Đa dạng về di tích lịch sử và văn hoá
ẩm thực, nét đẹp thiên nhiên vùng sông
nước, biển đảo, có cả núi non hùng vĩ ở
một số khu vực, những vườn cây ăn trái
trĩu quả, ruộng lúa bạt ngàn, thuỷ sản,
hải sản phong phú, ĐBSCL thật sự hấp
dẫn đối với du khách trong và ngoài
nước. Phát triển du lịch theo hướng du
lịch xanh, du lịch bền vững sẽ góp phần
quan trọng cho phát triển kinh tế của
vùng. Đặc biệt loại hình du lịch gắn kết
sản xuất nông nghiệp, loại hình được
phát triển nhiều nơi trên thế giới rất hiệu
quả, là loại hình có triển vọng phát triển
rất tốt ở ĐBSCL. Tuy nhiên, sự phát
triển du lịch còn nhiều tự phát, chưa
được đầu tư đúng mức, chưa được tổ
chức đồng bộ và chuyên nghiệp, người
dân chưa được tập huấn để có ý thức tốt
trong cách cư xử, cho việc chuẩn bị
khuôn viên nhà vườn, vườn CAT, ao
nuôi theo kỹ thuật canh tác tiên tiến đạt
tiêu chuẩn GAP và tiêu chửn nông
nghiệp hữu cơ, thiếu chuẩn bị các đặc
sản địa phương, các sản phẩm đặc sắc
nhà làm Vì thế, rất cần sự tham gia tổ
chức của chính quyền địa phương với
chiến lược ngắn hạn và dài hạn liên kết
giữa các khu vực trong vùng, cùng với
các doanh nghiệp lữ hành và sự tham gia
của cộng đồng dân cư để tổ chức quảng
bá, xúc tiến du lịch vùng với nhiều điểm
đến du lịch thật hấp dẫn đối với du
khách trong và ngoài nước.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
46
PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Châu Phương Uyên*
Trường Đại học Cần Thơ
(Email: cpuyen@ctu.edu.vn)
Ngày nhận: 13/7/2018
Ngày phản biện: 29/8/2018
Ngày duyệt đăng: 18/9/2018
TÓM TẮT
Sự phát triển du lịch “xanh” bao gồm du lịch nông nghiệp theo hướng bền vững rất được
quan tâm và hiệu quả trên thế giới. Phát triển du lịch là một trong những thế mạnh của
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của
vùng qua đa dạng vùng sinh thái, đa dạng loại hình du lịch. Vấn đề đặt ra là sự khả thi của
phát triển du lịch nông nghiệp ở ĐBSCL như thế nào? Hiện nay đã có một số mô hình tự
phát của du lịch miệt vườn và du lịch nông nghiệp. Nguồn lợi thủy sản và sản phẩm nông
nghiệp dồi dào, ẩm thực địa phương phong phú là thế mạnh và rất khả thi cho sự phát triển
du lịch nông nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cho mô hình du lịch này do thiếu
sự đầu tư, thiếu sự tổ chức đồng bộ và chuyên nghiệp, thiếu sản phẩm sạch, thiếu đặc sản
địa phương. Vì thế, rất cần sự hỗ trợ, tổ chức của chính quyền địa phương với chiến lược
phát triển du lịch liên kết giữa các khu vực, liên kết với doanh nghiệp lữ hành và sự tham
gia của cộng đồng dân cư để quảng bá; đồng thời, tổ chức nhiều điểm đến du lịch thật sự
hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Từ khoá: Du lịch ĐBSCL, du lịch nông nghiệp, nông nghiệp hữu cơ, thực phẩm địa
phương
Trích dẫn: Châu Phương Uyên, 2018. Phát triển du lịch nông nghiệp ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế, Trường Đại học
Tây Đô. 04: 46-56.
