Tuy các quan điểm và lý thuyết về phát
triển bền vững đa chiều và còn nhiều luận
điểm mơ hồ, nhưng đây vẫn được xem là
xu hướng chủ đạo trong chính sách và
phương hướng phát triển, không chỉ riêng
ở Việt Nam mà ở các nước trên thế giới.
Các nghiên cứu ở Việt Nam về lĩnh vực
này bao quát từ các vấn đề mang tính vĩ
mô, đến các vấn đề mang tính vùng, địa
phương, hoặc trong từng ngành cụ thể
cũng như liên ngành. Trong đó, như các
nghiên cứu đã chỉ ra, và các chính sách
của nhà nước đang hướng tới, là vai trò
quan trọng của các cộng đồng trong phát
triển bền vững vùng và địa phương. Chỉ
khi từng cộng đồng được phát triển bền
vững thì mới đảm bảo sự phát triển bền
vững chung. Vì vậy, việc tiếp tục hỗ trợ và
nâng cao vai trò của cộng đồng và người
dân trong xóa đói, giảm nghèo, tạo sinh kế
bền vững, nâng cao ý thức bảo vệ sinh
thái, môi trường, thiết kế những mô hình
sinh sống lâu dài thích ứng với biến đổi khí
hậu là những vấn đề lớn mà các nghiên
cứu cũng như các chính sách của chính
quyền đang hướng tới vì mục tiêu phát
triển bền vững Việt Nam.
14 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển bền vững - Lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm ở Nam Bộ và Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 1(173)-2013 11
KINH TEÁ HOÏC - XAÕ HOÄI HOÏC
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM Ở NAM BỘ VÀ VIỆT NAM
TRẦN THỊ NHUNG
VÕ DAO CHI
TÓM TẮT
Phát triển bền vững là một trong những
mục tiêu thiên niên kỷ của thế giới và cũng
là một mục tiêu hàng đầu trong phá t triển ở
Việt Nam hiện nay. Nhằm hệ thống lại các
vấn đề lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm
ở Việt Nam, bài viết trình bày khái quát các
học thuyết cơ bản về phát triển bền vững,
bao gồm các khái niệm, các cấp độ phát
triển, quan niệm phát triển bền vững trong
nghiên cứu cộng đồng. Bên cạnh đó, bài
viết cũng cung cấp các nguyên tắc và bộ
chỉ tiêu đo lường phát triển bền vững trên
thế giới và tại Việt Nam, làm cơ sở khoa học
cho việc định lượng các nghiên cứu về phát
triển bền vững và các vấn đề liên quan. Để
làm rõ hơn nội dung và giới hạn nghiên cứu
về phát triển bền vững tại Việt Nam, bài viết
đã tổng quan lại tình hình nghiên cứu ở Việt
Nam, bao gồm các nghiên cứu tổng thể,
các nghiên cứu cấp vùng (Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ) và các nghiên cứu ở các lĩnh
vực tùy theo đặc trưng của từng vùng.
1. CÁC HỌC THUYẾT CƠ BẢN VỀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ “phát triển bền vững” được giới
thiệu lần đầu tiên bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên
Quốc tế (IUCN). Họ cho rằng “sự phát triển
của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới
phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự
tác động đến môi trường sinh thái học". Để
làm rõ hơn khái niệm trên, Ủy ban Thế giới
về môi trường và phát triển (WCED) (1987)
đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững là
"sự phát triển có thể đáp ứng được những
nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn
hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai...". Định nghĩa
trên hàm chứa hai ý tưởng chính: 1) khái
niệm "nhu cầu", đặc biệt nhấn mạnh ưu
tiên đến nhu cầu thiết yếu của người
nghèo trên thế giới; 2) khái niệm hóa
những hạn chế (khuôn định công nghệ và
xã hội trong khả năng chịu đựng của môi
Trần Thị Nhung. Tiến sĩ. Trung tâm Nghiên
cứu Lịch sử Viện Phát triển Bền vững vùng
Nam Bộ.
Võ Dao Chi. Thạc sĩ. Trung tâm Nghiên cứu
Môi trường Viện Phát triển Bền vững vùng
Nam Bộ.
Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp
Bộ “Cộng đồng xã ấp trong sự phát triển bền
vững vùng Đông Nam Bộ” (chủ nhiệm: Trần
Thị Nhung) thuộc Chương trình nghiên cứu
cấp Bộ “Nghiên cứu Nam Bộ năm 2011-2012”
của Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ.
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
12
trường) để đáp ứng nhu cầu hiện tại và
tương lai. Tuy nhiên, tham khảo từ Bùi
Đức Kính (2010), nhiều bình luận cho rằng
khái niệm này quá lạc quan, đầy mơ hồ,
thiếu chuẩn xác và hơn thế nó nhắm đến
các lợi ích khác nhau và thậm chí xung đột
nhau (Benton, 1994, tr. 129; Bartlett, 2006,
tr. 22; và Ross, 2009, tr. 34). Khái niệm
cũng mang tính chung chung, chưa cụ thể
về chủ thể và định lượng, chẳng hạn như
các nhu cầu hiện tại là các nhu cầu nào,
bao nhiêu. Và liệu rằng trong tương lai,
các nhu cầu đó có mất đi, hoặc thay thế
bằng các nhu cầu khác hay không? Liệu
rằng các giới hạn được đặt ra trong hiện
tại có đáp ứng với nhu cầu của thế hệ
tương lai không? Hoặc theo Jennifer A.
Elliott (2008) cái gì mà một thế hệ có thể
chuyển lại cho thế hệ tiếp theo? Chỉ ở vốn
của tự nhiên hoặc bao gồm tài sản gắn liền
sự tinh hoa, sáng tạo của con người? Cái
gì là giới hạn và làm thế nào để giới hạn-
xã hội, công nghệ hoặc môi trường? Từ
một số luận điểm còn khá mơ hồ trong
định nghĩa của WCED, ấn phẩm “Our
Common Journey: A Transition toward
Sustainability” của Hội đồng thuộc Viện
Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ (NAS) vào năm
1999 đã mô tả phát triển bền vững, dựa
trên sự khác biệt vốn có giữa cái mà các
nhà nghiên cứu tìm kiếm để duy trì
(sustain) và cái mà họ tìm kiếm để phát
triển (develop), mối quan hệ của cả hai, và
các phạm vi thời gian của tương lai nhằm
bổ sung thêm cơ sở khoa học cho các
nghiên cứu phát triển. Ba đối tượng chính
cần dược duy trì (bền vững) là Tự nhiên,
Hệ thống hỗ trợ cuộc sống và Cộng đồng.
