Năm 2000 thị trường chứng khoán chính thức đã được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2003 những quy định liên quan đến sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đã được nới lỏng. Hiện tại Việt Nam chỉ có hai trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh và sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Thị trường này đang trong giai đoạn hình thành phát triển mang tính chất quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường giao dịch tiền mặt chiếm phần lớn . Mặc dù ở nước ta thị trường tài chính đã hình thành nhưng kém phát triển với nhiều hạn chế:
Số lượng hàng hóa trên thị trường tiền tệ tài chính còn ít, số cổ phiếu bán trên thị trường quá nhỏ bé thương phiếu hầu như chưa lưu hành, trái phiếu các công ty chưa được phát thành chỉ có trái phiếu kho bạc nhà nước được phát hành rộng rãi.
- Cơ cấu các nguồn vốn chưa hợp lý, phần lớn huy động đều là ngắn hạn trong khi nhu cầu vay vốn lại là dài hạn và trung hạn.
- Các chủ thể kinh doanh tiền tệ tài chính cho đến nay chủ yếu vẫn là các ngân hàng quốc doanh tiền tệ tài, với nguồn vốn tự có quá nhỏ bé, các tổ chức phi ngân hàng còn nhỏ bé hơn, các tổ chức ngoài quốc doanh không nhiều, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không nhiều các khách hàng vay tiền lớn nhất là nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhà nước với nhiều ưu đãi, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không dễ tiếp cận nguồn vốn này.
13 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1019 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển đồng bộ các loại thị trường. Lý luận - Thực trạng-giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Phần I: Phần mở đầu 2
Phần II: Nội dung
Lý luận về phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam 3
Sự cần thiết phải phát triển đồng bộ.........................3
Các loại thị trường và mối quan hệ .....3
Nội dung sự phát triển đồng bộ ..4
Thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường 5
Quan điểm của Đảng 5
Thực trạng phát triển .. 5
Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường . 8
Giải pháp chung ..9
Giải pháp cho từng loại thị trường . 9
Phần III : Kết luận 10
Phần I : Mở đầu
Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vào năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thì phát triển đồng bộ các loại thị trường được xác định là một trong những nội dung quan trọng nhất. Báo cáo chính trị của ban chấp hành TƯ Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội IX đã xác định hình thành đồng bộ và tiếp tục hoàn thiện các loại thị trường ở Việt Nam : thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở nước ta giai đoạn 2001-2005. Đến đại hội X Đảng ta tiếp tục xác định: phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
Trong quá trình đổi mới và phát triển đó, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên do cơ sở vật chất,nguồn lực còn yếu kém, nên chúng ta còn nhiều hạn chế. Đặc biệt các lọại thị trường phát triển ở dạng sơ khai, chưa động bộ. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu, lý luận thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam để có được những hiểu biết nhằm thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Trên tinh thần đó, với mỗi sinh viên kinh tế việc nghiên cứu đề tài “ phát triển đồng bộ các loại thị trường. Lý luận-thực trạng-giải pháp ” là hết sức cần thiết, cấp bách .
Phần II : Nội dung
I) Cơ sở lý luận
1. Sự cần thiết phải phát triển đồng bộ các loại thị trường
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa nó vừa là kết quả sản xuất hàng hóa vừa là điều kiện của sản xuất hàng hóa. Khi sản xuất xã hội càng phát triển thì đa số nhu cầu của con người được thỏa mãn thông qua thị trường. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa hai nhóm người là người mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ và người bán và người cung cấp hàng hóa cho dịch vụ tiêu dùng. Cũng thông qua thị trường để giải quyết mâu thuẫn giữa người mua và người bán thực hiện cân đối giữa cung và cầu như vậy phát triển thị trường là điều kiện của sự phồn thịnh kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bố vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường chúng ta phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Việt Nam đang trong quá trình mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Để phù hợp với môi trường quốc tế, chúng ta phải phát triển các loại thị trường để đáp ứng yêu cầu giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong môi trường quốc tế hóa hiện nay, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà cả thị trường ngoài nước, tranh thủ cơ hội quốc tế để phát triển.