*Thạc sĩ Châu Phương Uyên, Trường Đại học Cần Thơ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
47
1. GIỚI THIỆU
Phát triển du lịch đang là thế mạnh
của nhiều vùng miền ở Việt Nam. Phát
triển du lịch tạo nhiều cơ hội việc làm,
góp phần sử dụng hiệu quả nguồn
lao động và nâng cao thu nhập cho
người dân; đẩy nhanh quá trình phát
triển cơ sở hạ tầng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích
cực; tạo động lực cho sự ra đời và phát
triển làng nghề cùng nhiều loại hình dịch
vụ (Nguyen Thanh Long & Thanh Lam
Nguyen, 2018; Khuong & Nguyen,
2017). Với tiềm năng đa dạng, phong
phú về tài nguyên du lịch, Việt Nam đã
và đang trở thành điểm du lịch đáng
quan tâm ở khu vực và thế giới với
nhiều loại hình du lịch hấp dẫn (Nguyễn
Quốc Nghi và ctv., 2012). Khách quốc tế
đến vùng đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đã tăng đáng kể trong những
năm gần đây. Báo cáo tổng kết của Hiệp
hội du lịch ĐBSCL cho thấy ngành du
lịch của vùng, trong năm 2017, có những
hoạt động du lịch khá khởi sắc. Toàn
vùng đã đón khoảng 22,4 triệu lượt
khách du lịch đến tham quan, nghỉ
dưỡng. Tổng doanh thu từ du lịch đạt
khoảng 11,3 nghìn tỷ đồng, cao nhất từ
trước tới nay, nhất là ở Phú Quốc, Kiên
Giang. Theo kế hoạch hoạt động trong
năm 2018, Hiệp hội du lịch ĐBSCL
khuyến khích tăng cường sản phẩm dịch
vụ du lịch giữa các địa phương trong
vùng; xây dựng sản phẩm du lịch đặc
thù, tạo ra sản phẩm mới có sức hấp dẫn
thu hút du khách trong và ngoài nước
theo hướng bền vững.
Phát triển bền vững trong lĩnh vực du
lịch được cụ thể hóa bằng mục tiêu “du
lịch xanh” với nhiều hình thức khác
nhau, trong đó có du lịch nông nghiệp,
một loại hình dựa vào tài nguyên nông
nghiệp để làm du lịch (Franch et al.,
2008). Hiện nay, sự liên kết giữa sản
xuất nông nghiệp, thủy sản và tuyến
điểm du lịch đang là xu hướng phát triển
mạnh ở các nước trên thế giới (Diaz et
al., 2016; Gabriel et al., 2017; Hardy
and Pearson, 2016 ) và ở một số vùng du
lịch trọng điểm của Việt Nam. Đồng
bằng sông Cửu Long là vùng có thế
mạnh về phát triển du lịch với đa dạng
vùng sinh thái, những địa danh nổi tiếng
với thắng cảnh xinh đẹp, núi non hùng
vĩ, những chùa chiền cổ kính, đền, miếu
nổi tiếng cho du lịch tâm linh (Phan Thị
Dang & Đào Ngọc Cảnh, 2014; Nguyen
Thanh Long &Thanh Lam Nguyen,
2018; Võ Hồng Tú & ctv., 2018). Tuy
nhiên, du lịch ĐBSCL phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng và vị thế của
vùng. Cụ thể như nhận thức xã hội về du
lịch còn hạn chế; nguồn nhân lực du lịch
còn thiếu và yếu; chất lượng sản phẩm
du lịch chưa cao, thiếu tính độc đáo
riêng của từng vùng; cơ sở hạ tầng phục
vụ du lịch còn yếu, chưa được đầu tư
đúng mức và đồng bộ; nhiều điểm du
lịch rất hấp dẫn nhưng cơ sở hạ tầng và
dịch vụ còn rất nghèo nàn; công tác
quảng bá, xúc tiến du lịch vùng ĐBSCL
chưa được chú trọng; thiếu sự liên kết,
hợp tác trong quản lý và hoạt động du
lịch giữa các tỉnh thành trong khu vực và
cả vùng với các tỉnh thành trong cả nước
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
48
(Tổng cục Du lịch Việt Nam, 2015;
Huỳnh Trường Huy & ctv., 2018).
Nhu cầu cao về sản phẩm du lịch đặc
thù, sản phẩm mới, có sức hấp dẫn thu
hút du khách đang là vấn đề đặt ra nhằm
đáp ứng sự phát triển nhanh của ngành
du lịch trong vùng. Với thế mạnh của
sông nước và sản xuất nông nghiệp, đa
dạng loại hình phát triển du lịch, đặc biệt
loại hình du lịch gắn kết sản xuất nông
nghiệp, du lịch sinh thái miệt vườn theo
hướng bền vững là loại hình du lịch cần
thiết được quan tâm. Trong đó, sản xuất
nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ là
nền tảng rất cần thiết được phát triển cho
sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp và
du lịch. Mục tiêu của bài viết nhằm tổng
hợp một số kết quả nghiên cứu trong và
ngoài nước về các loại hình du lịch và
hướng phát triển du lịch kết hợp sản xuất
nông nghiệp một cách hiệu quả ở
ĐBSCL.
2. MỘT SỐ LOẠI HÌNH DU LỊCH
ĐANG PHÁT TRIỂN Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. Du lịch di sản văn hoá và làng
nghề
Di sản văn hoá phi vật thể (DSVH) là
những sản phẩm tinh thần đáng quý của
cộng đồng, dân tộc được gìn giữ và lưu
tồn qua từng thời kỳ lịch sử. DSVH phi
vật thể bao gồm tác phẩm văn học, nghệ
thuật, diễn xướng dân gian, nếp sống, lễ
hội, nghề thủ công truyền thống, dược
học cổ truyền, văn hóa ẩm thực, trang
phục truyền thống dân tộc và những tri
thức dân gian khác. DSVH phi vật thể ở
ĐBSCL vô cùng phong phú và đa dạng,
đây chính là một phần quý giá trong
nguồn tài nguyên du lịch của vùng (Cao
Mỹ Khanh và Nguyễn Đức Toàn, 2016).
