng, diện mạo nông thôn đã
khởi sắc rõ rệt. Đến nay (6/2019), cả nước có
63,75% số xã đạt tiêu chí giao thông; 90,7%
số xã đạt tiêu chí thủy lợi; 62,8% số xã đạt
tiêu chí trường học; 60,3% số xã đạt tiêu
chí cơ sở vật chất văn hóa... Theo Tổng cục
Thống kê, giao thông nông thôn 8 năm qua
đã hoàn thành một khối lượng lớn hơn 5
lần của 10 năm (2001-2010). Tại một số địa
phương xuất hiện “đại lộ nông thôn”. Tương
274
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
tự, các hạ tầng thiết yếu khác ở nông thôn
cũng được xây dựng với tốc độ nhanh hơn5.
- Kết quả phát triển sản xuất, tạo sinh
kế và nâng cao thu nhập cho người dân
nông thôn. Đến nay (6/2019), cả nước có
67,3% số xã đạt tiêu chí thu nhập; 67,5% số
xã đạt tiêu chí về hộ nghèo; 97,6% số xã đạt
tiêu chí lao động có việc làm; 78,7% số xã
đạt tiêu chí về tổ chức sản xuất. Sự tham gia
của người dân không chỉ giúp đạt các tiêu
chí về số lượng, mà còn thúc đẩy phát triển
về chất, như xây dựng chuỗi giá trị liên kết
sản xuất đối với các nhóm sản phẩm chủ lực
3 cấp tỉnh, huyện, xã và OCOP6, gắn với nâng
cao hiệu quả hoạt động của các HTX, phát
triển nông nghiệp sạch, du lịch sinh thái...
- Kết quả về văn hóa - xã hội, đến
6/2019 cả nước đã có 81,6% số xã đạt tiêu
chí văn hóa, 91,6% số xã đạt tiêu chí quốc
phòng và an ninh. Môi trường lành mạnh,
đa màu sắc văn hóa của người dân, cùng với
5 Theo Tổng cục Thống kê, đến nay 99,4% số xã cả nước có đường ô tô đến trung tâm xã; mạng lưới điện quốc gia đã
bao phủ đến 100% số xã và 97,8% số thôn; 99,7% số xã có trường tiểu học, trường mẫu giáo; 99,5% số xã có trạm y tế xã;
60,8% số xã có chợ; 58,6% số xã có nhà văn hoá. Hệ thống thuỷ nông được xây dựng mới và hoàn thiện với trên 18.100
trạm bơm, bình quân 2,0 trạm/xã. 4.498 xã có công trình nước sạch tập trung, cả nước có 16.092 công trình cấp nước
sinh hoạt tập trung.
6 Đến 6/2019 đã có 49 tỉnh, TP phê duyệt đề án, kế hoạch OCOP tỉnh. Cả nước có khoảng 4.823 sản phẩm đặc sản, dịch
vụ du lịch cấp xã, huyện, thuộc nhóm OCOP có lợi thế, trong đó chỉ với 49 tỉnh đã phê duyệt kế hoạch thì dự kiến năm
2020 đã có 2.418 sản phẩm được đăng ký/công bố tiêu chuẩn chất lượng (mục tiêu là 2400 SP). Bên cạnh đó, cả nước đã
phát triển được 21.000 mô hình liên kết sản xuất, ứng dụng công nghệ cao trên diện rộng, hình thành được một số vùng
sản xuất hàng hóa tập trung; tiếp tục củng cố 1.028 chuỗi nông sản an toàn (tăng 284 chuỗi so với năm 2017).
7 Như các mô hình “Dòng họ văn hóa” của Quảng Nam, “Nụ cười công sở” ở Đồng Tháp, Bình Dương, CLB “Gia đình
hạnh phúc”, “Gia đình văn hóa” ở Vĩnh Phúc
8 Như Lễ hội Hoa Tam giác mạch ở Hà Giang, Lễ hội trái cây ở Bắc Giang, Lễ hội Hoa Ban ở Điện Biên. Bảo tàng Đồng
quê ở Giao Thuỷ (Nam Định), Bảo tàng Nông cụ và trò chơi dân gian, Khu du lịch trải nghiệm ở Phong Giang (xã Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh)
9 Ngày càng có nhiều các tổ thu gom rác thải sinh hoạt, bao bì thuốc bảo vệ thực vật do cộng đồng thành lập, hoạt
động theo hình thức tự nguyện. Nhiều địa phương như Hà Giang, Sơn La, Lai Châu đã vận động được các hộ đồng bào
dân tộc thiểu số di dời chuồng trại chăn nuôi ra khỏi nhà sàn. Nhiều mô hình cải tạo cảnh quan được các địa phương
áp dụng sáng tạo, phù hợp với thực tế, góp phần tạo nên diện mạo mới ở nông thôn, như mô hình trồng hoa, cây xanh
“Từ nhà ra ruộng”, hai bên đường giao thông (Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng
Nam, Đồng Nai, Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long...); mô hình con đường bích họa (Đan Phượng, Hà Nội; Tam Kỳ, Quảng
Nam); làng bích họa của đồng bào dân tộc Dao (Móng Cái, Quảng Ninh)...
các phong trào văn hóa đang tạo ra cuộc
sống tinh thần mang tính cộng đồng cao
trong làng xã, góp phần gìn giữ, bảo tồn
bản sắc dân tộc, từng bước trở thành nhân
tố tích cực, trực tiếp đóng góp vào phát
triển kinh tế xã hội của các miền quê. Đã
xuất hiện nhiều mô hình điển hình về xây
dựng đời sống văn hóa7, lễ hội truyền thống
lành mạnh, phong trào văn hóa, văn nghệ,
thể dục, thể thao8.
