Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng. Tương lai không xa, Hải Dương sẽ trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 thực hiện đối với 8 tỉnh, trong đó có Hải Dương khẳng định: "Phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, cùng phát triển, đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường". Để xứng đáng với vị thế và tầm vóc của mình trong hiện tại cũng như tương lai; thời gian vừa qua Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Hải Dương đã ban hành nhiều nghị quyết và văn bản về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngành Y tế Hải Dương không chỉ đảm nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trên địa bàn tỉnh mà còn góp phần đáng kể trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân của khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc (gần 18 triệu người, chiếm 22% dân số cả nước). Để thực hiện được trọng trách này, ngành Y tế Hải Dương cần phải có một hệ thống y tế đủ mạnh, một mạng lưới y tế rộng khắp, một đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng cao với cơ sở và trang thiết bị hiện đại. Trong thời kỳ đổi mới, ngành Y tế Hải Dương đã có một số chuyển biến tích cực, mạng lưới y tế của tỉnh đã từng bước được củng cố, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, các loại hình dịch vụ y tế trong khám chữa bệnh, phòng bệnh và cung ứng thuốc ngày càng đa dạng. Cùng với các cơ sở của Bộ Y tế và các cơ sở Y tế của nhiều ngành khác đóng trên địa bàn tỉnh, ngành Y tế Hải Dương đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế trên phạm vi toàn tỉnh, bước đầu đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân Hải Dương và các tỉnh lân cận, góp một phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước. Tuy nhiên, hệ thống y tế của Hải Dương vẫn còn những bất cập: cơ sở vật chất xuống cấp và lạc hậu; các trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh chưa hiện đại; mạng lưới các trung tâm y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ. Đầu tư cho sự nghiệp y tế tỉnh còn hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước bước vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tạo đà cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ mới cần thiết phải phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài "Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương" cho luận văn cao học của mình. Với mong muốn đề tài sẽ là cơ sở tham khảo để đầu tư ngân sách Nhà nước, huy động vốn từ nhiều nguồn, xây dựng kế hoạch phát triển dịch vụ Y tế một cách đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm, nhằm xây dựng ngành Y tế Hải Dương vững mạnh về mọi mặt, từng bước đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh.

docx115 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng, là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng. Tương lai không xa, Hải Dương sẽ trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, thương mại và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 145/2004/QĐ-TTg ngày 13 tháng 8 năm 2004 về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 thực hiện đối với 8 tỉnh, trong đó có Hải Dương khẳng định: "Phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, cùng phát triển, đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường". Để xứng đáng với vị thế và tầm vóc của mình trong hiện tại cũng như tương lai; thời gian vừa qua Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Hải Dương đã ban hành nhiều nghị quyết và văn bản về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngành Y tế Hải Dương không chỉ đảm nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trên địa bàn tỉnh mà còn góp phần đáng kể trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân của khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc (gần 18 triệu người, chiếm 22% dân số cả nước). Để thực hiện được trọng trách này, ngành Y tế Hải Dương cần phải có một hệ thống y tế đủ mạnh, một mạng lưới y tế rộng khắp, một đội ngũ cán bộ y tế có chất lượng cao với cơ sở và trang thiết bị hiện đại. Trong thời kỳ đổi mới, ngành Y tế Hải Dương đã có một số chuyển biến tích cực, mạng lưới y tế của tỉnh đã từng bước được củng cố, cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường, các loại hình dịch vụ y tế trong khám chữa bệnh, phòng bệnh và cung ứng thuốc ngày càng đa dạng. Cùng với các cơ sở của Bộ Y tế và các cơ sở Y tế của nhiều ngành khác đóng trên địa bàn tỉnh, ngành Y tế Hải Dương đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế trên phạm vi toàn tỉnh, bước đầu đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân Hải Dương và các tỉnh lân cận, góp một phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, khu vực và cả nước. Tuy nhiên, hệ thống y tế của Hải Dương vẫn còn những bất cập: cơ sở vật chất xuống cấp và lạc hậu; các trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh chưa hiện đại; mạng lưới các trung tâm y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ. Đầu tư cho sự nghiệp y tế tỉnh còn hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước bước vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực, tạo đà cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ mới cần thiết phải phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài "Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương" cho luận văn cao học của mình. Với mong muốn đề tài sẽ là cơ sở tham khảo để đầu tư ngân sách Nhà nước, huy động vốn từ nhiều nguồn, xây dựng kế hoạch phát triển dịch vụ Y tế một cách đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm, nhằm xây dựng ngành Y tế Hải Dương vững mạnh về mọi mặt, từng bước đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục tiêu tổng quát của luận văn là đề xuất một số giải pháp: Phát triển hệ thống Y tế theo hướng công bằng - hiệu quả, kết hợp hài hoà giữa y tế chuyên sâu với y tế phổ cập, giữa phòng bệnh nâng cao sức khoẻ với chữa bệnh, phục hồi chức năng, giữa y học cổ truyền với y học hiện đại; phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ y tế theo địa bàn dân cư nhằm tạo cơ hội cho mọi người dân được tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao... Đối tượng nghiên cứu Các hoạt động dịch vụ y tế trên trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Phạm vi nghiên cứu Các dịch vụ y tế cho mọi người dân trên địa bàn tỉnh Hải Dương theo các lĩnh vực, bao gồm: Y tế dự phòng - nâng cao sức khoẻ; khám chữa bệnh - Phục hồi chức năng; y dược học cổ truyền, mạng lưới sản xuất, kiểm nghiệm, phân phối thuốc... 5. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp… 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn - Hệ thống hoá cơ sở luận về dịch vụ y tế và phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương những năm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ y tế và kinh nghiệm phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và đất nước Singapore. Chương 2: Phân tích thực trạng phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương I:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ Y TẾ VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE 1.1 KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ Y TẾ 1.1.1 Dịch vụ y tế và đặc điểm của dịch vụ y tế Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng. Một dịch vụ chỉ tồn tại khi tạo ra được niềm tin và uy tín đối với khách hàng. Dịch vụ ngày càng phát triển và đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong mỗi quốc gia, người ta gọi là ngành kinh tế mềm ( SORT ECONOMICS). Dịch vụ y tế là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng nhu cầu về sức khoẻ như: Khám chữa bệnh, phòng bệnh, giáo dục sức khoẻ, tư vấn sức khoẻ do các cơ sở y tế Nhà nước (Trạm y tế xã, Trung tâm y tế huyện/TP, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và trung ương) và các cơ sở y tế tư nhân ( Phòng khám, bệnh viện tư, hiệu thuốc) cung cấp. Có quan niệm cho rằng dịch vụ y tế là hàng hoá y tế song không được sử dụng vì dễ bị lợi dụng để biện minh cho hoạt động y tế kiếm lời, trái đạo đức của thày thuốc, nhưng trên thực tế các dịch vụ y tế vẫn ít nhiều mang tính chất của hàng hoá: có nhu cầu, có người cung cấp và có người sử dụng thì phải trả tiền (có thể người trả tiền là cá nhân, có thể là tập thể, Nhà nước). Trong cơ chế thị trường, nhà sản xuất để có lợi nhuận tối đa sẽ căn cứ vào nhu cầu và giá cả thị trường để quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thông qua cơ chế thị trường, các nguồn lực của nền kinh tế tự động phân bổ một cách tối ưu. Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thị trường phải có môi trường cạnh tranh hoàn hảo, thông tin đầy đủ và không bị ảnh hưởng bởi các tác động ngoại lai v.v...Trong lĩnh vực y tế, cơ chế thị trường không thể vận hành một cách hiệu quả. Các nhà phân tích kinh tế đã thừa nhận trong thị trường y tế luôn tồn tại các yếu tố “thất bại thị trường”, cụ thể: Thị trường y tế không phải là thị trường tự do. Trong thị trường tự do, giá của một mặt hàng được xác định dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa người mua và người bán. Trong thị trường dịch vụ y tế không có sự thỏa thuận này, giá dịch vụ do người bán quyết định. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ có điều kiện, tức là có sự hạn chế nhất định đối với sự gia nhập thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ y tế. Cụ thể, muốn cung ứng dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất. Nói một cách khác, trong thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. Như trên đã trình bày, trên thực tế, bệnh nhân hiểu biết rất ít về bệnh tật và các chỉ định điều trị, do vậy hầu như người bệnh hoàn toàn phải dựa vào các quyết định của thầy thuốc trong việc lựa chọn các dịch vụ y tế (cầu do cung quyết định). Nếu vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế. Dịch vụ y tế là các dịch vụ có đặc điểm “hàng hóa công cộng” và mang tính chất “ngoại lai”. Đặc điểm “ngoại lai” của các dịch vụ này là lợi ích không chỉ giới hạn ở những người trả tiền để hưởng dịch vụ mà kể cả những người không trả tiền (Ví dụ: các dịch vụ y tế dự phòng, giáo dục sức khỏe). Chính điều này không tạo ra được động cơ lợi nhuận cho nhà sản xuất, làm việc cung ứng các dịch vụ đó thấp. Lúc này, để đảm bảo đủ cung đáp ứng cho cầu cần có sự can thiệp hỗ trợ của Nhà nước trong cung ứng các dịch vụ y tế mang tính công cộng. Do tính chất đặc thù của dịch vụ y tế và thị trường dịch vụ y tế, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước cần giữ vai trò cung ứng đối với các dịch vụ y tế “công cộng” và dịch vụ dành cho các đối tượng cần ưu tiên còn để tư nhân cung ứng các dịch vụ y tế tư. Đồng thời với sự tạo điều kiện thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ y tế tư, vai trò quản lý của Nhà nước rất cần thiết trong việc kiểm soát giá cả và chất lượng dịch vụ, tăng cường thông tin, thẩm định điều kiện hành nghề như đã nêu ở trên. Công cụ hữu hiệu nhất trong kiểm soát giá cả và dịch vụ cung ứng chính là phương thức chi trả phù hợp. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy rất khó kiểm soát các yếu tố thất bại thị trường trong thị trường bảo hiểm y tế tư nhân. Mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế và tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản cho mọi người dân chỉ có thể đạt được thông qua con đường bảo hiểm y tế toàn dân với sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng như người nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, người già…và sự tham gia tự giác của cộng đồng. Dịch vụ y tế là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Cũng như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ y tế có đặc điểm sau: - Tính chất vô hình của dịch vụ: Dịch vụ xuất hiện đa dạng nhưng không tồn tại ở một mô hình cụ thể như đối với sản xuất hàng hoá. - Tính chất đúng thời điểm và không thể dự trữ, không thoả mãn hai điều kiện này dịch vụ trở nên không có giá trị. - Do phụ thuộc quá nhiều yếu tố: Không gian, thời gian, trạng thái tâm lý, hoàn cảnh của các bên tham gia... nên chất lượng dịch vụ mang tính chất không đồng đều. - Do tính chất không thể dự trữ và không đồng đều nên gặp khó khăn trong việc tiêu chuẩn hoá dịch vụ. Tuy nhiên vẫn có thể xác định được một mức độ phục vụ nhất định nào đó. - Dịch vụ không thể tồn tại độc lập mà gắn liền với người tạo dịch vụ. Khác với hàng hoá, dịch vụ là sự gắn chặt song hành giữa dịch vụ với người tạo ra dịch vụ. - Chính từ sự yêu cầu của người sử dụng mà dịch vụ hình thành và quá trình tạo ra dịch vụ cũng chính là quá trình tiêu dùng dịch vụ. Đó là sự ảnh hưởng mật thiết của người tiêu dùng tới sự tồn tại của dịch vụ. Tuy nhiên, không giống các loại dịch vụ khác, dịch vụ y tế có một số đặc điểm riêng, đó là: - Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở các mức độ khác nhau. Chính vì không dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường người ta gặp khó khăn trong chi trả các chi phí y tế không lường trước được. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng (người bệnh) thường không tự mình lựa chọn được mà chủ yếu do bên cung ứng (cơ sở y tế) quyết định. Nói một cách khác, ngược lại với thông lệ “Cầu quyết định cung” trong dịch vụ y tế “Cung quyết định cầu”. Cụ thể, người bệnh có nhu cầu khám chữa bệnh nhưng điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu lại do bác sĩ quyết định. Như vậy, người bệnh chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị, ở một chừng mực nào đó, bác sĩ điều trị chứ không được chủ động lựa phương pháp điều trị. - Dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không giống các nhu cầu khác, khi bị ốm, mặc dù không có tiền nhưng người ta vẫn phải mua (khám chữa bệnh) đây là đặc điểm đặc biệt không giống các loại hàng hóa khác. - Dịch vụ y tế nhiều khi không bình đẳng trong mối quan hệ, đặc biệt trong tình trạng cấp cứu: Không thể chờ đợi được và chấp nhận dịch vụ bằng mọi giá. - Bên cung cấp dịch vụ có thể là một tổ chức hay cũng có thể là một cá nhân. Để được là bên cung cấp dịch vụ y tế thì phải có giấy phép hành nghề theo quy định của Nhà nước. 1.1.2 Phân loại dịch vụ y tế: a. Phân loại theo đối tượng phục vụ: Có ba loại dịch vụ y tế: dịch vụ y tế công cộng (public good), dịch vụ y tế cho các đối tượng cần chăm sóc ưu tiên (merit good) và dịch vụ y tế cá nhân (private good). Dịch vụ y tế công cộng là các dịch vụ mà lợi ích của những dịch vụ này không chỉ giới hạn ở việc cung ứng trực tiếp (dịch vụ khám chữa bệnh) cho người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo dục y tế. Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần chăm sóc ưu tiên: sẽ được dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ - trẻ em, người có công với cách mạng... Dịch vụ y tế cá nhân là các dịch vụ y tế chỉ cung ứng trực tiếp cho người sử dụng dịch vụ. b. Phân loại theo phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh là những dịch vụ y tế mà các cơ sở y tế đăng ký với Nhà nước được cung cấp tại đơn vị mình. Danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh được sắp xếp theo chuyên khoa, chuyên ngành như: Dịch vụ khoa ngoại, chấn thương, nội, sản, nhi... Phân tuyến kỹ thuật là những quy định của cơ quan Nhà nước trong phạm vi chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến từ tuyến xã, huyện, tỉnh đến Trung ương (Phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh trong Quyết định số 23/2005/QĐ-BYT ngày 30/8/2005 của Bộ y tế về việc ban hành Quy định phân tuyến kỹ thuật và danh mục kỹ thuật trong khám chữa bệnh). Theo tiêu thức này dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động sau: - Hoạt động y tế dự phòng (Bao gồm cả lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm); - Hoạt động khám chữa bệnh, phục hồi chức năng; - Hoạt động khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền; - Hoạt động sản xuất, kiểm nghiệm và phân phối thuốc. c. Phân loại theo tiêu thức của WTO - Các dịch vụ nha khoa và y tế: Các dịch vụ chủ yếu nhằm mục đích dự phòng, chẩn đoán và chữa bệnh qua tham vấn với các bệnh nhân mà không có chăm sóc tại bệnh viện... - Các dịch vụ do hộ sinh, y tá, vật lý trị liệu và nhân viên  kỹ thuật y tế cung cấp: Các dịch vụ như giám sát trong thai kỳ  và sinh con... chăm sóc (không nhập viện), tư vấn và dự phòng cho bệnh nhân tại gia. - Các Dịch vụ bệnh viện: Các dịch vụ được cung cấp theo chỉ dẫn của bác sỹ chủ yếu đối với các bệnh nhân nội trú nhằm mục đích chữa trị, phục hồi và/hoặc duy trì tình trạng sức khoẻ... - Các dịch vụ y tế con người khác: Các dịch vụ ngoại trú; Các dịch vụ y tế kèm nơi ở thay vì các dịch vụ bệnh viện. 1.1.3 Tổ chức hoạt động dịch vụ y tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt động dịch vụ y tế để đạt được tính công bằng và tính hiệu quả trong nền kinh tế xã hội. Các chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo kiểm soát các dịch bệnh lây lan, khuyến khích sự phát triển của khoa học. Bảo vệ người tiêu dùng tránh mua phải những dịch vụ không cần thiết, chất lượng kém hoặc chi phí cao. Sức khoẻ tốt đang ngày càng được xem như một quyền cơ bản của con người trong xã hội. Đảm bảo sức khoẻ tốt cho mọi người là việc rất cần thiết của Chính phủ. Hiện nay ở Việt nam đang lấy dịch vụ y tế Nhà nước làm chủ đạo và phát triển từng bước hợp lý dịch vụ y tế tư nhân. Nhà nước nắm trong tay nguồn nhân lực y tế, đặc biệt là y tế cơ sở tuyến huyện, tuyến xã và thôn bản. Nhà nước lấy nguồn NSNN làm nguồn tài chính chủ yếu cho y tế để chủ động điều chỉnh kinh phí cho vùng nghèo và các đối tượng nghèo cũng như các đối tượng hưởng chính sách (những người có công với nước), thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ và giải quyết những việc bức bách, cấp thiết của các dịch vụ hoặc những hậu quả do thiên tai, thảm hoạ gây ra... Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của khu vực y tế công là đảm bảo ba mục tiêu lớn: + Tăng cường sức khoẻ nhân dân, + Thực hiện công bằng xã hội trong CSSK, + Tăng cường hiệu quả và chất lượng trong chăm sóc sức khoẻ. Tuy lấy dịch vụ y tế Nhà nước là chủ đạo nhưng hiện nay chúng ta vẫn kết hợp phát triển từng bước hợp lý dịch vụ y tế tư nhân vì dịch vụ y tế Nhà nước tuy có các ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm ở chỗ thiếu tính cạnh tranh. Trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay nguồn Ngân sách Nhà nước có hạn và tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, sự phát triển không đồng đều giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi, có bộ phận dân cư giàu lên nhưng đại bộ phận vẫn ở mức nghèo, vì vậy việc huy động tài chính từ một bộ phận dân cư giàu lên để đỡ một phần gánh nặng NSNN, đó là việc làm cần thiết. Xã hội hoá y tế là một chiến lược quan trọng nhưng muốn đảm bảo được sự công bằng theo hướng XHCN thì không thể lấy việc giải quyết khó khăn của nguồn NSNN cung cấp cho ngành y tế và làm giảm gánh nặng cho NSNN là mục đích đầu tiên của XHH, mà phải lấy việc giải quyết nhu cầu của công tác CSSK trong khi nền y tế công chưa thể thoả mãn được nhu cầu này làm mục đích chính. Hệ thống y tế tư nhân (YTTN) ở Việt Nam bao gồm các phòng khám, bệnh viện của tư nhân, các hiệu thuốc tư nhân... hoạt động vì lợi nhuận cũng như không vì lợi nhuận, các tổ chức phi Chính phủ. YTTN hoạt động theo (luật HNYDTN năm 1993) chủ yếu cung cấp các dịch vụ KCB ngoại trú và một số dịch vụ chẩn đoán. 1.1.4 Kiểm tra đánh giá hoạt động dịch vụ y tế Với một nguồn lực nhất định, chúng ta đều muốn đạt được nhiều lợi ích hơn khi sử dụng nó. Trong thực tế nguồn lực luôn hạn