Như vậy cả điều kiện chủ quan và khách quan trong nước và ngoài nước trước mắt và lâu dài đòi hỏi phát triển đồng bộ các loại thị trường.
2.Các loại thị trường mối quan hệ giữa các loai thị trường.
Hệ thống thị trường với đầy đủ các loại hình: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ. Các loại thị trường này vừa độc lập lại vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi loại thị trường đều có cung- cầu ,giá cả người mua, người bán đặc thù, có quy luật vận hành đặc trưng, có khuynh hướng phát triển khác nhau.
Chúng ta cần nhận thức một thực tế là vai trò của các thị trường giữ vững định hướng XHCN. Vì xét cho cùng, định hướng XHCN phải ở trong trái tim, khối óc của đại đa số nhân dân lao động. Một thị trường sức lao động được thể chế hóa càng đồng bộ với nền kinh tế bao nhiêu, càng có thể phát huy sớm bấy nhiêu tiềm năng lợi thế của một đất nước có nguồn lao động dồi dào với tố chất sáng tạo cao. Sự không hoàn thiện trong quá trình thể chế hóa thị trường sức lao động sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với kinh tế và thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ mà còn gây ảnh hưởng về mặt chính trị- xã hội. Đối với thị trường bất động sản, sự thiếu vắng các quy định của nó làm thiệt hại về kinh tế của nhà nước, sự kém phát triển của thị trường chứng khoán ảnh hưởng đến huy động vốn của nền kinh tế. Như vậy các thị trường có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Các loại thị trường có quan hệ lệ thuộc và tác động biện chứng lẫn nhau là do quá trình trao đổi hoạt động và phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các loại thị trường luôn có xu hướng phá vỡ thế cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ các loại thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và cân bằng với nhau. Vai trò tạo điều kiện và chủ động điều tiết của nhà nước để tạo sự đồng bộ ăn khớp và điều tiết của nhà nước để tạo sự ăn khớp và hợp lực đồng bộ của hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng.
3. Nội dung sự phát triển đồng bộ các lọai thị trường.
Đồng bộ có nghĩa là có sự ăn khớp giữa các khâu, giữa các bộ phận tạo nên sự hoat động nhịp nhàng của chỉnh thể. Vậy sự phát triển đồng bộ các loại các lọai thị trường về loại hình ,trình độ phát triển, quy mô tạo nên sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân:
Thứ nhất ,sự đồng bộ của thị trường trước hết là hệ thống thị trường với đầy đủ các loại hình :thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ.
Thứ hai, sự đồng bộ các loại trường là sự ăn khớp về cấp độ hay mức độ phát triển thị trường. Phân chia theo lịch sử có 3 cấp độ phát triển : cấp độ thị trường cổ điển, cấp độ thị trường phát triển,cấp độ thị trường hiện đại.
Thứ ba, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp nhịp nhàng cân đối tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Tương quan giữa các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lí thì hoạt động mới có hiệu quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
Sự ăn khớp nhịp nhàng cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời sống. Tính nhịp nhàng cân đối về mặt lượng là tương quan tỉ lệ hợp lí giữa hàng và tiền, cung cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối thể hiện ở sự khớp nhau về tiến độ thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành phát triển thị trường “ đầu vào”, “đầu ra” của quá trình sản xuất.
Sự ra đời của các loại hình thị trường và các loại đồng bộ của chúng do trình độ và yêu cầu của quá trình sản xuất xã hội quyết định. Nói cách khác, nó mang tính chất khách quan.
Thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam
1. Quan điểm của đảng về phát triển đồng bộ các loại thị trường
Nghị quyết đại hội IX của đảng đã khẳng định “ thúc đẩy sự hình thành và hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội XHCN đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường hàng hóa và dịch vụ,thị trường lao động, thị trường chứng khóan, thị trương bất động sản, thị trường khoa học công nghệ”. Đến đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển đồng bộ các loại thị trường theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Sự phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả năm loại thị trường cơ bản ấy là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Thực trạng phát triển
2.1 -Thực trạng chung cho từng loại thị trường
2.1.1- Thị trường hàng hóa và dịch vụ
ở nước ta thị trường hàng hóa đã tương đối phát triển – giá cả hàng hóa do thị trường định đoạt lưu thông hàng hóa đã được tự do trên phạm vi cả nước, tất cả thành phần kinh tế đã được kinh doanh hàng hóa.