- Về môi trường, đến 6/2019 cả nước
đã có 61,1% số xã đạt tiêu chí môi trường
và an toàn thực phẩm. Công tác bảo vệ môi
trường nông thôn vốn có nhiều khó khăn,
rào cản, nay đã có bước đột phá lớn, nhất
là vấn đề xử lý rác thải khu dân cư và cải
tạo cảnh quan nông thôn xanh - sạch - đẹp,
trong đó ý thức và sự tham gia của người
dân được coi là có nhiều tiến bộ9. Đã có 38
tỉnh, thành phố ban hành kế hoạch xử lý rác
thải tập trung ở nông thôn. Số xã, thôn có
275
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
hệ thống thoát nước thải sinh hoạt, có thu
gom, xử lý rác thải tăng rõ rệt10. Mô hình khu
dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu đã được Trung
ương chỉ đạo và các địa phương trên cả
nước chủ động nhân rộng.
- Hệ thống chính trị và quốc phòng -
an ninh ở các địa phương được xây dựng
gắn với phát huy vai trò chủ thể của người
dân. Tính đến 6/2019) đã có 78,4% số xã
đạt tiêu chí về hệ thống tổ chức chính trị
- xã hội; 91,6% số xã đạt tiêu chí về quốc
phòng và an ninh. Với sự tham gia tích
cực của người dân, nhiều địa phương đã
thành lập các đội tự quản an ninh trật tự,
CLB phòng chống bạo lực gia đình, phòng
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, bảo
vệ tài sản11
c) Đánh giá sự tham gia của người dân
qua kết quả điều tra
Theo kết quả khảo sát thực tế ở các
tỉnh đại diện cho các vùng miền, dân tộc
của một số đề tài khoa học thực hiện trong
8 năm qua (2011-2019), vai trò chủ thể của
người dân trong xây dựng NTM được thể
hiện ở nhiều mặt và rộng khắp.
- Về đóng góp nguồn lực cho xây
dựng NTM. Mặc dù tỷ lệ đóng góp của cộng
đồng, người dân tính chung trong cả nước
10 Đến cuối năm 2018, cả nước có 3.210 xã, 19.500 thôn có hệ thống thoát nước thải sinh hoạt (chiếm 35,8% tổng số xã
và 24,4% tổng số thôn). Tỷ lệ xã có thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 44,1% năm 2011 lên 63,5% hiện nay; tỷ lệ thôn có
thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 25,8% lên 47,3%. Tỷ lệ xã có điểm thu gom thuốc bảo vệ thực vật cả nước đạt 21,0%.
Cả nước có 316 xã có lò đốt rác sinh hoạt, trong đó có 280 xã có lò đạt tiêu chuẩn môi trường. Tỷ lệ làng nghề có thu gom
nước thải tập trung chiếm 27,6% tổng số làng nghề có nước thải sản xuất, trong đó 16,1% làng nghề xử lý tập trung đạt
tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ làng nghề có điểm thu gom chất thải rắn công nghiệp chiếm 20,9% tổng số làng nghề có
chất thải rắn công nghiệp (BC Sơ kết 3 năm 2016-2018).
11 Tính đến cuối năm 2019, cả nước có trên 500 loại mô hình tổ chức quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự ở nông thôn;
61.158 Tổ an ninh nhân dân với 306.524 thành viên; 36.361 Tổ hòa giải với 174.524 thành viên; 92.623 Tổ tự quản với
358.021 thành viên; 31.392 Đội thanh niên xung kích. (BC sơ kết 3 năm 2016-2018).
12 Liên minh minh bạch ngân sách (BTAP): Tiếng nói của người dân và cán bộ địa phương về Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 (Trường hợp tỉnh Hòa Bình và Quảng Trị). Báo cáo đánh giá
2018.
nêu trong báo cáo là khá thấp, nhưng trong
thực tế, mức đóng góp của dân vào xây
dựng hạ tầng thiết yếu cấp thôn, bản lớn
hơn nhiều. Theo kết quả khảo sát12, có thể
rút ra các kết luận:
+ Tỷ lệ đóng góp của người dân trong
các công trình cấp thôn, bản rất cao, trên
40-50%;
+ Các công trình cấp thôn, bản và
những công trình quy mô nhỏ, áp dụng
theo cơ chế đặc thù, thì sự tham gia của
cộng đồng, người dân là rất tích cực, thậm
chí công đồng được tự tổ chức thi công,
hiệu quả rất cao, dân đóng góp được nhiều
nhất, khẳng định cấp thôn, bản, ấp là thích
hợp nhất để phát huy vai trò người dân;
+ Trong thực tế hiện rất khó quy đổi
tương đương giá trị đóng góp của người
dân, như công lao động, góp đất, góp cây
cối và các loại tài sản
- Trong xây dựng hạ tầng cơ bản, đời
sống văn hóa, quản lý xã hội, giữ gìn cảnh
quan, môi trường, an ninh trật tự ở nông
thôn, vai trò chủ thể của người dân được
phát huy ở nhiều hình thức, trong đó, tham
gia các hoạt động đoàn thể, xã hội là chỉ báo
quan trọng xác định trách nhiệm xã hội và
vai trò chủ thể của người dân. Ở đây có mấy
276
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
nhận định đáng lưu ý:
+ Người dân còn rất khó thể hiện vai
trò chủ thể một cách độc lập. Họ tham gia
các hoạt động xây dựng NTM một cách
có điều kiện, cần có sự tuyên truyền, khởi
xướng, dẫn dắt của chính quyền và các tổ
chức đoàn thể ở địa phương;
+ Số lượng các tổ chức đoàn thể ở địa
phương ngày một tăng nhanh và đa dạng.