Đối trọng lại, các đối tượng nên được phát
triển là con người, kinh tế và xã hội. Sự
khác nhau giữa các quan niệm phụ thuộc
vào các mức độ quan hệ giữa các đối
tượng, cái gì ưu tiên hơn hoặc cái gì ít ưu
tiên hơn. Chẳng hạn quan điểm cho rằng
"Tính bền vững là học thuyết mới ra đời về
tăng trưởng kinh tế và phát triển diễn ra
đồng thời, và được duy trì qua thời gian,
nhưng trong giới hạn sinh thái theo nghĩa
rộng". Dù khái niệm về phát triển bền vững
còn nhiều tranh cãi, cho đến hiện nay, định
nghĩa WECD được xem là phổ biến nhất
khi nhấn mạnh đến tính công bằng giữa
các thế hệ trong quá trình phát triển và
được khẳng định trong Hội nghị Liên Hiệp
Quốc về môi trường và phát triển (UNCED)
tại Hội nghị Rio 1992 hay Hội nghị Trái đất
1992 (UN, 1992a). Trong Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 của Việt Nam, quan
điểm phát triển bền vững được thể hiện
như sau: “Phát triển bền vững là phát triển
đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội
và bảo vệ môi trường”.
1.2. Các cấp độ phát triển bền vững
Herman Daly (1989) cho rằng đang tồn tại
hai quan điểm, cũng là hai cấp độ phát
triển bền vững: bền vững yếu và bền vững
mạnh. Mô hình phát triển bền vững yếu
thừa nhận rằng việc mở rộng kinh tế không
giới hạn là điều không mong đợi và không
thể xảy ra. Mô hình này không quan tâm
sự khác biệt liên quan giữa các loại vốn và
giả định rằng có sự thay thế hoàn hảo về
vốn, và rằng các nguồn tài nguyên không
tái tạo có thể và sẽ được thay thế bằng
các hình thức khác của năng lượng và vật
liệu sản xuất, chẳng hạn như từ tái chế.
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
13
Cách tiếp cận này sẽ cho phép một số suy
thoái môi trường diễn ra miễn là trong sự
cân bằng tổng thể của nguồn vốn tự nhiên
và sản xuất được duy trì thông qua các lợi
ích kinh tế và xã hội (Theo Baker và cộng
sự, 1997). Quan niệm này đặc trưng bởi
một số luận điểm là con người có thể giải
quyết các vấn đề phát triển bền vững bằng
cách hợp lý hóa quy trình hiện hành và kết
hợp các tiến bộ khoa học và công nghệ
mới (Davidson, 2000, 2002). Ngược lại,
mô hình phát triển bền vững mạnh nhấn
mạnh sự kéo dài, cải thiện và duy trì vốn
hiện tại và tương lai. Mô hình này xuất
phát từ nhận thức rằng sự thay thế của
vốn sản xuất cho vốn tự nhiên là không
chắc chắn, bởi sự tồn tại của vốn tự nhiên
có những đóng góp không thể thay thế
trong phúc lợi (Theo: Bridger và Luloff,
1999; Ekins và cộng sự, 2003). "Phát triển"
trong trường hợp này được định nghĩa là
cải thiện chất lượng của tất cả các loại vốn,
trái ngược với việc tăng về lượng của một
số loại vốn. Mô hình phát triển bền vững
mạnh nghiêng về hướng bảo vệ nguồn tài
nguyên, đặc biệt là các thành phần quan
trọng của vốn thiên nhiên, ngay cả nếu điều
này có nghĩa là phải bỏ qua một số cơ hội
phát triển (Theo: Baker và cộng sự, 1997).
Cách tiếp cận này bao trùm quan niệm rằng
cuộc khủng hoảng sinh thái trong xã hội
hiện đại phụ thuộc vào sự thay đổi cơ bản
trong cách chúng ta tương tác với hệ sinh
thái, và không ủng hộ phương pháp tiếp
cận gia tăng về lượng bởi các mô hình phát
triển bền vững yếu (Theo Davidson, 2002).
1.3. Phát triển cộng đồng bền vững
Trong nghiên cứu về sự phát triển đối với
đối tượng là cộng đồng, hiện nay, tồn tại
hai xu hướng phát triển cộng đồng, “tự do”
và “tiến bộ”. Phát triển cộng đồng theo
hướng tự do hay được gọi là “phát triển
kinh tế cộng đồng” được đặc trưng bởi
mục tiêu duy trì hoặc sửa chữa cơ cấu nền
kinh tế của một cộng đồng để tạo ra công
ăn việc làm và đạt hiệu ứng “chảy xuống”(1).
Phát triển trong trường hợp này là tập
trung vào việc mở rộng số lượng của nền
kinh tế địa phương (Blakely và Milano,
2001; Fontan, 1993). Phát triển cộng đồng
tiến bộ có những điểm tương tự như các
sáng kiến tự do, nhưng giả định cơ bản thì
khác nhau. Giả định rằng kinh tế chủ đạo
đã bằng nhiều cách không thành công để
đáp ứng nhu cầu của các công ty nhỏ, vậy
cấu trúc của hệ thống thay thế phải được
tìm kiếm. Sáng kiến phát triển cộng đồng
tiến bộ tập trung vào sửa chữa các cơ cấu
xã hội của một cộng đồng. Trong trường
hợp này, phát triển được hình dung bằng
việc cải thiện chất lượng của nguồn nhân
lực của một cộng đồng nhằm gia tăng quy
mô của nền kinh tế địa phương (Fontan,
1993). Theo Meredith P. Hamstead và
Michael S. Quinn (2005), phát triển cộng
đồng bền vững không thể xếp vào quan
niệm truyền thống là phát triển cộng đồng
tiến bộ hoặc phát triển cộng đồng tự do.
Thay vào đó, phát triển cộng đồng bền
vững được hiểu như là một hình thức thứ
ba của phát triển cộng đồng rút ra từ hai
quan niệm trước, và tích hợp một thành
phần thứ ba là tính bền vững sinh thái.
Theo nhóm nghiên cứu, phát triển cộng
đồng bền vững không tập trung vào nền
kinh tế cũng như cộng đồng như là mục
đích chính của hành động, mà lại tìm kiếm
sự tích hợp của công cụ, mô hình và chiến
lược sinh thái, kinh tế và chính trị. Dựa vào
các nghiên cứu của phát triển cộng đồng
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
14
bền vững (Maser, 1997; Nozick, 1993;
Roseland, 1998; Shuman, 1998), một số
đặc trưng được nhận định là trung tâm của
học thuyết và ứng dụng của phát triển
cộng đồng bền vững bao gồm: 1) Đa dạng
hóa kinh tế và tự chủ; 2) Công bằng xã hội
thông qua tiếp cận trao quyền công dân và
cải thiện công tác tiếp cận giáo dục, thông
tin và sự tham gia có ý nghĩa và hiệu quả;
3) Sinh thái bền vững thông qua quản lý
dựa vào cộng đồng và giảm thiểu tất cả
các hình thức tiêu thụ và chất thải; 4) Tích
hợp chiến lược kinh tế, xã hội và sinh thái.
Liên hệ đối với tính yếu và mạnh của phát
triển bền vững vừa được trình bày ở trên,
thì ở đây có sự khác biệt trong việc ứng
dụng. Phát triển bền vững yếu thúc đẩy sự
ứng dụng các mô hình phát triển kinh tế
cộng đồng, trong khi phát triển bền vững
mạnh đòi hỏi phải ứng dụng các mô hình
phát triển cộng đồng bền vững.