hẹp, do vậy phải lựa chọn biện pháp tốt nhất để sử dụng. Để đạt được mục tiêu của mình, các cơ sở y tế và cả Cơ quan Bảo hiểm đều phải đối mặt với sự lựa chọn để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho việc sử dụng các nguồn lực. Bất kể quốc gia nào, nguồn lực dành cho y tế luôn hạn hẹp và luôn phải cạnh tranh với lĩnh vực khác. Với mục đích như vậy, kiểm tra và đánh giá hoạt động dịch vụ y tế là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động dịch vụ y tế, song các phương pháp kiểm tra và đánh giá trở lên phức tạp vì dịch vụ y tế là hàng hoá công cộng được cung cấp cho tất cả mọi người trong xã hội nên không có giá cả trong thị trường. Các phương pháp đánh giá kinh tế không phải là phương tiện thay thế quá trình ra quyết định. Đánh giá hoạt động dịch vụ y tế chỉ là một trong những phương tiện có sẵn và có ích làm cho sự lựa chọn trở lên rõ ràng hơn, tạo cho chúng ta khả năng sử dụng tốt nhất nguồn lực khan hiếm. Để kiểm tra và đánh giá hoạt động dịch vụ y tế, những câu hỏi chung thường được đặt ra và cần được trả lời: Chúng ta nên làm gì, làm như thế nào và làm gì cho ai?. Nguồn lực nào cho từng hoạt động dịch vụ y tế?. Chi phí bao nhiêu?. Có các mối liên hệ nào với các dịch vụ y tế khác nhau?. Người dân sẽ được hưởng những gì từ hoạt động này?. Trả lời cho những câu hỏi trên thường bị ảnh hưởng bởi việc ước tính về giá trị thực của những hoạt động được đề ra. Để đánh giá đúng, các câu hỏi thường đặt ra: Với các nguồn lực đang sử dụng thì dịch vụ y tế và trương trình y tế đang được thực hiện có giá trị hơn là các chương trình khác mà chúng ta đã bỏ qua không?. Cách sử dụng nguồn lực để cung cấp dịch vụ y tế, thực hiện chương trình y tế đã phù hợp chưa?. Do vậy đánh giá hoạt động dịch vụ y tế là công cụ giúp nhà hoạch định chính sách và nhà kế hoạch ra quyết định nhằm tối ưu hoá lợi ích và hiệu quả cho xã hội đã được phân bổ. Các phương pháp đánh giá dịch vụ y tế: 1.1.4.1 Phân tích giảm thiểu chi phí ( Cost Minimization Anlysisa – CMA) dựa trên các phát hiện dịch tễ học, kỹ thuật này dùng để xác định các chi phí can thiệp nhỏ nhất. 1.1.4.2 Phân tích chi phí hiệu quả ( Cost Effectiveness Analysis- CEA) Phát hiện phương pháp tốt nhất để hoàn thành một mục tiêu đơn bằng cách so sánh chi phí với hiệu quả: Loại can thiệp nào trong một số can thiệp sẽ hoàn thành với chi phí nhỏ nhất. Với một ngân sách cố định, loại can thiệp nào sẽ tối đa hoá hiệu quả của chi phí. Các kết quả đánh giá sẽ được biểu hiện bằng chi phí, hoặc hiệu quả tính bằng đơn vị tiền tệ. 1.1.4.3 Phân tích chi phí lợi ích ( Cost Bebefit Analysis – CBA) Đó là việc định giá cả chi phí và lợi ích thành tiền, so sánh chúng, lượng giá xem đề án, chương trình có phải là điều mong muốn không, qua cách sử dụng các tiêu chuẩn để ra quyết định: Nếu tỷ số Lợi ích/Chi phí>1 là khả thi. 1.1.4.4 Phân tích chi phí hữu dụng ( Cost Unitity Analysis-CUA) là một dạng của CEA nhưng nó đo lường hiệu quả của một dự án, chương trình bằng tính hữu dụng, có thể hướng vào việc tối thiểu hoá chi phí hoặc tối đa hoá hiệu quả. 1.2 NHỮNG CƠ SỞ ĐỂ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ 1.2.1 Sự cần thiết để phát triển dịch vụ y tế Sau 20 năm đổi mới với những thành tựu kinh tế ngoạn mục, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực ngày càng nâng cao, quan trọng hơn hết là việc Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO. Gia nhập WTO sẽ tạo ra nhiều cơ hội tốt cho nền kinh tế Việt Nam nhưng đồng thời cũng đặt ra rất nhiều thách thức lớn lao - đó là cạnh tranh quốc tế - một cuộc cạnh tranh tuy công bằng nhưng vô cùng khốc liệt. Ngành y tế Việt Nam nói chung và dịch vụ y tế của Việt Nam không nằm ngoài cuộc cạnh tranh này. Sự đối mặt đầu tiên với cạnh tranh quốc tế của dịch vụ y tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO là ngày càng nhiều những người bệnh thu nhập cao ra nước ngoài khám và chữa bệnh. Số lượng này ngày càng tăng, lúc đầu chủ yếu từ các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, sau này thêm người bệnh từ các tỉnh khác như Nam Định, Ninh Bình, Lạng Sơn… Thành phần người bệnh cũng rất đa dạng, từ các vị lãnh đạo cao cấp trong Chính phủ, tới các doanh nhân và công chức. Nhu cầu dịch vụ y tế của người dân cũng rất đa dạng, từ  kiểm tra sức khỏe định kỳ tới điều trị ung thư, phẫu thuật cho tới thẩm mỹ, chăm sóc sắc đẹp. Nếu cách đây 10 năm trở về trước, “xuất ngoại” là việc lớn của hầu hết các gia đình Việt Nam thì “xuất ngoại” đi chữa bệnh lại càng là chuyện lạ. Thì nay, đó lại trở nên bình thường khi đời sống của người dân ngày càng tăng. Việc cấp hộ chiếu trong nước ngày càng phổ biến, nhanh chóng và thuận tiện. Hàng rào visa đã hoàn toàn xóa bỏ trong khối ASEAN và sắp tới có thể với nhiều quốc gia khác. Sự ra đời gần đây của các hãng hàng không giá rẻ càng làm cho việc đi lại trở nên thuận tiện. Với sự vĩ đại của công nghệ thông tin, các bệnh nhân Việt Nam có thể tiếp cận rất dễ dàng với các chuyên gia y tế hàng đầu khu vực và quốc tế qua email và internet để hỏi ý kiến chuyên môn và chẩn đoán. Trong khi đó, cung cấp dịch vụ y tế nói chung và đặc biệt là dịch vụ y tế chất lượng cao trong nền kinh tế thị trường là thoả mãn nhu cầu của khách hàng vẫn là khái niệm mơ hồ đối với nhiều bệnh viện tại Việt Nam, đặc biệt tại các bệnh viện công. Không nói quá khi nhiều bệnh viện công lập tỏ thái độ không cần bệnh nhân vì lúc nào họ cũng trong tình trạng quá tải. Nếu phải làm dịch vụ y tế chất lượng cao, họ chỉ quan tâm tới việc trang bị tivi, tủ lạnh, máy điều hoà cho một vài phòng bệnh chứ không ý thức xây dựng một chiến lược thông qua liên kết, quảng bá, tiếp thị nhằm thu hút bệnh nhân nước ngoài, Việt kiều hoặc người có điều kiện tài chính muốn được chữa trị và chăm sóc đúng mức. Phải đối diện với cạnh tranh quốc tế về trình độ công nghệ và dịch vụ y tế chất lượng cao là một thực tế và thách thức của dịch vụ y tế Việt Nam. Dịch vụ y tế Việt Nam có truyền thống rất lâu đời và có nhiều thành tích tốt đẹp được thế giới ghi nhận như tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, kết hợp tốt hai nền y học cổ truyền và hiện đại, giải quyết tốt đại dịch SARS và dịch cúm gia cầm, thực hiện tốt ghép tạng trong điều kiện hết sức thiếu thốn và khó khăn. Do vậy vấn đề mang tính thời đại là phải có những giải pháp cần thiết trong đào tạo, nghiên cứu, quản lý, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ y tế thì ngành Y tế Việt Nam mới thực hiện tốt, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, tiến tới xuất khẩu dịch vụ y tế