Trong vòng 20 năm, từ chỗ chỉ có 300 tổ
chức hội cấp tỉnh trong cả nước năm 1990
đã tăng lên 15.000 hội hoạt động ở các địa
phương năm 2010, thể hiện khái quát mức
độ tham gia của người dân trong các tổ
chức này;
+ Đại đa số người dân đều tham gia
các hoạt động xã hội ở địa phương, bình
quân mỗi người dân tham gia ít nhất một
tổ chức/đoàn thể/hội nào đó và khoảng
04 hoạt động xã hội. Trong đó Hội nông
dân, Hội Phụ nữ và các Nhóm tôn giáo, tín
ngưỡng là 3 tổ chức có số người tham gia
đông nhất;
+ Nội dung tham gia hoạt động xã
hội của người dân chủ yếu là từ thiện, nghề
nghiệp, đảm bảo an ninh trật tự, văn hóa tín
ngưỡng. Người dân các tỉnh phía Bắc tham
gia nhiều hoạt động xã hội hơn phía Nam,
nhưng ở phía Nam nội dung hoạt động
thiên về sản xuất hơn. Nhìn chung, không
có sự khác biệt đáng kể về sự tham gia của
13 Bùi Quang Dũng, Đặng Thị Việt Phương: Điều tra nông dân Việt Nam 2009-2010. BC Viện HL KHXH, 2011.
14 Ví dụ, đối với xây dựng hạ tầng cơ bản, trong khi chỉ có 40,6% người dân có đóng góp ý kiến (nói ít), thì tỷ lệ tham gia
xây dựng lại cao tới 89,3% (làm nhiều hơn). Đối với xây dựng và thực hiện hương ước, tỷ lệ người tham gia là 71%, cũng
nhiều hơn tỷ lệ đóng góp ý kiến (44,2%). Tương tự là bảo vệ an ninh trật tự (65,3% so với 32,9%). Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia
vào kế hoạch phát triển KT-XH của xã thì người lại, tỷ lệ người góp ý (62,4%) cao hơn tỷ lệ tham gia (39,7%), phải chăng
người dân chưa được tạo điều kiện để tham gia thực hiện kế hoạch.
15 Có 92,5% thừa nhận họp thôn/ấp đã giúp họ nắm được thông tin đời sống của thôn/xã. Nhiều người (41,6%) cho là
nhờ họp biết rõ trách nhiệm của hộ gia đình với cộng đồng
người dân vào hai nhóm hoạt động vì lợi ích
công đồng và vì nhu cầu cá nhân. Những
người có trình độ học vấn cao, người có
điều kiện kinh tế hơn thì có xu hướng tham
gia các hoạt động vì cộng đồng, trong khi
người có trình độ học vấn thấp, ít có điều
kiện kinh tế thì nghiêng về phục vụ nhu cầu
cá nhân13;
+ Nhận thức của người dân về lợi ích
tham gia các hoạt động xã hội được cải thiện
hơn. Đa số (trên 50%) cho rằng tham gia các
hoạt động xã hội mang lại lợi ích cho địa
phương, đóng góp cho cộng đồng trên địa
bàn.
+ Mức độ tích cực tham gia các hoạt
động xây dựng NTM của người dân cũng có
sự khác biệt giữa nói (đóng góp ý kiến) và
làm (trực tiếp tham gia thực hiện) tùy thuộc
vào loại hoạt động, nói chung là dân làm
nhiều hơn nói, ít lý luận, nhiều thực hành14.
+ Vai trò chủ động của chủ thể công là
khá tích cực. Đa số người dân đều cho rằng
họ ngày càng được hỏi ý kiến nhiều hơn đối
với các hoạt động liên quan đến đời sống
của họ. Gần một nửa số người được hỏi cho
rằng phần lớn các quyết định quan trọng
về đời sống người dân của đảng ủy, chính
quyền, HĐND xã chủ yếu phản ánh ý kiến
của đa số nhân dân. Các cuộc họp thôn/ấp
được đa số người dân đánh giá tích cực15
- Về mức độ hài lòng của người dân
277
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
trong xây dựng NTM16. Với tư cách là chủ thể
hưởng thụ, mức độ hài lòng của người dân
là chỉ báo quan trọng trong đánh giá kết
quả phát huy vai trò của họ. Kết quả khảo
sát mức độ hài lòng của người dân của một
số đề tài khoa học đã giúp nhận ra một số
nhận xét độc lập:
+ Sự hài lòng về quá trình triển khai
và phát huy vai trò tham gia của người dân.
Người dân có mức hài lòng rất cao đối với
công tác lãnh đạo và tổ chức thực hiện tại
địa phương, bình quân 8,3 điểm (thang
điểm 10) đối với công tác chỉ đạo thực hiện;
8,5/10 điểm đối với việc phát huy vai trò
tham gia của người dân. Trong đó, mức hài
lòng có khác nhau đối với một số hoạt động
cụ thể của chính quyền.
+ Sự hài lòng về kết quả xây dựng
NTM. Đối với các kết quả xây dựng cơ sở hạ
tầng, hoạt động văn hóa – xã hội, phát triển
sản xuất, sự hài lòng của người dân là trung
bình (7,1/10 điểm). Mức hài lòng này tăng
dần theo loại xã: từ xã khó khăn đến xã đạt
chuẩn. Theo từng loại kết quả thì: xây dựng
hạ tầng thiết yếu, môi trường, thị trường,
đào tạo nghề và khuyến nông có mức độ
hài lòng thấp (dưới 6/10 điểm), trong đó hạ
tầng và sản xuất thấp hơn so với mảng văn
hóa – xã hội (trừ yếu tố môi trường).