Tuy nhiên thị trường hàng hóa còn có một số hạn chế năng lực cạnh tranh còn thấp từ năm 1997 đến nay Việt Nam luôn xếp hạng một trong 15 nước có năng lực cạnh tranh thấp nhất . Một số thực trạng nữa là nhiều thành phần kinh tế quan trọng hiện do các công ty nhà nước độc quyền sản xuất và kinh doanh. Tình trạng độc quyền kinh doanh của các tổng công ty hiện đang làm biến dạng thị trường hàng hóa, hạn chế cạnh tranh công bằng , tăng giá cả tình trạng buông lậu hàng hóa đang là quốc nạn do thuế nhập khẩu cao, cũng làm biến dạng thị trường hàng hóa, tình trạng hàng nhái hàng giả chưa được kiểm soát, thương hiệu nhãn mác chưa coi trọng, các loại chợ bán buôn bán lẻ, các kho hàng, bến bãi chưa phát triển không đáp ứng nhu cầu thị trường, thông tin quảng cáo, tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi rất kém phát triển, tệ mãi lộ trên khắp các tuyến vận tải đường bộ đường sông đang làm tăng chi phí lưu thông hàng hóa một cách phi lí.
Thị trường dịch vụ ở nước ta tuy chưa phát triển nhưng cũng chiếm tới xấp xỉ 40% tổng GDP. Những dịch vụ đã phát triển ở nước ta là vận tải liên lạc viễn thông thương mại, du lịch, bảo hiểm , theo phân loại của WTO hiện có 155 ngành phân ngành dịch vụ trong đó nước ta mới chỉ có khoẳng trên 50%, nghĩa là hiện còn nhiều lĩnh vực dịch vụ nước ta chưa có, hay mới có ở mức độ chưa đáng kể. Những khiếm khuyết của thị trường dịch vụ ở nước ta hiện còn lớn hơn thị trường hàng hóa, tình trạng độc quyền kinh doanh của các công ty nhà nước còn rất phổ biến trong các lĩnh vực liên lạc, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm xuất nhập khẩu, du lịch nước ngoài xuất khẩu lao động những lĩnh vực dich vụ thiết yếu do sự phát triển kinh tế đất nước vẫn còn yếu kém như tư vấn dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng bảo hiểm, tình trạng đóng cửa và bảo hộ cao rất phổ biến trong lĩnh vực dịch vụ, nhiều lĩnh vực không được khuyến khích và phải chịu mức thuế cao.
Thị trường tài chính
Năm 2000 thị trường chứng khoán chính thức đã được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2003 những quy định liên quan đến sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đã được nới lỏng. Hiện tại Việt Nam chỉ có hai trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh và sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Thị trường này đang trong giai đoạn hình thành phát triển mang tính chất quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường giao dịch tiền mặt chiếm phần lớn . Mặc dù ở nước ta thị trường tài chính đã hình thành nhưng kém phát triển với nhiều hạn chế:
Số lượng hàng hóa trên thị trường tiền tệ tài chính còn ít, số cổ phiếu bán trên thị trường quá nhỏ bé thương phiếu hầu như chưa lưu hành, trái phiếu các công ty chưa được phát thành chỉ có trái phiếu kho bạc nhà nước được phát hành rộng rãi.
Cơ cấu các nguồn vốn chưa hợp lý, phần lớn huy động đều là ngắn hạn trong khi nhu cầu vay vốn lại là dài hạn và trung hạn.