và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 1.2.2 Các biện pháp phát triển dịch vụ y tế Tăng trưởng trong lĩnh vực y tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Viện phí, công xuất sử dụng giường bệnh... thì phát triển dịch vụ y tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của ngành y tế, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH, HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào phát triển kinh tế - xã hội... Do vậy để phát triển dịch vụ y tế chúng ta cần phải: 1.2.2.1 Củng cố và phát triển y tế cơ sở Củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở nhằm nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Đảm bảo 100% số xã có trạm y tế phù hợp với điều kiện kinh tế địa lý, môi trường sinh thái và nhu cầu khám chữa bệnh của từng vùng. Đảm bảo đến năm 2010, tại 100% các trạm y tế xã vùng đồng bằng, trung du và 50% số trạm y tế xã vùng miền núi, vùng sâu có bác sỹ... Nhà nước có trách nhiệm đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn cho các đối tượng này. Phát triển đội ngũ tình nguyện viên y tế tại các thôn ấp miền đồng bằng. Tăng cường công tác quản lý y tế cơ sở, triển khai các giải pháp quản lý mới đạy hiệu quả cao hơn như giải pháp lồng ghép chăm sóc trẻ ốm, nâng cao năng lực điều hành chăm sóc sức khoẻ ban đầu dựa vào cộng đồng... 1.2.2.2 Phát triển dịch vụ y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ nhân dân Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng từ TW đến cơ sở, đặc biệt là các Trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh và đội vệ sinh phòng dịch của các huyện, quận. Củng cố các khoa y tế lao động và thành lập các phòng khám bệnh nghề nghiệp tại các tỉnh thành trọng điểm công nghiệp. Hoàn thiện mạnh lưới quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; kiện toàn hệ thống thanh tra liên ngành. Thực hiện các mục tiêu Chương trình Quốc gia thanh toán một số bệnh xã hội và dịch bệnh nguy hiểm, phấn đấu đến năm năm 2010: Giảm số mắc sốt rét xuống dưới 200 ca /100.000 dân; khống chế, tiến tới giảm tỷ lệ số lao mới mắc và và tổng số lao mới mắc và tổng số bệnh nhân còn 70% so với năm 2000... Chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra. Củng cố hệ thống báo cáo, giám sát dịch tễ, hiện đại hoá hệ thống quản lý số liệu để có các thông tin kịp thời cho việc xử lý các vụ dịch. Lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, cung cấp nguồn lực, huy động các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tham gia phòng chống dịch và các chương trình như cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường... Triển khai thực hiện rộng rãi các trương trình phòng chống các bệnh không nhiễm trùng như: tim mạch, ung thư, đái tháo đương.... Tham gia tích cực trong việc phòng chống tai nạn thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Tăng cường quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, phát triển đội ngũ thanh tra và kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại tất cả các tuyến.. Triển khai mạnh mẽ chương trình sức khoẻ sinh sản, làm mẹ an toàn, chăm sóc sản khoa thiết yếu và các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình... Thực hiện các chương trình chăm sóc sức khoẻ trẻ em như: Phòng chống suy dinh dưỡng, sức khoẻ vị thành niên... Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ. 1.2.2.3 Phát triển hệ thống khám chữa bệnh và phục hồi chức năng Đầu tư nâng cấp hệ thống khám chữa bệnh một cách đồng bộ, phù hợp với nhu cầu từng vùng và khả năng kinh tế xã hội. Tập trung nguồn lực cho việc nâng cấp các cơ sở khám chữa bệnh ở 2 trung tâm y tế chuyên sâu. Phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và có quy định chuyển tuyến chặt chẽ hơn để giảm bớt tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Sớm hoàn thành quy hoạch mạng lưới khám chữa bệnh, chuẩn hoá các phương tiện và kỹ thuật thường quy, sử dụng có hiệu quả và khai thác hết công xuất các thiết bị trong chuẩn đoán và điều trị. Xây dựng danh mục thuốc điều trị phù hợp với nhu cầu của bệnh viện... Tập trung triển khai tốt quy chế bệnh viện, cải cách các thủ tục hành chính trong khám bệnh và chữa bệnh để tạo điều kiện cho bệnh nhân. Đảm bảo điều kiện phục vụ các bệnh nhân tại cơ sở khám chữa bệnh như ăn, ở và sinh hoạt. Tiếp tục giáo dục cán bộ toàn ngành y tế thấm nhuần y đức xoá bỏ tiêu cực trong bệnh viện. Đổi mới cơ chế quản lý các dịch vụ y tế... Đa dạng hoá các cơ sở khám chữa bệnh bao gồm các cơ sở của Nhà nước, y tế các ngành, cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, bán công và tư nhân. Thống nhất quản lý về chuyên môn và nghiệp vụ của các cơ sở y tế nói trên với hoạt động của hệ thống y tế quốc gia nói chung bao gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh. 1.2.2.4 Phát triển y dược học cổ truyền Củng cố và phát triển hệ thống YDHCT từ trung ương đến trạm y tế xã phường. Tăng cường đào tạo cán bộ chuyên sâu và phổ cập về YDHCT. Tập trung nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu kết hợp, xác định những bệnh ưu tiên chữa bằng y học cổ truyền để hướng dẫn các cơ sở điều trị. Phát triển vườn thuốc nam và các kỹ thuật không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt... có chính sách cụ thể về tăng cường sử dụng thuốc YHCT. 1.2.2.5 Phát triển công nghệ dược Tiếp tục triển khai chính sách quốc gia về thuốc với các mục tiêu cơ bản là đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất lượng đến người dân, thực hiện sử dụng thuốc an toàn hợp lý. Củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dược từ trung ương đến địa phương. Quy hoạch và tổ chức lại ngành công nghiệp dược theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và đầu tư có trọng điểm. Phát triển công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ nhân giống và cấy mô để phục vụ cho sản xuất thuốc, sản xuất vắc xin... Tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư nâng cấp các công ty dược theo tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP). 