+ Sự hài lòng chung về NTM có mức
bình quân khá cao (7,8/10). Trong đó xã
phấn đấu đạt chuẩn và xã đạt chuẩn có mức
16 Nguyễn Ngọc Luân, Lê Vũ Ngọc Kiên (2017): Đánh giá sự hài lòng của người dân về NTM.
17 Phiếu lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân thực hiện theo Hướng dẫn 78/HD-MTTW-BTT, gồm 17 nội dung,
với 3 mức hài lòng, không hài lòng và không có ý kiến. Theo cán bộ cấp huyện, xã, việc ghi nhận tên và địa chỉ người
trả lời khiến nhiều hộ gia đình không muốn trả lời thật. Các câu hỏi còn được thiết kế chung chung, khó đánh giá đối
với người dân (như về giáo dục, y tế, cải cách thủ tục hành chính). Chất lượng phiếu lấy ý kiến có thể chưa phản ánh
đúng toàn bộ ý kiến của người dân. Ở một số thôn vẫn còn tình trạng điền phiếu dựa theo ý kiến của người khác. Cán
bộ xã cũng có sự điều chỉnh linh hoạt, phải giải thích/đề nghị với người dân để đạt được kết quả theo quy định. Từ đó,
việc đánh giá có thể chưa thực chất như mong muốn.
hài lòng cao (8/10) hơn xã khó khăn (7,1).
Vấn đề chưa hài lòng nhất được nhiều
người dân lựa chọn là môi trường và điều
kiện sinh hoạt trong gia đình. Chỉ có gần
14% cho biết không có điều gì chưa hài lòng.
+ Sự khác biệt trong đánh giá mức độ
hài lòng của người dân giữa các khảo sát
thực tế và số liệu báo cáo từ các địa phương
là đương nhiên, lý do nằm ở cách đánh giá
và đặc điểm tham gia của người dân trong
đánh giá. Theo các chuyên gia khảo sát, cách
đánh giá sự hài lòng của người dân còn một
số điểm chưa hợp lý17.
1.3. Một số vấn đề đáng lưu ý về phát
huy vai trò của người dân trong xây dựng NTM
a) Từ phía Nhà nước, người tổ chức
thực hiện
- Về hệ thống chính sách. Hầu hết các
giải pháp chính sách hiện nay đều hướng tới
người dân như là nhóm đối tượng đặc biệt,
đưa ra những cơ chế hỗ trợ đặc thù, dẫn đến
mang nặng tính vận động, tuyên truyền,
bao cấp, tạo ra tư tưởng ỉ lại, chưa chú trọng
đúng mức vai trò chủ thể của người dân. Ở
góc độ này, Nhà nước chưa làm tốt vai trò
dẫn dắt, kiến tạo. Cần tiếp tục đổi mới chính
sách đối với nông dân nhằm kích thích tiềm
năng, tính tích cực, chủ động của người dân
trong xây dựng nông thôn mới.
- Về thể chế thực hiện quyền làm chủ
278
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
của người dân. Còn nhiều quy định chưa
hợp lý, đầy đủ, chậm được điều chỉnh, hoàn
thiện, chưa tạo điều kiện để người dân phát
huy vai trò chủ thể. Trong đó đáng lưu ý là:
quyền tự chủ của người sản xuất đối với
ruộng đất; thể chế hóa chủ trương phát
triển các thành phần kinh tế, ưu tiên phát
triển kinh tế tư nhân chậm chạp, chưa đủ
tầm, còn thiếu nhất quán; trách nhiệm, lợi
ích của người sản xuất trong các tổ chức
kinh tế, liên kết chuỗi giá trị chưa rõ ràng,
còn nhiều rào cản về pháp lý cho đột phá
trong đổi mới, phát triển HTX và các hình
thức kinh tế tập thể của nông dân; các tổ
chức nghề nghiệp của người sản xuất chưa
được coi trọng, gặp nhiều khó khăn trong
bảo vệ quyền lợi của hội viên; quy chế dân
chủ ở cơ sở chậm được nâng cấp cả về nội
dung và cấp độ pháp lý.
- Nội dung hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội nặng về tuyên truyền, giáo
dục chủ trương chính sách, vẫn được coi là
cơ quan tuyên truyền, cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, nhẹ về vai trò tổ
chức, mở rộng các hoạt động thiết thực vì
lợi ích cộng đồng và người dân. Người dân
vẫn được coi là đối tượng tuyên truyền hơn
là chủ thể nhận thức, là trọng tâm các hoạt
động xã hội của các tổ chức. Một số hoạt
động được nhiều người tham gia lại chủ yếu
về tôn giáo, tín ngưỡng, từ thiện, giải trí.
- Phương thức thực hiện quyền làm
chủ của người dân trong xã hội nói chung
còn bất cập. Công cụ, điều kiện thực hiện
chưa đáp ứng, hiệu quả chưa cao. Chưa chú
trọng đúng mức sự tham gia của người dân,
nhất là người nghèo và các nhóm yếu thế
vào nhiều hoạt động xây dựng NTM.
- Cách tiếp cận, phương pháp triển
khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM
ở mức độ nào đó còn bất cập, kéo dài sự rập
khuôn cứng nhắc, áp đặt, mức độ phân cấp
chưa đủ mạnh. Một số công cụ triển khai
chưa có tính phù hợp cao, ví dụ, bộ tiêu chí
NTM và các quy định về phát huy vai trò
người dân thường xuyên phải điều chỉnh.