Hình 1. Phát triển kinh tế cộng đồng và phát
triển cộng đồng bền vững dưới quan niệm
phát triển bền vững
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG YẾU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG MẠNH
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
BỀN VỮNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CỘNG ĐỘNG
2. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ BỘ TIÊU CHÍ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Các nguyên tắc phát triển bền vững
Năm 1991, chín nguyên tắc phát triển bền
vững(3) được đề ra trong ấn phẩm Cứu lấy
trái đất - Chiến lược cho cuộc sống bền
vững, do IUCN, UNEF và WWF đồng xuất
bản. Các nguyên tắc là chín chương đầu
của cuốn sách với mục tiêu cứu lấy trái đất
vì một xã hội bền vững. Tiếp theo, vào
năm 1992, trong Chương trình nghị sự 21
(Hội nghị Rio 1992) đã đề xuất 27 nguyên
tắc phát triển bền vững, bao quát tất cả
các lĩnh vực phát triển bền vững gồm kinh
tế, xã hội, môi trường, và đồng thời có sự
bổ sung thêm các mục tiêu hòa bình, xóa
nghèo đói, công bằng xã hội và trách
nhiệm chung có phân biệt trong vấn đề
bảo vệ môi trường. Để giản lược hóa, làm
cho các nguyên tắc dễ hiểu và dễ áp dụng
dựa trên các nguyên tắc của RIO đề ra,
năm 1995, Luc Hens, nhà nghiên cứu
ngành sinh thái học nhân văn đã đề ra 7
nguyên tắc(3) và được đề cập trong ấn
phẩm Môi trường và phát triển bền vững
xuất bản năm 2007 của Nguyễn Đình Hòe.
Tuy nhiên, các nguyên tắc này tập trung
nhiều vào vấn đề thể chế và chưa bao
trùm hết các lĩnh vực.
Dựa trên 27 nguyên tắc của hội nghị Rio
và tình hình thực tế ở Việt Nam, Bộ Kế
hoạch và đầu tư đã đưa ra 8 nguyên tắc
phát triển bền vững(4) ở Việt Nam. Dựa trên
8 nguyên tắc cơ bản đó, Nguyễn Văn
Huyên diễn giải và nhấn mạnh năm
nguyên tắc trên trong tác phẩm Phát triển
bền vững: 1) xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, trong đó lấy con
người làm trung tâm của phát triển bền
vững; 2) phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm; khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và
bảo vệ môi trường bền vững; 3) coi yêu
cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan
trọng trong đánh giá về phát triển bền
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
15
vững; 4) bảo đảm đáp ứng một cách công
bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không
gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ
tương lai; 5) khoa học và công nghệ được
phát triển như là nền tảng và động lực cho
công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2.2. Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững
Với mục tiêu đánh giá và giám sát việc
thực hiện phát triển bền vững, nhiều bộ chỉ
tiêu và các chỉ số đã được xây dựng với
nguyên tắc chung là có cơ sở khoa học, dễ
hiểu, dễ điều tra hoặc là chỉ tiêu thống kê
quốc gia hàng năm. Thomas M. Parris và
Robert W. Kates “đã liệt kê được hơn 500
tiêu chí đánh giá phát triển bền vững, trong
đó có 67 tiêu chí quy mô toàn cầu, 103 tiêu
chí qui mô quốc gia, 72 tiêu chí qui mô
bang/tỉnh và 289 tiêu chí qui mô địa
phương/thành phố”. Năm 1995, Ủy ban
Phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc (CSD)
đã khởi xướng bộ chỉ tiêu phát triển bền
vững với một danh sách 134 chỉ số được
lựa chọn và 22 quốc gia tình nguyện để
kiểm tra tính ứng dụng của bộ công cụ.
Sau đó, bộ chỉ tiêu được cải tiến, giản lược
còn 58, bao gồm 15 chủ đề bao quát các
lĩnh vực kinh tế-xã hội, môi trường và thể
chế của phát triển bền vững (Phạm Thị
Hồng Vân, 2010). Bộ chỉ tiêu này được
ứng dụng khá phổ biến ở nhiều quốc gia
và là cơ sở xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá
phát triển bền vững cụ thể ở từng quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Tiếp theo, vào năm
2001, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên thế
giới công bố bộ chỉ số thịnh vượng (Well
Being index - WI) trong ấn phẩm của R.
Prescott-Allen - The Wellbeing of Nations:
A Country-by-Country Index of Quality of
Life and Environment. Chỉ số thịnh vượng
là một tập hợp gồm 88 chỉ thị, bao gồm 2
nhóm là chỉ thị thịnh vượng nhân văn (HWI)
và phúc lợi sinh thái (EWI). WI là thước đo
sinh học biểu diễn tính bền vững ở điểm
mà HWI và EWI giao nhau, cho thấy cách
thức để kết hợp tốt giữa cuộc sống của
con người với hệ sinh thái, tạo nên một xã
hội phát triển bền vững. Ngoài ra, trong ấn
phẩm này, tác giả cũng giới thiệu thêm bộ
chỉ số WSI. WSI là chỉ số áp lực mà sự
thịnh vượng của con người gây ra đối với
hệ sinh thái (chỉ số này ngược với chỉ số
thịnh vượng sinh thái), mô tả các mức độ
tổn hại khác nhau do sự phát triển của xã
hội tác động vào môi trường. Hiện nay, tại
Việt Nam, các bộ chỉ số này đang được
một số công trình nghiên cứu sử dụng để
đo lường trong từng vùng cụ thể, hoặc
đánh giá sự phát triển của một ngành nghề.