Các chủ thể kinh doanh tiền tệ tài chính cho đến nay chủ yếu vẫn là các ngân hàng quốc doanh tiền tệ tài, với nguồn vốn tự có quá nhỏ bé, các tổ chức phi ngân hàng còn nhỏ bé hơn, các tổ chức ngoài quốc doanh không nhiều, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không nhiều các khách hàng vay tiền lớn nhất là nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhà nước với nhiều ưu đãi, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không dễ tiếp cận nguồn vốn này.
Thị trường chứng khoán mới ra đời còn rất nhỏ bé và yếu đuối không đủ sức huy động và phân bố vốn.
Các khoản nợ khó đòi, đặc biệt là những nguồn gốc sinh ra những khoản nợ này chậm được khắc phục do vậy đã làm tăng tốc độ rủi ro của thị trường tiền tệ và tài chính.
Do thị trường bất động sản hoạt động kém hiệu quả nên tài chính tiền tệ đã không có có tài sản thế chấp phần lớn được vay theo tín chấp và sự bảo lãnh của chính quyền các cấp đây cũng là 2 nguyên nhân làm tăng độ rủi ro của tín dụng.
Các công ty tài chính hiện vốn chỉ là một số công ty nhà nước với ưu tiên hoạt động kiếm vốn cho tổng công ty trong khi ở các nền kinh tế hiện đại các công ty tài chính là những tổ chức phi ngân hàng quan trọng nhất
Các quỹ đầu tư rủi ro hầu như chưa hoạt động ở Việt Nam, trong khi các hoạt động kinh doanh lại gặp nhiều rủi ro ngày càng nhiều đặc biệt là kinh doanh công nghệ cao.
Tình trạng đóng cửa bảo hộ thuế quan trong thị trường tiền tệ tài chính còn khá phổ biến, các ngân hàng và tổ chức bảo hiểm nước ngoài hoạt động hạn chế, các công ty tài chính nước ngoài cũng bị hạn chế.
2.2.3- Thị trường bất động sản
Theo luật đất đai năm 2003, đất đai được coi là một loại hàng hóa đặc biệt ,các phiên đấu giá quyền sử dụng đất được tổ chức ở Hà Nội, tp Hồ Chí Minh và Đà Nẵng với mức giá bước đầu đã được phản ánh sát hơn với thị trường. Thị trường bất động sản thực sự hoạt động chỉ mới ở khu vực đất thổ cư, chủ yếu là ở các đô thị với rất nhiều hạn chế, phần lớn đất đai chưa có giấy tờ hợp lý, thủ tục chuyển nhượng phiền hà, các loại phí chuyển nhượng cao thị trường ngầm vẫn còn nhiều đất sống
Thị trường bất đất nông nghiệp rất khó phát triển vì thời hạn giao đất ngắn, quy mô được phép tích tụ đất nhỏ không có quyền chuyển mục đích sử dụng đất thị trường đất trong các khu công nghiệp hầu hết các công ty nhà nước kinh doanh hoặc liên minh với nước ngoài chỉ được phép cho thuê đất theo thời hạn và giá cả do nhà nước quy định. Do đó tính thị trường ở đây rất hạn chế.
Thị trường bất động sản thực sự chính thức có thể nói là hình thành còn quá sơ khai nhưng không thể bán nhà ở cũng gặp trở ngại nhưng không thể bán nhà hợp pháp trên một mảnh đất chưa có giấy xác nhận quyền sử dụng hợp pháp. Các hình kinh doanh bất động sản cũng không dám kinh doanh khi giấy tờ chưa hợp pháp.
Công tác quy hoạch đô thị đường sá các khu công nghiệp chưa được hình thành, hay thay đổi cùng với thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng còn những bất cập gây ra những ách tắc làm nản lòng cho các nhà đầu tư và kinh doanh bất động sản.
Sự kém phát triển hiện nay của thị trường bất động sản đã gây ra những thiệt hại to lớn: không có tài sản thế chấp để thị trường tài chính hoạt động. Trước đây giá đất nhà nước quy định ở mức thấp, không sát với giá thị trường làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Từ tháng 7-2004 luật đất đai mới có hiệu lực thì giá nhà nước định lại cao thủ tục giao dịch phức tạp thuế, chuyển nhượng không rõ ràng nên thị trường đóng băng, các nhà kinh doanh có tâm lý chờ đợi. Không có thị trường đất nông nghiệp thì sản xuất nông nghiệp vẫn manh mún, có tính tự cấp tự túc, lạc hậu khó có thể tập trung chuyên canh hiện đại hóa được, khó có thẻ phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Không có thị trường đất công nghiệp thực sự thì rất khó có địa bàn cho phát triển công nghiệp.