- Việc công khai minh bạch thông tin
xây dựng NTM ở xã, thôn chưa có tính cưỡng
chế cao cần thiết, chưa đến được người dân
đầy đủ, kịp thời. Ngay cả nhiều cán bộ xã
cũng không nắm hết thông tin. Người dân
chỉ biết thông tin của các công trình/hoạt
động ở phạm vi thôn. Năng lực giám sát
cộng đồng còn hạn chế, mới chỉ hiệu quả
đối với các công trình cấp thôn (nhờ có đủ
thông tin).
- Tính thiết thực trong xây dựng NTM
ở một số địa phương chưa được chú trọng
cùng với tư tưởng phong trào, ăn xổi, bệnh
thành tích. Ở đó tiếng nói, nguyện vọng
và vai trò tham gia giám sát của người dân
chưa được phát huy đầy đủ. Vì thế sau khi
đạt chuẩn khí thế trùng xuống, có tiêu chí
phải nợ kéo dài, có tiêu chí bị xuống cấp
- Nhận thức, năng lực của cán bộ, nhất
là trong giai đoạn đầu còn yếu, thiếu chủ
động, sáng tạo, còn trông chờ vào chỉ đạo
của cấp trên.
b) Từ phía chủ thể người dân
- Trình độ, năng lực làm chủ của người
dân còn hạn chế, ít có điều kiện, còn chờ đợi
sự dẫn dắt của chính quyền và các tổ chức,
chưa chủ động phát huy vai trò chủ thể.
- Điều kiện thực tế thực hiện quyền làm
279
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
chủ của người dân nhiều nơi còn bất cập;
- Đặc điểm tham gia hoạt động xã hội
của người dân chưa đáp ứng các yêu cầu xây
dựng NTM. Thói quen tiểu nông vẫn nặng
nề. Các hoạt động phục vụ lợi ích cá nhân
tham gia thường xuyên hơn (vài lần/tuần)
so với lợi ích công cộng (một vài lần/quý,
một vài lần/năm). Trong khi đó, nhiều công
việc xây dựng NTM lại rất cần sự tham gia
thường xuyên của người dân. Lợi ích công
cộng của các hoạt động xã hội còn thấp.
c) Các yếu tố khách quan
- Đặc điểm sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn nước ta hiện nay ảnh
hưởng tới nhận thức và hành động thực
hiện vai trò chủ thể của nông dân. Phương
thức sản xuất kinh tế hộ khiến nông dân ở
mức độ nào đó còn cô lập với nhau.
- Thu nhập thấp, xuất phát điểm thấp,
không đồng đều của nông thôn các vùng,
miền khiến điều kiện tham gia của họ vào
xây dựng NTM gặp khó khăn, nhất là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nhóm
người nghèo, yếm thế. Khoảng cách chênh
lệch khá lớn về kết quả đạt chuẩn NTM giữa
các vùng, miền được nêu trong các báo
cáo gián tiếp thể hiện sự chênh lệch về thu
nhập/đóng góp của người dân.
- Các phong tục, tập quán văn hóa, xã
hội cũ, lạc hậu làm hạn chế đáng kể mức độ
phát huy vai trò chủ thể về văn hóa, xã hội
của người dân.
- Tác động từ CNH, HĐH, ĐTH rất phức
tạp. Tư duy và hệ lụy hai mặt của cơ chế
thị trường, trào lưu lao động trẻ ly nông, ly
18 Sau 30 năm đổi mới, nông nghiệp chỉ còn chiếm 17-18% tổng GDP, trong khi lao động nông nghiệp vẫn chiếm hơn
60%, dân cư nông thôn vẫn còn hơn 70%, cơ cấu lao động và dân cư nông thôn lạc hâu hơn cơ cấu kinh tế
hương, khoảng cách giàu nghèo, công nghệ
tin học hiện đại và mạng xã hội lan truyền
ảnh hưởng lớn đến sự ổn định về nhận thức
và thực hiện vai trò chủ thể của người dân ở
nông thôn.
II. CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT
HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG XÂY DỰNG NTM GIAI ĐOẠN TỚI
Tới đây, phát triển kinh tế - xã hội nước
ta sẽ có nhiều biến động dưới tác động của
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đô thị hóa, hội nhập sâu rộng quốc tế và
cạnh tranh, tranh chấp thương mại, phát
triển KHCN với cách mạng công nghiệp 4.0,
biến đổi khí hậu Xét trong khuôn khổ
xây dựng NTM, mà cụ thể là phát huy vai
trò chủ thể người dân trong xây dựng NTM,
thì những biến động trực tiếp sau đây sẽ là
những yếu tố có tác động lớn:
2.1. Tác động của chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và lao động nông thôn
Cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn
nước ta trong giai đoạn tới sẽ chuyển đổi
nhanh hơn do tác động từ bên ngoài (CNH,
HĐH, ĐTH, BĐKH, hội nhập quốc tế, KHCN
và cách mạng công nghiệp 4.0) và bên
trong (từ chính thành quả xây dựng NTM)
theo hướng chuyển nhanh từ nông nghiệp
sang phi nông nghiệp. Sự chuyển dịch sẽ
phức tạp hơn, khác trước đây (khi cơ cấu
kinh tế chuyển khá rõ từ nông nghiệp sang
phi nông nghiệp, thu nhập phi nông nghiệp
ở nông thôn tăng đáng kể, nhưng cơ cấu lao
động thì chuyển dịch chậm chạp, dồn ứ ở
nông thôn18).