Chẳng hạn trong nghiên cứu gần đây,
Nguyễn Thị Phương Loan đã sử dụng WI
trong việc đánh giá nhanh nông thôn, quản
lý bền vững dựa vào hệ sinh thái và cộng
đồng qua đề tài Nghiên cứu tiếp cận sinh
thái nhân văn vào đánh giá tính bền vững
của việc phát triển nuôi tôm tại vùng nuôi
tập trung ven biển huyện Nghĩa Hưng, tỉnh
Nam Định. Ngoài ra, theo quan điểm phát
triển bền vững dựa vào sinh thái, bộ công
cụ đánh giá tính bền vững được thể hiện ở
Dấu chân sinh thái (Ecological footprint_
EF)(5) bởi Mathis Wackernagel vào năm
1992, đồng thời đã khởi xướng ra Chương
trình tài khoản dấu chân quốc gia (National
Footprint Account - NFA) vào năm 2003 và
được chỉnh sửa vào năm 2011. Theo đó,
các dịch vụ sinh thái chủ yếu cho 02 đo
lường: 1) Dấu chân sinh thái và 2) Năng
lực sinh học(6). Việt Nam hiện nay vẫn
chưa có bộ chỉ tiêu chính thức đánh giá
phát triển bền vững bao quát tất cả các
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
16
lĩnh vực (Theo: Văn phòng Agenda 21,
2008). Dựa vào một số điều kiện thực tế
tại Việt Nam, mục tiêu và đặc điểm của
Chương trình nghị sự 21, một số bộ chỉ
tiêu được áp dụng tạm thời. Nhìn chung,
tại Việt Nam có 2 hướng tiếp cận đánh giá
phát triển bền vững: 1) Sử dụng chỉ số
tổng hợp cho phép để chuyển đổi chi phí
hoặc lợi ích thành một đơn vị chung của
đo lường (như đơn vị tiền tệ, đơn vị năng
lượng, đơn vị diện tích) bao gồm GDP
xanh, tích lũy thực và chỉ tiêu tiến bộ đích
thực (GPI) và 2) Sử dụng hệ thống chỉ tiêu
như chỉ số phát triển con người (HDI), Các
chỉ số cho các Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc và chỉ
số CSD của Ủy ban phát triển bền vững
Liên Hợp Quốc. Riêng đối với lĩnh vực môi
trường, bộ chỉ tiêu về phát triển bền vững
đối với lĩnh vực môi trường (bao gồm
nhóm hoạt động bảo vệ tài nguyên môi
trường và nhóm liên quan đến lĩnh vực
sinh thái và tài nguyên sinh vật), đang
trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện.
Trước đây, vào năm 1998, Bộ chỉ thị được
đưa vào thử nghiệm bởi Cục Môi trường
gồm 44 chỉ thị, bao quát môi trường đất,
nước trên lục địa, nước biển, không khí,
chất thải rắn, đa dạng sinh học, sự cố môi
trường và lĩnh vực quản lý môi trường.
Trong khuôn khổ dự án hỗ trợ xây dựng
Agenda 21 của Việt Nam đã được triển
khai tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Chỉ thị
Phát triển bền vững về tài nguyên và môi
trường được đề xuất gồm 11 chỉ thị (Lê
Văn Hữu, 2012). Vào năm 2007, với mục
tiêu khắc phục những khác biệt đang còn
tồn tại, Bộ chỉ số, chỉ thị phát triển bền
vững tương đối thống nhất trong thời gian
từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm
2020, Văn phòng phát triển bền vững đã
phối hợp với Trung tâm Công nghệ Môi
trường (ENTEC) và các cơ quan liên quan,
các nhà khoa học xây dựng bản dự thảo
về Bộ chỉ số, chỉ chị và thông số đánh giá
tính bền vững về tài nguyên và môi trường
tại Việt Nam.
3. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Phát triển bền vững trong chính sách
phát triển của Việt Nam
Các quan niệm và lý thuyết phát triển bền
vững chỉ mới được tiếp cận tại Việt Nam
từ thập niên 1980, tuy nhiên, Chính phủ
Việt Nam đã xây dựng được Chương trình
nghị sự 21 riêng của mình. Từ đó, phát
triển bền vững được xem là tư tưởng chủ
đạo định hướng các chính sách của Việt
Nam. Cụ thể quyết định số 153/2004/QĐ-
TTg về “Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam” đã được ban hành
cùng với quyết định 1032/QĐ-TTg về việc
thành lập Hội đồng Phát triển bền vững
Quốc gia vào tháng 9/2005. Về phương
hướng phát triển bền vững trong giai đoạn
sắp tới, gần đây, vào tháng 4/2012, Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
đã phê duyệt Chiến lược Phát triển bền
vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Các
định hướng ưu tiên nhằm phát triển bền
vững trong giai đoạn 2011-2020 về kinh tế
là duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững,
phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo; nâng cao chất lượng tăng trưởng,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu
theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa
chiều rộng và chiều sâu, sử dụng hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên và các thành tựu
khoa học và công nghệ tiên tiến để tăng
năng suất lao động và nâng cao sức cạnh
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
17
tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ. Chiến lược nhấn mạnh vai trò của
chiến lược tăng trưởng xanh, đảm bảo
phát triển nền kinh tế theo hướng các bon
thấp. Về tài nguyên môi trường, chiến lược
đề ra mục tiêu chống thoái hóa, sử dụng
hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo
vệ môi trường nước và sử dụng bền vững
tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử
dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên
khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven
biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển;
bảo vệ và phát triển rừng (MORNE, 2012).
3.2. Các nghiên cứu phát triển bền vững
tại Việt Nam và các tỉnh Nam Bộ
3.2.1. Tại Việt Nam
Vùng nông thôn thường là đối tượng
hướng tới của các nghiên cứu phát triển
bền vững bởi tính dễ bị tổn thương do tác
động của quá trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa. Theo Nguyễn Ngọc Ngoạn, phát
triển nông nghiệp bền vững là “cơ sở để
bắt đầu thay đổi mô hình phát triển chung”,
trong đó, ông đề cao kiến thức bản địa, tôn
trọng mục tiêu và quan niệm nông dân, kết
hợp khoa học xã hội và khoa học tự nhiên
cùng với tri thức của người nông dân trong
khám phá công nghệ; đặc biệt ông quan
tâm đến phát triển nông nghiệp hữu cơ(7).
Theo xu hướng đó, Dự án nghiên cứu ứng
dụng phát triển khuôn khổ cho sản xuất và
marketing nông nghiệp hữu cơ tại Việt
Nam (2006-2009) do Trung tâm Hỗ trợ
Nông thôn, Nông dân thực hiện với sự tài
trợ của Tổ chức Phát triển nông nghiệp
châu Á-Đan Mạch (ADDA) đã thành lập
các tổ nhóm nông dân sản xuất nông
nghiệp hữu cơ nhằm thúc đẩy việc trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm trong cách thức sản
xuất này. Kết quả thực hiện dự án cho thấy
tính đến thời điểm năm 2010, Hội Nông
dân Việt Nam đã tổ chức nông dân triển
khai thử nghiệm phương pháp canh tác
nông nghiệp hữu cơ trên rau ở một số tỉnh
miền Bắc. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ
vẫn còn chậm phát triển do trình độ, tay
nghề của người sản xuất; do nhận thức,
hiểu biết của xã hội còn hạn chế; do Nhà
nước chưa có cơ chế cụ thể để khuyến
khích, hỗ trợ phát triển (Thông tấn xã Việt
Nam, 2012).
Theo hướng tiếp cận phát triển bền vững
dựa vào cộng đồng kết hợp với nguyên tắc
sinh thái, Phạm Thành Nghị và nhóm cộng
sự đã tiến hành nghiên cứu “Giải pháp
nâng cao ý thức sinh thái cộng đồng ở
nước ta trong những năm tới” trong giai
đoạn 2001-2003 tại 4 tỉnh (Bắc Giang, Hải
Dương, Thừa Thiên-Huế và Đồng Nai),
bao gồm 16 cộng đồng. Kết quả nghiên
cứu đã cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ
giữa mức độ ý thức sinh thái cộng đồng và
hoạt động bảo vệ môi trường. Có thể nói
hoạt động của chính quyền, của các tổ
chức đoàn thể, văn hóa và sự gắn kết
cộng đồng có tác động lớn đến ý thức sinh
thái cộng đồng. Nhóm nghiên cứu cũng
đưa ra nhận định, ở các cộng đồng được
đánh giá là môi trường có vấn đề, thường
có đặc điểm coi trọng giá trị kinh tế hơn
môi trường. Phong trào bảo vệ môi trường
do các cộng đồng phát động không được
duy trì thường xuyên và hiệu quả thấp.