2.2.4- Thị trường sức lao động
Đã hình thành chủ yếu trong khu vực tư nhân với tiền lương đã có tính thị trường, lao động di chuyển tự do trong nước. Bộ luật lao động được thông qua năm 2003 đã khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và tuyển thêm nhiều lao động .
Tuy nhiên thị trường sức lao động đang còn diễn ra nhứng hạn chế :
Thứ nhất: mất cân đối cung cầu, tình trạng dư thừa lao động không được đào tạo là một sức ép. Cơ cấu lao động chưa hợp lý, thiếu các nhà quản lý kinh doanh, các chủ doanh nghiệp tài ba, thiếu công nhân lành nghề , thiếu các chuyên gia kĩ thuật cao. Nhưng ta chưa có chính sách khuyến khích thu hút những lao động này từ nước ngoài.
Thứ hai: trong khu vực nhà nước, tiền lương được định thấp, chưa mang tính thị trường, sự di chuyển lao động gặp nhiều khó khăn, phức tạp; ở khu vực nông thôn còn tình trạng lao động dư thừa không có việc làm tuy rằng xu hướng di cư vào thành phố ngày càng tăng nhưng rất tự phát thiếu tổ chức. Tỉ lệ người tham gia vào thị trường thấp chỉ mới khoảng 17%. Khu vực nông thôn chiếm hơn 60% lực lượng lao động cả nước nhưng mới chỉ có khoảng 4% lao động tham gia vào thị trường.
Thứ ba: các cơ sở đào tạo nghề kém phát triển năng lực cạnh tranh với thị trường lao động khu vực quốc tế còn rất thấp do chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam thấp.
Thị trường khoa học công nghệ
Mặc dù đã xuất hiện một số hình thức giao dịch và thương mại hóa hoạt động khoa học công nghệ nhưng trên thực tế ở Việt Nam hiện tại thị trường này vẫn chưa được hình thành cụ thể, chưa thiết lập được quan hệ cung cầu với sản phẩm khoa học công nghệ. Vì vậy chưa hội nhập vào thị trường khoa học -công nghệ thế giới. Hàng hóa như các bằng phát minh sáng chế công nghệ vẫn còn hạn chế. Mặc dù nhà nước đã ban hành quyền sở hữu công nghiệp nhưng khả năng thực thi yếu những điều kiện cạnh tranh còn méo mó.
Yếu kém của thị trường khoa học và công nghệ làm hạn chế sự sáng tạo của các cơ sở nghiên cứu và triển khai gây cản trở cho sự tiếp nhận chuyển giao công nghệ, do đó hạn chế đầu tư nước ngoài.
III) Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam
Giải pháp chung
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hệ thống kinh tế thị trường tạo lập đồng bộ và vận hành thông qua suốt các loại thị trường để các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của thị trường, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Hình thành đồng bộ cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch. Đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển các loại thị trường.
Đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển các loại thị trường.
Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lí nhà kinh doanh, nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước. Thực hiện đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
2. Các giải pháp cho từng loại thị trường
2.1- Thị trường hàng hóa và dịch vụ
Phát triển hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng và sức mua của thị trường trong nước cả ở thành thị và nông thôn, mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài.
Thu hẹp những lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí giá.
Phát triển mạnh thương mại trong nước tăng nhanh xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với các kết song phương , đa phương của nước ta và theo thông lệ quốc tế.
Thúc đẩy cạnh tranh kiểm soát độc quyền bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, tôn trọng quyền định giá và cạnh tranh về giá cả của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật
Thực hiện quản lí nhà nước về giá với số hàng hóa dịch vụ độc quyền với cơ chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập quốc tế.