280
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
Các xu thế trái chiều tiếp tục diễn ra
đối với dòng chảy lao động nông thôn: đẩy
lao động ra khỏi nông thôn (do biến động
về đất đai, vốn, quy mô sản xuất, quan hệ xã
hội trong xây dựng NTM dưới tác động của
CNH, HĐH, ĐTH); và dồn lao động về khu
vực nông nghiệp (do giảm nhanh lao động
ở khu vực công nghiệp nhờ tăng năng suất
lao động, ứng dụng CNC, sử dụng trí tuệ
nhân tạo). Điều đó càng sẽ làm tăng sự
xáo trộn, cơ cấu lại thành phần lao động,
dân cư cũng như tâm lý của người dân
nông thôn.
2.2. Chuyển động của kinh tế nông
nghiệp tác động đến kinh tế hộ và năng lực
chủ thể của nông dân
Quá trình chuyển đổi nông nghiệp sẽ
được đẩy nhanh nhờ thực hiện tái cơ cấu
nông nghiệp trong bối cảnh mới, diễn ra
theo các xu thế sau:
- Nông nghiệp không thể tiếp tục phát
triển theo chiều rộng truyền thống bằng
duy trì lợi thế khai thác tài nguyên và giá rẻ,
ngày càng phát triển rộng ra ngoài phạm vi
nông thôn trên cơ sở phát triển các chuỗi
liên kết liên ngành (nhất là với công nghiệp
chế biến), liên vùng và quốc tế, chuyển dần
theo hướng sản xuất công nghiệp, có những
thay đổi căn bản về bản chất kinh tế;
- Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp
chuyển dịch mạnh dưới tác động phức tạp,
bất ổn với những thay đổi cơ bản của thị
trường, hướng tới hàng có giá trị dinh dưỡng
cao, thực phẩm chế biến, sản phẩm hữu cơ,
thực phẩm chức năng, hóa mỹ phẩm, đồ nội
thất, sản phẩm thân thiện với môi trường,
có trách nhiệm xã hội;
- Nông nghiệp sẽ HĐH, chuyên môn
hóa cao hơn nhờ quy mô sản xuất tăng lên,
ứng dụng rộng rãi cơ giới hóa đồng bộ và
các tiến bộ KHCN mới, thông minh, hạn chế
rủi ro, tiếp cận nhanh hơn với thông tin thị
trường, sử dụng vốn nhiều hơn, hiệu quả
hơn, hưởng lợi công bằng hơn từ các chuỗi
giá trị. Lực lượng nông dân cũng chuyển
đổi và phân hóa theo chuyên môn, trình độ,
năng lực.
Các diễn biến trên có tác động lớn
kinh tế hộ nông dân. Sự biến đổi của kinh tế
hộ sẽ được đẩy nhanh theo hướng sản xuất
hàng hóa là chính. Cùng với đó sẽ phổ biến
các hộ kinh doanh tổng hợp và các hộ hoàn
toàn phi nông nghiệp. Trong khi đó một bộ
phận hộ nông nghiệp phát triển thành trang
trại, chuyển dần thành doanh nghiệp Các
biến đổi này cùng với sự phát triển của công
nghiệp địa phương và ĐTH sẽ dẫn đến:
- Làm thay đổi bản chất, năng lực, tư
duy, tri thức của các chủ thể kinh tế nông
nghiệp, phân nhóm nông dân theo chuyên
môn hóa, phân hóa nông dân theo năng
lực, trình độ, nguồn vốn, quy mô sản xuất
- Thúc đẩy, tăng tốc sự tan rã khối dân
cư quần tụ trên ruộng đất (về lâu dài), trong
nông nghiệp.
Tựu chung lại, đặc điểm, năng lực trách
nhiệm xã hội và vai trò chủ thể của người
dân nông thôn sẽ mang sắc thái mới, bản
chất mới, đòi hỏi quyền tự quyết rộng hơn.
Sự tham gia của họ vào xây dựng NTM có
thể thay đổi, vừa tích cực (ví dụ, năng động
hơn), vừa tiêu cực (ví dụ, hướng ngoại khỏi
nông thôn nhiều hơn, quan tâm lợi ích bản
thân nhiều hơn).
281
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
Liệu người dân nông thôn tới đây có là
chỗ dựa vững chắc, là nguồn lực chủ yếu của
xây dựng NTM không có điểm dừng? Thể
chế cần phải thay đổi thể nào để tạo điều
kiện cho họ tái tạo và phát huy mạnh mẽ
nguồn lực của mình trong xây dựng NTM?
2.3. Sự biến đổi của các chủ thể kinh
tế nông nghiệp, nông thôn khác
Không chỉ CNH, ĐTH, mà chính quá
trình xây dựng NTM cũng góp phần thúc
đẩy sự biến đổi của các chủ thể kinh tế
khác ở nông thôn (HTX, Tổ hợp tác, doanh
nghiệp) nhanh hơn theo hướng NTM. Một
số chủ thể mới khởi nghiệp nhờ các trào lưu
OCOP, du lịch nông thôn, phát triển tiểu thủ
công nghiệp Các lĩnh vực phát triển này
càng khiến kinh tế nông nghiệp phát triển
rộng ra ngoài nông thôn hơn. Các chủ thể
kinh tế sẽ có tiềm năng lớn hơn. Liệu họ có
còn bám lấy nông thôn, phục vụ nông thôn,
phát huy tốt hơn vai trò của mình trong xây
dựng NTM? Tương tự là câu hỏi về thể chế.