Vấn đề giảm nghèo tại các khu vực nông
thôn, miền núi cũng là một trong các chủ
đề nghiên cứu phát triển bền vững tại Việt
Nam. Dựa trên quan điểm sinh kế bền
vững(8) năm 2009, Chương trình Chia sẻ
do tổ chức SIDA điều phối đã thực hiện
Nghiên cứu các nhân tố hỗ trợ và cản trở
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
18
hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế
để giảm nghèo bền vững với mục tiêu
nâng cao năng lực phát triển cộng đồng do
Phạm Bảo Dương thực hiện, cụ thể trong
vấn đề tiếp cận các nguồn lực (nguồn sinh
kế) cho mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói,
giảm nghèo và cuối cùng là phát triển bền
vững với một số nghiên cứu điển hình ở 3
tỉnh là Yên Bái, Hà Giang, Quảng Trị. Vai
trò của cộng đồng trong phát triển bền
vững cũng được nhấn mạnh trong lĩnh vực
nghiên cứu, đặc biệt là nâng cao năng lực
của cộng đồng trong việc ứng phó với các
tác nhân tiêu cực từ môi trường bên ngoài,
đặc biệt là các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Nhận thấy các nghiên cứu phát triển bền
vững thường có ưu tiên theo hướng tiếp
cận môi trường nhiều hơn, Michael
Hibbard và Chin Chun Tang đã áp dụng
phương pháp nghiên cứu dựa vào con
người và hướng tiếp cận xã hội trong
nghiên cứu phát triển bền vững tại Việt
Nam và thực hiện một nghiên cứu trường
hợp quản lý rừng ngập mặn ở miền Nam
Việt Nam dưới góc nhìn của xã hội. Trong
bài viết “Sustainable Community Development:
A Social Approach from Vietnam” (2004),
các tác giả tập trung phân tích các nỗ lực
của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ
(NGO) và cộng đồng dân cư, đồng thời
cũng nhấn mạnh vai trò đóng góp vào phát
triển bền vững của người phụ nữ trong
cộng đồng.
3.2.2. Đông Nam Bộ
Đông Nam Bộ là khu vực có tốc độ công
nghiệp hóa cao nhất nước, đồng thời cũng
là khu vực chịu tác động của ô nhiễm từ hệ
lụy của nó. Mối quan hệ giữa tăng trưởng
đô thị và phát triển bền vững được xem là
chủ đề khá phổ biến trong các nghiên cứu
từ trước đến nay. Vào năm 1998, Ủy ban
Môi trường TPHCM và Viện Công nghệ
Liên bang Thụy Sĩ đã thực hiện nghiên
cứu về mối quan hệ giữa môi trường sống
và vấn đề quản lý nguồn nước. Jean-
Claude Bolay và cộng sự đã trình bày thực
trạng phát triển công nghiệp với các hệ lụy
về môi trường như ô nhiễm nguồn nước,
rác thải công nghiệp và sinh hoạt phát sinh
và thải bỏ vào môi trường không qua xử lý,
sự tồn tại các nhóm dân cư nghèo, sống
ven các khu công nghiệp, ven lưu vực
sông. Nhóm nghiên cứu cũng đề cập đến
vấn đề sử dụng nước trong bối cảnh ô
nhiễm nguồn nước, đất, không khí, các
vấn đề về y tế và sức khỏe khi nguồn
nước cung cấp không đáp ứng được các
tiêu chuẩn cơ bản, từ đó đề xuất nên có
các biện pháp cần thiết, nhất là ở các khu
vực môi trường sống bấp bênh, nơi cư dân
có thể được xem là nghèo tuyệt đối.
Tuy là khu vực phát triển năng động nhất
Việt Nam, nhưng vấn đề giảm nghèo cũng
là một trong các chủ đề được quan tâm
nghiên cứu tại khu vực Đông Nam Bộ, đặc
biệt tại các cộng đồng dân cư ven đô thị và
nông thôn. Năm 2008, Hồ Mạnh Tuấn và
cộng sự đã thực hiện Nghiên cứu về chiến
lược tăng sinh kế ở các khu vực nông thôn
được tiến hành với trường hợp nghiên cứu
điển hình ở khu vực cộng đồng dân cư
sống quanh hai hồ trữ nước Nông trường
6 và Dakton ở tỉnh Bình Phước. Hiện trạng
sinh kế của người dân sống chung quanh
hai hồ trữ nước và các hoạt động nuôi
trồng thủy sản tại đây đã được phân tích,
từ đó đưa ra mối liên quan giữa việc quản
lý hoạt động nuôi trồng thủy sản với thu
nhập của người dân. Các cuộc thảo luận
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
19
và phân tích dữ liệu đã chỉ ra các vấn đề
quan trọng cho sinh kế của người dân ở
đây. Việc nuôi trồng thủy sản cho thu nhập
thấp bởi hai lý do: nuôi lồng (sản lượng
thấp) và giá cả (giá bán thấp), trong khi đó
ngư dân sản xuất chỉ dựa trên kinh nghiệm
riêng, còn chính quyền hầu như không hỗ
trợ về kỹ thuật và tài chính.