1.2.2.6 Xã hội hoá công tác y tế Đa dạng hoá các loại hình chăm sóc sức khoẻ, tìm kiếm và khai thác các nguồn đầu tư khác nhau cho y tế như BHYT tự nguyện, viện trợ nước ngoài... Phát triển văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh, xoá bỏ tập quán có hại cho sức khoẻ. Xây dựng điển hình tiên tiến về vệ sinh môi trường và an toàn cộng đồng. Củng cố và phát triển các trung tâm truyền thông và giáo dục sức khoẻ. Phát triển mạng lưới tuyên truyền xuống tận tuyến xã. Phối hợp với các cấp các ngành, các tổ chức chính trị xã hội trong công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ cộng đồng. 1.2.3 Những điều kiện để phát triển dịch vụ y tế 1.2.3.1 Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất là điều kiện quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng khám, phòng và chữa bệnh. Về đầu tư: Việc đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân phải dựa vào nhiều nguồn lực khác nhau, bao gồm: đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng và viện trợ quốc tế... trong đó đầu tư của nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Từng bước phấn đấu mức chi thường xuyên cho y tế đạt tỷ lệ 5% trong tổng chi ngân sách vào năm 2010. Thực hiện phân bổ ngân sách dựa trên mức thu nhập và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, mức độ bao phủ của Bảo hiểm y tế và khả năng chi trả viện phí của người dân tại mỗi vùng. Ngân sách Nhà nuớc ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, vùng núi và các hoạt động y tế dự phòng, y học cổ truyền, các hoạt động chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại y tế cơ sở, khám chữa bệnh cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Nhà nước cần phải đầu tư cho các mục tiêu chương trình y tế quốc gia và một số chương trình sức khoẻ ưu tiên để chủ động giải quyết các vấn đề sức khoẻ. Ngân sách nhà nước tập trung cho những chương trình có tác động rộng rãi đến sức khoẻ và đời sống kinh tế- văn hoá xã hội của công đồng. Bố trí, cân đối lại tỷ trọng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vay vốn hoặc viện trợ để đảm bảo tính bền vững của các chương trình. Thực hiện cơ chế chính sách tài chính mới tại một số bệnh viện ở các thành phố lớn tiến tới tự cân đối thu chi thường xuyên dựa trên BHYT và viện phí. Nhà nước sẽ hỗ trợ cho đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách của Nhà nước trong khám chữa bệnh. Nhà nước cần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ hợp tác quốc tế. Tăng cường huy động và điều phối các nguồn viện trợ, đặc biệt là các khoản viện trợ không hoàn lại cho hỗ trợ kỹ thuật và các khoản vay ưu đãi cho đầu tư phát triển; cùng với các khoản đầu tư cá nhân và liên doanh phù hợp với chủ trương và chính sách của Nhà nuớc. Thực hiện việc kết hợp các nguồn viện trợ với ngân sách Nhà nước trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ Nhân dân. Bên cạnh đó ngành Y tế phải nâng cao năng lực quản lý tài chính ở các cấp, giảm bớt đầu tư bất hợp lý, tránh thất thoát và tăng cường tiết kiệm. Về trang thiết bị: Trong thời gian qua, các bệnh viện tuyến tỉnh dù đã được đầu tư, nâng cấp về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị nhưng mức đầu tư này vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế. Nhiều bệnh viện mới chỉ có được 30% trên 30 loại thiết bị y tế thiết yếu (trong tổng số trên 200 loại trang thiết bị dùng cho tuyến tỉnh). Trong đó có đến 35% số lượng thiết bị hiện có đã sử dụng từ những năm 1985 trở về trước. Gần 40% thiết bị được đưa vào sử dụng từ những năm 1986. Qua một thời gian dài sử dụng như vậy số trang thiết bị hiện còn sử dụng được chỉ vào khoảng 25-30%. Thêm nữa, trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật đã quá lạc hậu so với các nước trong khu vực nên nhiều cơ sở chưa đáp ứng kịp sự đổi mới về kỹ thuật - công nghệ, không ít cơ sở còn chưa khai thác hết trang thiết bị hiện có. Ở một số nơi, trang thiết bị ngoại nhập đắt tiền thậm chí vẫn được "đắp chiếu" do... quá hiện đại với khả năng của người vận hành, sử dụng. Để khắc phục tình trạng xuống cấp, khai thác chưa hết tính năng, công suất hoặc không được sử dụng của TTBYT, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá ngành y tế, phấn đấu đạt trình độ ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực, cần phải: - Kiện toàn về tổ chức và xây dựng các trung tâm dịch vụ kỹ thuật trang thiết bị y tế, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy về trang thiết bị y tế. Đầu tư trang thiết bị y tế theo phân tuyến kỹ thuật của hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh, đảm bảo đến năm 2010 tất cả các cơ sở y tế được trang bị đầy đủ thiết bị y tế theo danh mục tiêu chuẩn của Bộ y tế và được cấp đầy đủ vật tư và các dụng cụ thông thường. - Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực trang thiết bị y tế với các nước và các ngành, nhằm phát triển nền công nghiệp trang thiết bị y tế ở Việt nam. 1.2.3.2 Nhân lực y tế Nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi hay thất bại của một hệ thống. Chính vì vậy các nước trên thế giới đều rất quan tâm tới việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Người ta ước tính mức chi hợp lý cho con người ở các nước phát triển là khoảng 50-70% tổng chi phí. Việc đào tạo cán bộ y tế thường mất nhiều thời gian và tốn kém, ở các nước phát triển chi cho đào tạo bác sỹ thường từ 40.000-90.000USD cho một năm. Còn đối với nước ta chi cho đào tạo bác sỹ chính quy là 12.000USD/năm. Nhân lực y tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống y tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của con người. Do vậy yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ y tế phải ngày càng phát triển, chuyên môn hoá cao và sâu. Công tác quản lý ngành ngày càng đa dạng hơn do việc đưa các thiết bị hiện đại và các loại cán bộ kỹ thuật khác nhau vào trong công tác y tế, đặc biệt trong lĩnh vực cận lâm sàng. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kỹ thuật cao và quy trình tự động hoá cao đòi hỏi phải đổi mới cơ chế quản lý nhân lực y tế, tiêu chuẩn hoá việc đào tạo các hình loại hình cán bộ cho từng tuyến. Cải cách trương trình giảng dạy, đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng đào tạo hướng vào việc hình thành các năng lực và phẩm chất đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thực hiện các chương trình y tế và sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật y dược hiện đại. Phân bổ lực lượng cán bộ y tế phù hợp giữa các vùng theo nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Sắp xếp lại nhân lực ở các cơ sở y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện để có thể điều động luân phiên các bác sỹ về tăng cường cho y tế cơ sở. Nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường kỷ luật lao động và y đức của cán bộ y tế. 1.2.3.3 Cơ chế tổ chức, điều hành và quản lý Trình độ quản lý, cơ chế điều hành và tổ chức cán bộ có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng một cơ chế vận hành và quản lý bộ máy nhà nước tường minh, hiệu quả trở thành đòi hỏi bức thiết trong đời sống kinh tế xã hội. Đối với các hoạt động dịch vụ y tế cần: Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý các cấp về kiến thức tổ chức và quản lý trong lĩnh vực y tế; Nâng cao năng lực lập kế hoạch trong các lĩnh vực hoạt động của ngành y tế; Điều hành, quản lý Nhà nước về y tế bằng pháp luật đi đôi với việc tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Thực hiện tốt qui chế dân chủ tại tất cả các cơ sở y tế. Xây dựng phong trào thi đua trong ngành, đặc biệt là xây dựng những đơn vị cá nhân điển hình tiên tiến. Phong trào thi đua phải được duy trì để phát triển ngành và tăng cường y đức. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức ngành y tế theo hướng tinh giảm đầu mối để đạt hiệu quả cao. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mạng lưới tổ chức trong các lĩnh vực y tế dự phòng, khám chữa bệnh, dược và đào tạo... Hoàn thiện cơ chế quản lý ngành từ cấp tỉnh đến cơ sở. Phát triển bệnh viện đa khoa khu vực (liên huyện) ở những địa bàn xa trung tâm tỉnh để dưa kỹ thuật khám chữa bệnh thích hợp xuống gần dân. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của phòng khám đa khoa cụm liên xã tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân ta. Thực hiện chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là trách nhiệm của tất cả các Bộ, các Ngành và các địa phương, trong đó ngành y tế giữ vai trò làm lòng cốt trong việc tham mưu cho chính phủ tổ chức thực hiện. 1.3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ Y TẾ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẤT NƯỚC SINGAPORE Theo các chuyên gia tâm lý, yếu tố tâm lý tác động rất nhiều đến sự chuyển biến của bệnh tật. Trong quá trình chữa bệnh, điều trị về tinh thần là vô cùng quan trọng. Có những người mắc bệnh nan y như ung thư, nếu được sống trong một môi trường thân thiện, thoải mái, tâm lý tốt, có thể kéo dài cuộc sống thêm vài năm, thậm chí là vài chục năm. Trong khi đó phần lớn bệnh nhân Việt Nam lại không tìm thấy không khí đấy tại các bệnh viện trong nước. Họ cho rằng ngoài sự quá tải đến ngột ngạt thì thái độ bác sỹ cũng khiến cho bệnh tật của họ nặng thêm. Nhiều người có tiền đã lựa chọn dịch vụ khám chữa bệnh ở nước ngoài, mặc dù giá cả khám chữa bệnh tại nước ngoài không rẻ chút nào (phẫu thuật điều trị tim bẩm sinh mất khoảng 250 triệu đồng/lần (bệnh nhân thường phải trải qua 2-3 lần), ghép gan cho người lớn hiến từ người sống hết khoảng 2,5 tỷ đồng, phẫu thuật u não bằng phương pháp xạ vi phẫu (tạo vết thương nhỏ) khoảng 200 đến 250 triệu đồng…), thế nhưng nhu cầu đang ngày càng tăng. Ngoài các bệnh nhân có nhu cầu đi chữa bệnh ở nước ngoài đều mắc các bệnh nặng như ung thư, tim mạch, hoặc cần được ghép tạng… và phần lớn họ không tin tưởng vào chất lượng dịch vụ y tế trong nước nhưng trên thực tế, có rất nhiều người ra nước ngoài không phải vì bệnh hiểm nghèo mà chỉ muốn được tận hưởng một dịch vụ chăm sóc bệnh nhân hoàn hảo. Thế mới có chuyện, nhiều người có tiền tranh thủ ngày nghỉ cuối tuần để sang Thái lấy cao răng?! Vấn đề đặt ra ở đây là, giải pháp gì khi chúng ta đang để mất một lượng đáng kể bệnh nhân có khả năng chi trả cao?. Bao giờ các bệnh viện Việt Nam mới đáp ứng được nhu cầu dịch vụ y tế và bao giờ các bệnh viện Việt nam có dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế? Theo nhận định của các chuyên gia cho rằng, để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ y tế của nhân dân hiện nay còn rất khó khăn chứ chưa nói đến dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao tại các bệnh viện trong nước. Song, về trình độ chuyên môn, các bác sỹ Việt Nam được đánh giá rất cao, họ có đủ khả năng để tiếp xúc với nền y học tiên tiến, hiện đại. Đặc biệt, đến nay nhiều bệnh viện trong nước đã thực hiện thành công các ca ghép nội tạng. Trong đó, kỹ thuật ghép thận đã về đến các bệnh viện tuyến tỉnh, và có đến 5 bệnh viện tuyến trung ương có thể tiến hành ghép gan. Kỹ thuật ghép tim đang được bệnh viện Việt Đức tiến hành nghiên cứu thực hiện… Tuy nhiên, để ngành y tế Việt Nam phát triển với hệ thống khám chữa bệnh chất lượng cao, chỉ chuyên môn thôi không đủ mà còn liên quan đến cả hệ thống. Đó là các bệnh viện Việt Nam chủ yếu được xây dựng theo mô hình bệnh viện công, vì thế luôn trong tình trạng quá tải. Đây chính là nguyên nhân khiến cho chất lượng dịch vụ kém đi - một bác sỹ bình quân khám khoảng 20 bệnh nhân/ngày chắc chắn sẽ đủ “minh mẫn” hơn khi con số đó là 200. “Chất lượng hay không chính là ở chỗ đó”. Mặt khác, chi phí y tế cho một đầu người tại Việt Nam vẫn đang ở mức quá thấp, 6 USD/người (tại Singapore, con số này là 2.000 USD, Mỹ trên 6.000 USD). Với chi phí đó, dịch vụ y tế nói chung, trang thiết bị, cơ sở vật chất nói riêng không thể đáp ứng được nhu cầu của những người có nhiều tiền. Để khắc phục tình trạng này, có lẽ chỉ có thể bằng cách chuyển đổi mô hình các bệnh viện công sang viện tư, đặt kinh doanh, lợi nhuận lên hàng đầu. Đến lúc đó, phần lớn người dân có bệnh lại không dám đến bệnh viện vì không có khả năng chi trả. 1.3.1 Phát triển dịch vụ y tế trên địa bàn TP Hồ Chí Minh Với quyết tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thành phố Hồ chí minh trong những năm qua luôn duy trì khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 12%/ năm. Để đạt được mức tăng trưởng như vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra một số nhiệm vụ cụ thể về phát triển các dịch vụ y tế. Đó là xây dựng 5 khu điều trị kỹ thuật cao, gồm 1 khu trung tâm là các bệnh viện hiện nay, và 4 khu cửa ngõ vào TP: 1- Bình Chánh, Bình Tân, quận 8; 2- Thủ Đức, quận 9, quận 2; 3 - Củ Chi, Hóc Môn, quận 12; 4- Cần Giờ, Nhà Bè, quận 7. Thành lập công ty mẹ-con ngành dược. Xây dựng khu xét nghiệm kỹ thuật cao, trung y học cổ truyền TP hòa nhập với các quốc gia khu vực và thế giới. Xây dựng viện trường ở Củ Chi (quy mô 100 ha, vốn đầu tư khoảng 85 triệu euro) phục vụ lâu dài cho công tác đào tạo cán bộ y tế của TP. Xác định nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng tăng, nhất là các dịch vụ y tế chất lượng cao, TP.HCM đã bắt đầu từ những thế mạnh sẵn có là phụ sản, hỗ trợ sinh sản, thẩm mỹ, nha khoa sau đó mở rộng sang một số lĩnh vực khác. Để phát triển chất lượng dịch vụ y tế trên địa bàn, TP.HCM đang tập trung đầu tư vào một số cơ sở nhất định, chuẩn hoá cơ sở vật chất, quản lý và nhân sự để đạt chuẩn quốc tế bằng việc thực hiện các chính sách: - Thu hút đầu tư từ mội nguồn lực trong xã hội nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hoá