2.4. Sự biến đổi làng xã và quan hệ xã
hội của người dân nông thôn
Đô thị hóa, toàn cầu hóa có thể khiến
khoảng cách giữa nông thôn và đô thị tăng
lên, thúc đẩy di cư nông thôn – đô thị, trong
khi xây dựng NTM cố gắng làm giảm khoảng
cách đó. Tác động đa chiều đến cư dân nông
thôn sẽ phức tạp, kèm theo đó là thay đổi
trong các định chế xã hội (gia đình, cộng
đồng) và giá trị văn hóa nông thôn. Đây là
các yếu tố tác động lớn đến vai trò chủ thể
của người dân nông thôn.
Có thể hình dung sơ bộ xu thế biến đổi
chính của làng xã và đời sống văn hóa, xã hội
nông thôn khi nó chủ yếu chịu tác động của
biến đổi về quan hệ sản xuất, quan hệ thị
trường trên nền tảng của công nghệ thông
tin hiện đại, tác động của tiếp biến văn hóa
đa chiều trong hội nhập quốc tế, hội nhập
vùng miền, dân tộc và sự hoàn thiện của
khung khổ thể chế, pháp luật của xã hội dân
chủ và nhà nước pháp quyền. Tính khép kín
của làng xã đã và sẽ bị phá vỡ nhanh hơn,
một mặt làm cho thôn làng trở thành tập
hợp xã hội hiện đại, mặt khác hậu thuẫn
cho quá trình ly nông, ly hương. Cùng với
đó, là sự thay đổi của các mối quan hệ văn
hóa, xã hội, dòng họ ở thôn làng. “Tinh thần
hương thôn”, “văn hóa thôn làng” sẽ phải
thay đổi theo hướng tích cực và hội nhập,
lược bỏ những sức ỳ cố kết, níu kéo phát
triển, chuyển từ cấp độ văn hóa của kinh tế
sinh tồn, quan hệ khép kín trong dòng họ,
gia đình đến văn hóa tiến bộ, mở rộng hơn;
không gian xã hội, trách nhiệm xã hội và vai
trò chủ thể người dân nông thôn được nới
rộng hơn.
2.5. Chủ trương phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững
Kinh nghiệm thế giới cũng như trong
nước cho thấy, vai trò chủ thể của nhà nước
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn,
xây dựng NTM có sự chuyển đổi qua các giai
đoạn. Từ cơ chế bà đỡ, đầu tư mạnh nguồn lực
nhà nước chuyển dần sang XHH, huy động
các nguồn lực xã hội thay thế dần nguồn lực
nhà nước. Tới đây, sau năm 2020, mức đầu tư
từ nguồn lực nhà nước cho NTM sẽ có biến
động, dù với tốc độ nào thì quy luật chuyển
giao chung cũng không thay đổi.
Điều đó có nghĩa vai trò chủ thể của
người dân được đặt vào vị trí mới, được đẩy
cao và có tầm quan trọng hơn. “Xây dựng
282
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
NTM không có điểm dừng” nghĩa là dựa vào
dân, do dân, vì dân: Mục tiêu của NTM là
nguyện vọng của dân; Động lực của NTM là
nguồn sức dân (là chính); Đầu ra của NTM
là hưởng thụ của dân; Tái đầu tư cho NTM
(vẫn) là nguồn sức dân!
Ở phía đối tác, vai trò chủ thể nhà
nước cũng được yêu cầu phải chuyển đổi,
tập trung vào thiết kế phương thức tổ chức
triển khai thực hiện mới; hoàn thiện hệ
thống thế chế, chính sách; tạo lập các môi
trường liên kết mới cho NTM
III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI
PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ NGƯỜI DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
GIAI ĐOẠN TỚI
3.1. Các định hướng lớn
Ứng với tác động của các yếu tố nói
trên cần phải có định hướng phù hợp để
phát huy vai trò người dân trong phát triển
nông thôn, tựu chung là:
1) Nâng cao năng lực chủ thể của
người dân nông thôn thông qua các giải
pháp khơi dậy tinh thần yêu quê hương đất
nước, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường; nâng
cao trình độ giác ngộ, nhận thức về văn hóa,
xã hội, chính trị và và khả năng phân tích,
thảo luận dân chủ, trau dồi kiến thức gắn
với phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
của người dân;
2) Tạo điều kiện khai thác tối đa vai
trò chủ thể của giai cấp nông dân mới ngày
càng hiện đại và cách mạng hơn bằng hoàn
thiện hệ thống thể chế, chính sách, tạo lập
môi trường phát triển theo cơ chế thị trường;
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực xã hội cho nông nghiệp, nông thôn
3) Tiếp tục đổi mới phương pháp, cách
tiếp cận xây dựng NTM theo hướng lấy
người dân là trung tâm, hướng mạnh hơn
về cơ sở, tạo điều kiện người dân phát huy
vai trò làm chủ NTM.
3.2. Các giải pháp chính
a) Hoàn thiện môi trường thể chế, đáp
ứng nhu cầu mới của xây dựng NTM
Về kinh tế, hệ thống thể chế cần thay
đổi theo hướng: (1) Tăng cường hơn quyền
tự chủ của nông dân đối với ruộng đất; (2)
Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp;
(3) Thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi giá
trị, đảm bảo công bằng, giúp nông dân phát
huy năng lực và hiệu quả sản xuất; (4) Khuyến
khích thành lập các tổ chức nghề nghiệp
của người dân nông thôn; (5) Khuyến khích
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; (6) Phát
huy vai trò các thành phần kinh tế; (7) Hỗ trợ
tín dụng ở nông thôn; (8) Thúc đẩy và nâng
cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông dân.