Vai trò của cộng đồng trong phát triển bền
vững và bảo vệ môi trường cũng được
nhấn mạnh trong các nghiên cứu những
năm gần đây. Chủ đề này được trình
bày trong tác phẩm Community-driven
Regulation: Balancing Development and
Environmental in Viet Nam của Dara
O’Rourke vào năm 2004. Nghiên cứu tập
trung vào các vấn đề phát sinh về quản lý
môi trường trong nỗ lực cân bằng giữa
phát triển công nghiệp và bảo vệ môi
trường. Nghiên cứu thực hiện khảo sát 6
nhà máy và cộng đồng ở hai tỉnh Đồng Nai
và Phú Thọ. Theo ông, bất chấp tất cả
những điểm yếu và xung đột trong công
tác quản lý môi trường của chính phủ, các
chính quyền địa phương (cấp tỉnh, cấp
huyện, cấp xã) đôi khi đáp ứng với khiếu
nại của công chúng và điều tiết ô nhiễm
công nghiệp. Trong các trường hợp này,
ông đưa ra luận điểm áp lực của cộng
đồng sẽ thực hiện công bằng trong các
cuộc xung đột môi trường, thúc đẩy chính
quyền địa phương phản ứng với sự cố ô
nhiễm cụ thể, gây sức ép với cơ quan môi
trường để cải thiện việc giám sát, thực thi
và mở rộng nhận thức của công chúng về
các vấn đề môi trường.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang đe
dọa đến môi trường và sự phát triển của
Việt Nam hiện nay, một số nghiên cứu tập
trung tìm kiếm các mô hình phát triển bền
vững ở đô thị và nông thôn nhằm ứng phó
và giảm thiểu với tác động của biến đổi khí
hậu. Năm 2008, Ủy ban nhân dân TPHCM
kết hợp Đại học Cottbus của Đức đã thực
hiện Dự án nghiên cứu siêu đô thị TPHCM
- Kế hoạch tích hợp đô thị và môi trường -
Khung thích ứng với biến đổi khí hậu toàn
cầu. Mục tiêu chính của dự án là phát triển
các chiến lược thích nghi của đất đô thị,
cấu trúc đô thị và phát triển đô thị để giảm
thiểu những tác động tiêu cực của biến đổi
khí hậu trong bối cảnh của siêu đô thị
TPHCM. Ngoài ra, năm 2008, Dự án
nghiên cứu phát triển khái niệm cộng đồng
sinh khối đã được tiến hành tại huyện Củ
Chi, TPHCM do Bộ Nông nghiệp Ngư
nghiệp Lâm nghiệp của Nhật Bản (MAFF)
và Sở Khoa học Công nghệ TPHCM thực
hiện, với sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía tập
đoàn EX Cooperation, nhằm mục tiêu phát
triển nông nghiệp theo hướng bền vững và
phù hợp với nguồn lực thực tế tại địa
phương. Điểm nổi bật của mô hình là nhấn
mạnh vai trò tham gia, điều tiết của cộng
đồng trong việc duy trì và phát triển mô
hình phù hợp với nhu cầu cần thiết của cư
dân sinh sống tại khu vực.
3.2.3. Tây Nam Bộ
Ngược lại với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ
là khu vực trọng điểm về sản xuất lương
thực thực phẩm của cả nước. Chính vì vậy,
các nội dung nghiên cứu phát triển bền
vững thường tập trung vào các khía cạnh
nông nghiệp, đặc biệt là vấn đề chuyển đổi
cơ cấu cây trồng. Bài viết Chuyển đối cơ
cấu cây trồng dưới góc độ môi trường và
phát triển bền vững vùng đồng bằng ven
biển Tây Nam Bộ của Đặng Đức Phương
(2007) đã chỉ ra vấn đề phát triển không
bền vững trong các hoạt động chuyển đổi
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
20
cơ cấu cây trồng trên diện rộng, vượt qua
khỏi quy mô hộ gia đình, từ đó gây ra các
nguy cơ biến đổi hệ sinh thái tự nhiên ban
đầu. Tác giả tập trung vào 3 khía cạnh
trọng tâm: 1) hệ sinh thái và chuyển dịch
cơ cấu cây trồng; 2) đặc điểm hệ sinh thái
ven biển Tây Nam Bộ và tính nhạy cảm; 3)
hiện trạng chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
trong đó đánh giá tính tích cực và tiêu cực
đối với môi trường và phát triển bền vững.
Trên cơ sở đó, tác giả khuyến cáo để phát
triển bền vững, các hoạt động chuyển đổi
cơ cấu cây trồng bắt buộc phải có đánh giá
tác động môi trường. Nuôi trồng thủy sản
là một trong các ngành kinh tế chủ lực tại
khu vực Tây Nam Bộ. Chính vì vậy, để
đánh giá và phân tích phương hướng phát
triển ngành nghề này trong xu hướng phát
triển bền vững, nhóm các nhà nghiên cứu
thuộc Ủy ban châu Âu đã trình bày một
nghiên cứu có tên là Tính bền vững về mặt
môi trường tại khu vực nuôi trồng thủy sản
nước lợ ở lưu vực sông Mekong, Việt Nam
vào năm 2004 (thuộc dự án Gambas).
Nghiên cứu đánh giá tính bền vững trước
hết phải xuất phát từ quan điểm phát triển
bền vững khi mở mang ngành nghề. Đối
với hoạt động nuôi tôm hay bất kỳ hoạt
động nào khác, đòi hỏi một sự hội tụ các
mục tiêu xã hội, kinh tế và môi trường. Các
mục tiêu này đòi hỏi phải được xem xét ở
cả nội vi và ngoại vi đối với bất kỳ hoạt
động sản xuất nào liên quan. Kết quả
nghiên cứu cho thấy nên có các biện pháp
phòng ngừa trong sản xuất để làm giảm rủi
ro và tăng tính hiệu quả của ngành nghề,
đồng thời nghiên cứu cũng ủng hộ mô hình
kết hợp nuôi tôm và rừng ngập mặn, và
cần được thiết kế lại sao cho phục hồi
chức năng của rừng ngập mặn nhưng vẫn
đáp ứng được nhu cầu nuôi tôm.
Riêng đối với lĩnh vực kinh tế ở cấp độ vĩ
mô, trong ấn phẩm Phát triển kinh tế tại lưu
vực sông Mekong ở Việt Nam (2008)(9),
Robert Lensink và Mai Văn Nam đã trình
bày các mâu thuẫn về nhu cầu mà Đồng
bằng sông Cửu Long phải đối mặt: một
bên là nhu cầu tăng trưởng kinh tế, một
bên là việc sử dụng bền vững các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Nhóm tác giả nhấn
mạnh sự thiếu bền vững trong quản lý
nguồn tài nguyên trong lĩnh vực nông
nghiệp, thông qua việc phân tích các thông
tin về vấn đề sử dụng đất, cấu trúc rừng,
sử dụng nguồn nước và việc sử dụng hóa
chất trong nông nghiệp ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Các số liệu dùng để phân tích
được thu thập từ Tổng cục Thống Kê, các
cuộc khảo sát thực địa với 201 hộ gia đình
ở các khu vực có điều kiện kinh tế và hệ
sinh thái khác nhau. Kết quả cho thấy
quyết định phân bổ nguồn lực của hộ gia
đình phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện sinh
thái tự nhiên của khu vực mà họ sinh sống.
Bên cạnh đó, kết quả thực nghiệm cũng
cho thấy thu nhập hộ gia đình tỉ lệ thuận
với các điều kiện về nguồn tài nguyên như
kích thước đất sở hữu (trong trường hợp
của Sóc Trăng, An Giang) và mức độ đa
dạng hóa (trong trường hợp của Cần Thơ,
An Giang và Tiền Giang).
4. KẾT LUẬN
Tuy các quan điểm và lý thuyết về phát
triển bền vững đa chiều và còn nhiều luận
điểm mơ hồ, nhưng đây vẫn được xem là
xu hướng chủ đạo trong chính sách và
phương hướng phát triển, không chỉ riêng
ở Việt Nam mà ở các nước trên thế giới.