Thị trường tài chính
Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn tiền tệ theo hướng đồng bộ và có cơ cấu hoàn chỉnh tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động, vận hành an toàn, được quản lí giám sát hiệu quả. Khuyến khích mở rộng các dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính. Bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia thị trường.
Phát triển thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư, đồng thời thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng của nền kinh tế.
Phát triển thị trường tiền tệ, hiện đại hóa, đa dạng hóa các hình thức hoạt động, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao sức cạnh tranh, năng lực của các ngân hàng, xóa bỏ phân biệt đối xử trong tiếp cận nguồn vốn. Hoàn thiện các công cụ tiền tệ và thị trường tiền tệ.
2.3- Thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất.
phát triển thị trường trên cơ sở thực hiện luật đất đai, luật xây dựng, luật nhà ở và luật kinh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cho quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa một cách thuận lợi, đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển.
Thực hiện chế độ mọi doanh nghiệp đều mua hoặc thuê đất khi có nhu cầu sử dụng. Nâng cao tính công khai minh bạch trong quy hoạch sử dụng đất và bảo đảm tính pháp lí của quy hoạch khi được thông qua.
Tăng cường các biện pháp chống đầu cơ hạn chế việc giao dịch “ngầm”. Xây dựng hệ thống đăng kí thông tin bất động sản, phát triển nhanh dịch vụ bất động sản.
2.4 Thị trường sức lao động
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môI trường thông suốt để phát triển thị trường này, gắn kết cung cầu lao động.
Đa dạng hóa hình thức giao dịch việc làm, bảo đảm quyền của người lao động lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãI chế độ hợp đồng lao động, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động. Nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn, thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý của nhà nước với hoạt động này.
2.5 Thị trường khoa học- công nghệ
Thực hiện tốt luật sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. đổi mới quản lý nhà nước đối với thị trường này, khuyến khích hoạt động khoa học công nghệ theo cơ chế thị trường, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo.
Khuyến khích các hoạt động tư vấn dịch vụ, ứng dụng công nghệ mới và chuyển giao công nghệ tạo môi trường mua bàn thuận lợi các sản phẩm công nghệ. Có chính sách nhập khẩu lao động chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ quản lí.
Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ quan các viên nghiên cứu theo định hướng thị trường.
Phát triền mạnh hệ thống các tổ chức dịch vụ thông tin mô giới công nghệ. Hoàn thiện văn bản pháp quy liên quan đến các giáo dịch, hợp đồng mua bán chuyển giao công nghệ.
Phần III : Kết luận
Lý luận và thực tiễn đều khẳng đinh dưới CNXH nói chung và ở Việt Nam nói riêng phát triển đồng bộ các loại thị trường là một tất yếu khách quan. Nó là cơ sở cho sự phát triển kinh tế – xã hội, tiếp tục hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Phát triển đồng bộ các loại thị trường là một nội dung quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Do đó, phảI bám sát theo đường lối của Đảng và nhà nước, nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế, hệ thống pháp luật, công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, thực hiện mục tiêu của CNXH: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối với tương lai là một cử nhân kinh tế thì cần phảI hiểu biết lí luận, nắm bắt thực trạng phát triển kinh tế của đất nước để có thể góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.
Đó là những suy nghĩ nhận định của em trong quá trình tìm hiểu đề tài: “ phát triển đồng bộ các loại thị trường. Lý luận-thực trạng-giải pháp ”.
Do trình độ còn hạn chế, bài viết có thể có những thiếu sót, em mong cô góp ý. Em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mac- Lenin –Bộ giáo dục đào tạo – Nhà xuất bản chính trị quốc gia- 2001
Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia- năm 2001
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X- Nhà xuất bản chính trị quốc gia- năm 2006
Tạp chí kinh tế và phát triển số 3( 3- 2008) – Trần Việt Hưng
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1( 1-2008 ) – Trương Đông Lộc
Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế – Nguyễn Văn Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia- 2006
Tạp chí cộng sản số 782 ( 12-2007) – Nguyễn Khắc Thanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7371.doc