Trong lĩnh vực xã hội, hệ thống thể chế
cần hoàn thiện theo hướng: (1) Phát huy vai
trò gương mẫu của cán bộ trong hệ thống
chính trị ở nông thôn; (2) Thúc đẩy dân chủ
cơ sở; (3) Tạo điều kiện để người dân nông
thôn tiếp cận pháp luật; (4) Tăng cường cơ
chế giám sát, phản biện xã hội tại địa phương.
b) Nâng cao năng lực cho người dân
Các giải pháp chủ yếu nhằm: (1) Khắc
phục trở ngại tâm lý tiểu nông; (2) Tăng
cường giáo dục chính trị tư tưởng; (3) Phát
huy các hình thức tự quản; (4) Phát triển
năng lực của phụ nữ nông thôn; (5) Phát
283
HỘI THẢO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ QUỐC GIA VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
huy vai trò của Hội Nông dân; (6) Xây dựng
và nâng cao chất lượng hoạt động của các
quỹ hỗ trợ nông dân; (7) Phát huy vai trò của
các tổ chức và đoàn thể tự nguyện; (8) Tăng
cường công tác truyền thông; (9) Cải thiện
các điều kiện sống của người dân.
c) Tiếp tục đổi mới cách tiếp cận,
phương pháp xây dựng NTM
- Tập trung đánh giá, điều chỉnh, bổ
sung cách tiếp cận xây dựng NTM cho đầy
đủ. Trong đó lưu ý: (i) Tăng cường tiếp cận
xây dựng NTM từ cộng đồng thôn, bản, nhất
là ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng
sâu, vùng xa; (ii) Tiếp tục điều chỉnh bộ tiêu
chí theo hướng mở, chia thành các nhóm
cứng và mềm, tăng tính thiết thực, thể hiện
rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện, đánh giá,
tránh chồng chéo, tạo điều kiện để người
dân tham gia điều chỉnh phù hợp với địa
phương;
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức
thực hiện, tập trung vào: (i) Phát huy mạnh
hơn vai trò của Ban phát triển thôn và các
Tổ tự quản; mở rộng phân cấp một cách
phù hợp, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
hoạt động; (ii) Hoàn thiện các quy định về
sự tham gia của người dân; cải tiến cơ chế
giám sát của người dân. Lưu ý đến người
nghèo và các nhóm yếu thế; (iii) Chú trọng
hơn, cưỡng chế hơn việc công khai minh
bạch thông tin, đảm bảo tốt cả hai chiều:
đến và phản hồi từ người dân đầy đủ và
chính xác; (iv) Hoàn thiện cơ chế phối hợp
giữa các ngành, phân cấp giữa các cấp; cải
tiến cách hướng dẫn thực hiện các tiêu chí
theo hướng tập trung, thu gọn nguồn tài
liệu, tránh tản mạn, dẫn chiếu ở nhiều văn
bản; (v) Cải tiến phương pháp, biểu mẫu
đánh giá kết quả xây dựng NTM và sự hài
lòng của người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Chí Bảo (2010): Dân chủ và dân chủ ở cơ
sở nông thôn trong tiến trình đổi mới (xuất bản lần thứ 2),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
2. Bùi Quang Dũng, Đặng Thị Việt Phương (2011):
Điều tra nông dân Việt Nam 2009-2010. Báo cáo Viện Hàn
lâm KHXH, 2011
3. Nguyễn Hữu Đễ (Chủ nhiệm, 2016): Nghiên cứu
đề xuất giải pháp nhân rộng mô hình tự quản về an ninh
trật tự tại các khu dân cư trong xây dựng nông thôn mới,
báo cáo đề tài thuộc Chương trình KHCN phục vụ xây
dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
4. Lê Cao Đoàn (Chủ nhiệm 2016,): Nghiên cứu
thực trạng vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội sau 3
năm xây dựng nông thôn mới và đề xuất giải pháp nâng
cao chất lượng hoạt động xây dựng nông thôn mới của
các tổ chức chính trị- xã hội này, báo cáo đề thuộc Chương
trình KHCN phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
5. Bạch quốc Khang (Chủ biên, 2018): Khoa học với
sự nghiệp nông thôn mới. Nxb Hồng Đức, H. 2018.
6. Nguyễn Linh Khiếu (2017): Vai trò chủ thể của
nông dân trong xây dựng nông thôn mới. Website Tạp chí
Cộng sản, 2017
7. Liên minh minh bạch ngân sách (BTAP, 2018):
Tiếng nói của người dân và cán bộ địa phương về Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới giai
đoạn 2016-2020 (Trường hợp tỉnh Hòa Bình và Quảng
Trị). Báo cáo đánh giá 2018.
8. Nguyễn Ngọc Luân, Lê Vũ Ngọc Kiên (2017):
Đánh giá sự hài lòng của người dân về NTM.
9. Đỗ Thị Thạch (Chủ nhiệm, 2016): Thể chế chính
trị nông thôn Việt Nam hiện nay: Những vấn đề đặt ra hiện
nay và giải pháp hoàn thiện, báo cáo đề tài thuộc Chương
trình KHCN phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
10. Nguyễn Xuân Thắng (chủ nhiệm, 2016):
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm
xã hội và vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng
NTM”, báo cáo đề tài thuộc Chương trình KHCN phục vụ
xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
11. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (Chủ nhiệm, 2016):
Nghiên cứu các giải pháp huy động “vốn xã hội” cho phát
triển ngành nghề phi nông nghiệp phục vụ xây dựng
nông thôn mới, báo cáo đề tài thuộc Chương trình KHCN
phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015.
12. Wolf, E (2000): Giai cấp nông dân và các vấn đề
của nó. Trong Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ở các nước và Việt Nam. Hà Nội, Nxb Thế giới,
2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phat_huy_vai_tro_nguoi_dan_trong_xay_dung_nong_thon_moi.pdf