Các nghiên cứu ở Việt Nam về lĩnh vực
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
21
này bao quát từ các vấn đề mang tính vĩ
mô, đến các vấn đề mang tính vùng, địa
phương, hoặc trong từng ngành cụ thể
cũng như liên ngành. Trong đó, như các
nghiên cứu đã chỉ ra, và các chính sách
của nhà nước đang hướng tới, là vai trò
quan trọng của các cộng đồng trong phát
triển bền vững vùng và địa phương. Chỉ
khi từng cộng đồng được phát triển bền
vững thì mới đảm bảo sự phát triển bền
vững chung. Vì vậy, việc tiếp tục hỗ trợ và
nâng cao vai trò của cộng đồng và người
dân trong xóa đói, giảm nghèo, tạo sinh kế
bền vững, nâng cao ý thức bảo vệ sinh
thái, môi trường, thiết kế những mô hình
sinh sống lâu dài thích ứng với biến đổi khí
hậu là những vấn đề lớn mà các nghiên
cứu cũng như các chính sách của chính
quyền đang hướng tới vì mục tiêu phát
triển bền vững Việt Nam.
CHÚ THÍCH
(1) Đây là lý thuyết cho rằng có thể đạt được
phát triển kinh tế tốt nhất bằng cách cứ để cho
các đơn vị kinh doanh phát triển bởi vì sự phát
đạt của họ cuối cùng cũng chảy xuống người
có lợi tức trung bình và thấp, điều này rất có lợi
vì sẽ làm tăng hoạt động kinh tế. Các nhà kinh
tế phản đối lý thuyết này nói rằng nó sẽ làm
cho sự phát triển chậm hơn là nếu Nhà nước
trực tiếp cấp phúc lợi cho thành phần lợi tức
trung bình và thấp.
(2) (1) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống
cộng đồng; (2) Cải thiện chất lượng cuộc sống
con người; (3) Bảo vệ sức sống và tính đa
dạng của trái đất; (4) Quản lý tài nguyên không
tái tạo; (5) Tôn trọng khả năng chịu đựng của
trái đất; (6) Thay đổi tập quán và thói quen cá
nhân; (7) Để cho các cộng đồng tự quản lí lấy
môi trường của mình; (8) Tạo ra một khuôn
mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho phát
triển bền vững; (9) Xây dựng khối liên minh toàn
cầu để bảo vệ môi trường.
(3) (1) Sự ủy thác của nhân dân; (2) Phòng
ngừa; (3) Bình đẳng giữa các thế hệ; (4) Bình
đẳng trong nội bộ một thế hệ; (5) Phân quyền
và ủy quyền; (6) Người gây ô nhiễm phải trả
tiền; (7) Người sử dụng phải trả tiền.
(4) Theo Văn phòng Nghị sự 21 trong báo cáo
Sustainable Development Implementation In
Vietnam vào năm 2008.
(5) “Dấu chân sinh thái là một thước đo nhu cầu
về các diện tích đất, nước có khả năng cho
năng suất sinh học cần thiết để cung cấp thực
phẩm, gỗ cho con người, diện tích xây dựng cơ
sở hạ tầng, diện tích hấp thụ CO2, khả năng
chứa đựng và đồng hóa chất thải" (Mathis
Wackernagel, 1992).
(6) Năng lực sinh học: phép đo về số lượng diện
tích đất, hoặc mặt biển có khả năng sản xuất
sinh học sẵn có để cung cấp các dịch vụ sinh
thái mà con người tiêu thụ trong tài khoản “sinh
thái” hoặc khả năng tiêu thụ tự nhiên.
(7) Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là sản xuất
theo nguyên tắc được quy định trong tiêu
chuẩn quốc tế của Tổ chức Liên đoàn Quốc tế
các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM)
với mục tiêu đảm bảo hệ sinh thái cây trồng,
vật nuôi, tạo ra những sản phẩm có chất lượng
an toàn với người sử dụng và đem lại hiệu quả
kinh tế, duy trì và nâng cao độ màu mỡ của đất.
(8) Chambers và Conway (1992) định nghĩa về
sinh kế bền vững “bao gồm con người, năng
lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu
nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là
tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư
nợ và cơ hội”.
(9) Cuốn sách được xuất bản trong khuôn khổ
dự án “Tăng cường năng lực giảng dạy và
nghiên cứu nhằm hướng dẫn các xí nghiệp
vừa và nhỏ, trang trại gia đình tại lưu vực sông
Mekong”. Dự án nhằm hỗ trợ Trường Đại học
Kinh tế và Quản trị Kinh doanh (SEBA) thuộc
Trường Đại học Cần Thơ (CTU) tại Việt Nam
trong việc đóng góp hiệu quả hơn cho sự phát
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
22
triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đặc
biệt là để tăng năng suất đối với các xí nghiệp
vừa và nhỏ (SME) và các hộ nông dân, trong
đó có tính đến việc bảo tồn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và hạn chế ô nhiễm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agenda 21 Office. 2008. Sustainable
Development Implementation in Vietnam. Tải
tại
files/file/gms/vn/reference/NSDS-VN-Sustain
able%20Development%20Implementation.pd
f vào ngày 08/04/2012.
2. Baker, S., Kousis, M., Richardson, D. &
Young, S. (Eds). 1997. The Politics of
Sustainable Development. London, Routledge.
3. Blakely, E. J. & Milano R. J. 2001. Community
Economic Development, in: N. Smelser & P.
Baltes (Eds) The International Encyclopedia of
the Behavioral Sciences. New York, Elsevier.
4. Bartlett, A. 2006. Reflections on Sustainability,
Population Growth, and the Environment. In
The Future of Sustainability. Springer. Dordrecht.
5. Benton, T. 1994. The Greening of
Machiavelli: The Evolution of International
Environmental Politics. London: Royal
Institute of International Affairs/Earthscan.
6. Bridger, J. C. & Luloff, A. E. 1999. Toward
an Interactional Approach to Sustainable
Community Development. Journal of Rural
Studies: 15(4).
7. Bùi Đức Kính. 2010. Phát triển bền vững
và nền tảng sinh thái. Tạp chí Khoa học xã
hội. Số 11+12(147+148).
8. Daly, H. E. & Cobb, J. B., Jr. 1989. For the
Common Good: Redirecting the Economy
Toward Community, the Environment, and a
Sustainable Future. Boston, Beacon Press.
9. Dara O'Rourke. 2004. Community-Driven
Regulation: Balancing Development and the
Environment in Vietnam. Journal of Vietnamese
Studies Vol. 1, No. 1-2.
10. Davidson, C. 2000. Economic Growth
and the Environment: Alternatives to the
Limits Paradigm. BioScience: 50(5).
11. Davidson, S. M. 2002. Reviews: on
Environmental Thought at the Turn of the
Century. Natural Resources Journal: 42(2).
12. Đặng Đức Phương. 2007. Chuyển đổi cơ
cấu cây trồng dưới góc độ môi trường và
phát triển bền vững vùng đồng bằng ven
biển Tây Nam Bộ. Tạp chí Nghiên cứu phát
triển bền vững. Số 2(15). Tháng 06/2007.