y tế. - Về nhân lực: Cơ sở y tế được phép mời chuyên gia về hội chẩn, mời chuyên gia của đơn vị khác, chuyên gia đến khám chữa bệnh theo yêu cầu của bệnh viện, mổ các trường hợp khó.. tại đơn vị mình; - Cho phép tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ theo hợp đồng và được thanh toán từ NSNN, như dịch vụ vệ sinh, giặt là, duy tu, bảo dưỡng thiết bị máy móc công nghệ cao, cung cấp thực phẩm... để ban lãnh đạo bệnh viện tập chung vào vấn đề quan trọng hơn của các dịch vụ y tế. - Cho phép cùng tổ chức một bộ phận cung cấp dịch vụ y tế cùng hạch toán trong cơ sở y tế công. - Bộ phận khám chữa bệnh theo yêu cầu của bệnh viện công được phép giao cho một tổ chức y tế tư nhân phụ trách. - Liên doanh góp vốn mở một khoa KCB theo yêu cầu với nước ngoài. - Dịch vụ cung cấp thuốc ngoài danh mục thuốc thiết yếu trong bệnh viện. Công tư phối hợp trong tạo nguồn tài chính cho các hoạt động CSSK. - Tư nhân bỏ vốn mua thiết bị y tế đặt tại các cơ sở y tế công, tự lo cả kinh phí bảo dưỡng, được thu hồi vốn thông qua việc thu phí dịch vụ. Bệnh viện có thiết bị phục vụ khám chữa bệnh, trả tiền sử dụng máy thông qua cơ chế trích một tỷ lệ cố định trên số phí dịch vụ thu được. - Công tư góp vốn bằng hình thức cổ phần để xây dựng bộ phận bán công trong cơ sở y tế công hoặc hoạt động độc lập như một vệ tinh của cơ sở công lập đó. - Tư nhân cho cơ sở y tế công lập vay tiền để đầu tư mua sắm trang thiết bị, nhà, cơ sở hạ tầng. Đơn vị vay trả dần bằng ngân sách hàng năm hoặc trả bằng nguồn viện phí thu được từ hoạt động chuyên môn Chính cơ chế này đã và đang thúc đẩy sự phát triển dịch vụ y tế của thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm cung cấp dịch vụ y tế lớn nhất trong cả nước. Đánh dấu sự chuyển mình của ngành y tế Việt Nam phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Ví dụ cụ thể là: Tại TP.HCM có hai trung tâm cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao đó là Trung tâm Medic Bình Tân, bệnh viện Chợ Rẫy đang được đầu tư dự án PET-CT có chức năng sản xuất chất đồng vị phóng xạ dùng chẩn đoán ung thư. Chi phí cho hệ thống trị giá 5 triệu USD. So với những kỹ thuật chẩn đoán khác, PET-CT có độ chính xác cao hơn, lên đến 93% trong xác định tính chất lành hay ác của khối u phổi, 92% trong phát hiện di căn gan. Trong bệnh lý thần kinh trung ương, PET-CT đánh giá được những tổn thương u còn sót lại sau điều trị bằng tia xạ hoặc hoá chất. Ngoài ra, PET-CT đánh giá tốt tiến triển điều trị bệnh mạch vành, xác định vùng cơ tim bị tổn thương có thể điều trị được hay không. Hiện ở khu vực ASEAN, chỉ Singapore và Philippines có PET-CT. Như thế Việt Nam là nước thứ ba trong khu vực trang bị được kỹ thuật tiên tiến này. Chi phí chụp PET-CT tại Singapore khoảng 3.500 USD, nếu tính cả chi phí đi lại cũng mất 5.000 USD. Trong khi với PET-CT trong nước, người dân chỉ mất khoảng 1.000 USD. Dịch vụ y tế chất lượng cao này sẽ được TPHCM đưa vào danh mục kỹ thuật dùng trong BHYT nên nó đáp ứng không chỉ người có tiền, mà người nghèo cũng có thể tiếp cận được với kỹ thuật cao này. Trong kế hoach lâu dài chủ trương của ngành y tế TP.HCM, một số bệnh viện như: Medic Bình Tân, bệnh viện Chợ rẫy, bệnh viện Tù Dũ... đã được đầu tư để đạt chuẩn quốc tế sẽ là nơi tiếp nhận các bác sĩ nước ngoài thực tập và điều trị bệnh nhân nước ngoài, biến y tế trở thành một dịch vụ kinh tế thu ngoại tệ. Đây là mô hình mà các quốc gia Ấn Độ, Singapore, Thái Lan đã áp dụng thành công. 1.5.2 Phát triển dịch vụ y tế ở Singapore Có người nói, y học Singapore với tay sang những nước chung quanh vì người dân của họ được chăm sóc y tế quá tốt, nên không còn mấy người ốm đau, bệnh tật. Vì thế, để tồn tại, các cơ sở y tế nước này buộc phải đi kiếm bệnh nhân từ bên ngoài. Cách lý giải đó phần nào đúng, nhưng đúng hơn là trước sau như một người Singapore vẫn trung thành với chiến lược phát triển đất nước bằng việc cung cấp dịch vụ chất lượng cao, trong đó y tế là mảnh đất phì nhiêu. Là một quốc đảo nhỏ bé với bốn triệu dân, không có tài nguyên thiên nhiên, đến nước sinh hoạt còn phải nhập khẩu, Singapore chỉ dựa vào nguồn tài nguyên duy nhất là con người. Từ lâu Singapore đã xác định muốn tồn tại phát triển và phồn thịnh, họ phải tập trung mạnh vào công nghệ và dịch vụ chất lượng cao trong đó công nghệ sinh y học và dịch vụ y tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế từ nay và trong tương lai, công nghệ sinh y học và dịch vụ y tế được coi là một trong những trụ cột chính của nền kinh tế Singapore. Nói đi đôi với làm, trong những năm vừa qua, chính phủ Singapore đã đầu tư rất mạnh cho công nghệ sinh y học, tăng cường hơn nữa việc “nhập khẩu chất xám” đầu tư cơ sở hạ tầng và đào tạo, quyết tâm biến Singapore thành trung tâm hàng đầu thế giới về công nghệ sinh y học. Dịch vụ y tế cũng được đẩy mạnh tạo điều kiện tốt hơn nữa cho bệnh nhân nước ngoài. Trong rất nhiều hội nghị, các vị bộ trưởng trong chính phủ Singapore luôn nhắc đến cụm từ: “bán kính 5 giờ bay” (5 hour flight radius) ý nói chỉ trong 5 giờ bay Singapore đã có một thị trường khổng lồ với hơn 2,7 tỷ dân trong đó có 560 triệu dân ASEAN, và hơn hai tỷ dân Ấn Độ và Trung Quốc với tiềm năng kinh tế lớn. Và đương nhiên Việt Nam được coi là một điểm sáng trong “bán kính 5 giờ” này. Các tập đoàn y tế nhà nước và tư nhân của Singapore đã mở văn phòng đại diện ở khắp mọi nơi trên thế giới nhưng thị trường trọng điểm của họ vẫn là các nước ASEAN. Ở Việt Nam có các văn phòng như: Singhealth, NHG, Parkway, Raffles. Tạo thuận lợi cho người bệnh nước ngoài, tập đoàn Raffles mở cả văn phòng tại sân bay quốc tế Changi, để đón tiếp bệnh nhân sau khi hạ cánh. Tại các bệnh viện Singapore, người ta thấy chung một công thức, đó là uy tín, trọng thị và rõ ràng. Các chuyên gia tâm lý đã khẳng định, yếu tố tâm lý tác động rất nhiều đến sự chuyển biến của bệnh tật. Trong quá trình chữa bệnh, điều trị về tinh thần là vô cùng quan trọng. Có những người mắc bệnh nan y như ung thư, nếu được sống trong một môi trường thân thiện, thoải mái, tâm lý tốt, có thể kéo dài cuộc sống thêm vài năm, thậm chí là vài chục năm. Chính điều này đã được các bác sỹ tại Singapore áp dụng rất thành công và cũng chính như vậy đã làm cho đất nước Sigapore trở thành nước xuất khẩu dịch vụ y tế đứng đầu ASEAN. “Bệnh viện ở Singapore lộng lẫy như khách sạn, nó giống chỗ nghỉ ngơi du lịch hơn là nơi chữa bệnh. Bác sỹ nơi đây thân thiện như người trong gia đình, và đặc biệt là khôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS11.docx
Tài liệu liên quan