13. Ekins, P., Simone, S., Deutsch, L., Folke,
C. & de Groot, R. (2003) A Framework for the
Practical Appli-cation of the Concepts of
Critical Natural Capital and Strong
Sustainability, Ecological Economics: 44(2-3).
14. Elliott, Jennifer A. 2003. An Introduction
to Sustainable Development. Routledge.
15. Fontan, J. M. 1993. A Critical Review of
Canadian, American, and European Community
Economic Development Literature. Vancouver,
CCE/Westcoast.
16. Jean-Claude Bolay, Sophie Cartoux,
Antonio Cunha, Thai Thi Ngoc Du and Michel
Bassand. 1998. Sustainable Development and
Urban Growth: Precarious Habitat and Water
Management in Ho Chi Minh City, Vietnam.
Habitat International. Volume 21, Issue 2,
June 1997.
17. Jacques Populus, Pascal Raux, Jean-Louis
Martin and Yves Auda. 2004. Environmental
Sustainability of Brackishwater Aquaculture in
the Mekong Delta – Vietnam. Volume 2 -
Comprehensive report. Gambas project.
18. Hens, L. (Ed.). 1998. Sustainable
Development. Free Univ. Press. Brussel,
Belgium.
19. Ho Manh Tuan, Harvey Demain and
Amararatne Yakupitiyage. 2008. Strategies
to Improve Livelihood of the Rural Poor: A
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
23
Case Study in Two Small Reservoirs in Binh
Phuoc Province, Vietnam. People in
Aquaculture.
20. IUCN. 1980. World Conservation Strategy-
Living Resource Conservation for Sustainable
Development. IUCN, Gland, Switzerland.
21. IUCN /UNEP/WWF. 1991. Caring for the
Earth. A Strategy for Sustainable Living.
Gland, Switzerland.
22. Michael Hibbarda & Chin Chun Tang.
2004. Sustainable Community Development:
A Social Approach from Vietnam. Journal of
Community Development Society. Volume
35, Issue 2, 2004.
23. The Brandenburg University of Technology
Cottbus. Overview of Megacity Reserarch
project HCMC. Tải tại
de/projekte/de/megacity-hcmc/research-proj
ect/overview.html
24. Maser, C. 1997. Sustainable Community
Development: Principles and Concepts.
Delray Beach, Florida, St Lucie Press.
25. Meredith P. Hamstead and Michael S. Quinn.
2005. Sustainable Community Development
and Ecological Economics: Theoretical
Convergence and Practical Implications.
Local Environment. Vol. 10, No. 2, April
2005. Routledge.
26. Nguyễn Đình Hòe. 2007. Môi trường và
phát triển bền vững. Hà Nội: Nxb. Giáo Dục.
27. Nguyễn Ngọc Ngoạn. 2007. Phát triển
nông thôn bền vững: những vấn đề lý luận
và kinh nghiệm thế giới. Tạp chí Môi trường
và phát triển bền vững. Số 01/2008.
28. Nguyễn Thị Phương Loan (online). 2009.
Một số kết quả nghiên cứu đánh giá sự sử
dụng bền vững tài nguyên sinh vật và phát
triển bền vững bằng công cụ dấu chân sinh
thái và thước đo bền vững BS (Barometer of
Sustainability). Tải tại
m30268/ latest/ vào ngày 14/5/2012.
29. Nguyễn Văn Huyên. 2011. Phát triển bền
vững: một lý thuyết phát triển trong thế giới
đương đại. Viện Chính trị học, Học viện
Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
30. Nozick, M. 1993. Five Principles of
Sustainable Community Development, in: E.
Shragge (Ed.), Community Economic
Development: in Search of Empowermen.
Montreal. Black Rose Books.
31. Phạm Thị Hồng Vân. 2010. Giới thiệu
một số bộ chỉ tiêu đánh giá bền vững. Bộ
môn Chiến lược và Chính sách trực thuộc
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển
Nông nghiệp Nông thôn.
32. Phạm Thành Nghị và cộng sự. 2005.
Nâng cao ý thức sinh thái cộng đồng vì mục
tiêu phát triển bền vững. Viện nghiên cứu
con người. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
33. Phạm Bảo Dương. 2009. Các nhân tố hỗ
trợ và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn
vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững. Bộ
môn Chiến lược và Chính sách trực thuộc
Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển
Nông nghiệp Nông thôn. Tải tại
p?targetID=2478.
34. Lê Văn Hữu. 2012. Xây dựng hệ thống
chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam. Tạp chí Môi
trường.
35. Luật số 52/2005/QH11. Luật Bảo vệ môi
trường 2005.
36. Thomas, M. Parris and Robert W. Kates.
2003. Characterizing Andmeasuring Sustainable
Development. The Annual Review of
Environment and Resources.
37. Thông tấn xã Việt Nam. 2012. Đẩy mạnh
sản xuất rau hữu cơ, thân thiện với môi
trường. Đăng ngày 9/5/2012. Truy cập vào
ngày 16/7/2012. Tải tại
gov.vn/Site/vi-vn/64/194/61410/Default.aspx.
TRẦN THỊ NHUNG-VÕ DAO CHI – PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
24
38. Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược
Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn
2011-2020.
39. Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ban
hành Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam đã được ban hành cùng
với quyết định 1032/QĐ-TTg về việc thành
lập Hội đồng Phát triển bền vững Quốc gia
vào tháng 9/2005.
40. Roseland, M. 1998. Toward Sustainable
Communities. Gabriola island, British
Columbia, New Society Press.
41. Robert, Prescott-Allen (The Wellbeing of
Nations). 2001. A Country-by-Country Index
of Quality of Life and the Environment. Island
Press. Downloaded in
42. Robert Lensink and Mai Van Nam. 2008.
Economic Development of the Mekong Delta
in Vietnam. CDS Research Paper No. 27.
Downloaded in
tions/ResearchReports/Reports/Vietnam3.pdf.
43. Shuman, M. 1998. Going Local: Creating
Self-reliant Communities in a Global Age.
New York. Free Press.
44. UN. 1992a. United Nations Conference
on Environment and Development. Rio de
Janeiro. Brazil.
45. UN. 1992b. Agenda 21. Earth Summit.
46. U.S. National Research Council, Policy
Division, Board on Sustainable Development.
1999. Our Common Journey: A Transition
toward Sustainability. Washington, DC:
National Academy Press.
47. Văn phòng Agenda 21. Dự thảo lần 3 về
bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững về tài
nguyên và môi trường. Tham khảo tại
spx?tabid=395&idmid=&ItemID=4228 vào
ngày 10/4/2012.
48. Võ Dao Chi. 2010. Nghiên cứu xây dựng
mô hình cộng đồng sinh khối (biomass town)
tại huyện Củ Chi, TPHCM. Luận văn thạc sĩ.
Đại học Bách khoa TPHCM.
49. WCED. 1987. Our Common Future.
Oxford: Oxford University Press.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phattrienbenvung_6713.pdf