Hiện nay, ĐBSCL có khoảng 1.200 lễ
hội gồm: lễ hội dân gian chiếm số lượng
cao nhất, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử
cách mạng và các lễ hội khác (Nguyễn
Xuân Hồng, 2009). Kho tàng lễ hội
phong phú của các dân tộc ở ĐBSCL
không chỉ có giá trị như những DSVH
phi vật thể cần được bảo tồn để phục vụ
đời sống tinh thần, tâm linh của cộng
đồng mà còn là nguồn tài nguyên du lịch
nhân văn có thể khai thác thành những
sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo. Mặt
khác, phát triển du lịch cũng góp phần
quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy
giá trị của các di sản văn hoá thông qua
việc giới thiệu các di sản này đến khách
du lịch trong và ngoài nước (Đào Ngọc
Cảnh & Ông Thị Diệu Huyền, 2017) .
Đối với làng nghề truyền thống, du
lịch làng nghề (DLLN) là loại hình du
lịch diễn ra tại các làng nghề sản xuất
các sản phẩm truyền thống nhằm mục
đích tham quan, tìm hiểu các giá trị văn
hóa và quy trình sản xuất. Đây là loại
hình du lịch mang lợi ích về nhiều mặt
cho làng nghề như cải thiện thu nhập của
người dân, góp phần bảo tồn làng nghề
với các giá trị văn hóa đặc trưng của địa
phương. Do đó, DLLN được đánh giá là
một loại hình du lịch văn hóa trên cơ sở
tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa
(Nguyễn Thị Lan Hương, 2016).
ĐBSCL có tiềm năng du lịch làng
nghề với hàng trăm làng nghề truyền
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
49
thống hay những làng nghề mới hình
thành. Các làng nghề giúp tạo việc làm
cho lao động tại chỗ, đồng thời cũng là
tài nguyên để hình thành nên sản phẩm
du lịch. Một số làng nghề trở thành điểm
tham quan chính trong các chương trình
du lịch tại địa phương như làng nghề sản
xuất nước mắm truyền thống Phú Quốc,
làng hoa Sa Đéc, làng nghề bánh tráng
Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, làng
nghề sản xuất kẹo dừa, bánh cốm (Bến
Tre, Tiền Giang) là những điểm đến
hấp dẫn (Cao Mỹ Khanh & Nguyễn Đức
Toàn, 2016). Khách du lịch không chỉ
tham quan quy trình sản xuất, cảm nhận
các giá trị văn hóa, mua sắm các sản
phẩm đặc trưng nơi mình đến mà có thể
có cơ hội trải nghiệm việc tạo ra những
sản phẩm này. Mỗi làng nghề có một
loại sản phẩm riêng, đặc trưng cho mỗi
vùng. Một số tỉnh ở vùng ĐBSCL có thể
nắm bắt các cơ hội từ phát triển du lịch
địa phương, thu hút khách du lịch bằng
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Mặt
khác, khách du lịch có thể giúp quảng bá
cho làng nghề thủ công truyền thống
một cách hiệu quả. Ngoài sự đóng góp
về kinh tế, giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn. Là điểm đến trong các
chương trình du lịch, làng nghề truyền
thống ĐBSCL đang giúp gìn giữ và phát
huy những giá trị văn hóa - lịch sử về
đất nước và con người vùng miệt vườn
sông nước.
Trường hợp nghiên cứu ở làng nghề
dệt thổ cẩm Văn Giáo, là làng nghề nổi
tiếng ở huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Làng nghề có tiềm năng rất lớn trong
việc khai thác phát triển các loại hình và
du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, qua kết
quả nghiên cứu, thực trạng tham gia vào
hoạt động du lịch của các hộ dân ở làng
nghề còn rất hạn chế. Nguyên nhân
chính là do chưa nhận thức được lợi ích
của du lịch gắn kết với làng nghề; chưa
được sự quan tâm của chính quyền địa
phương trong việc phát triển du lịch ở
làng nghề truyền thống; thiếu quảng bá –
xúc tiến du lịch. Mặt khác, các công ty
lữ hành chưa chú trọng khai thác các
tour tuyến DLLN nhằm đa dạng chương
trình du lịch, đáp ứng nhu cầu của du
khách. Người dân mong muốn được hỗ
trợ về vốn; được đào tạo kiến thức và kỹ
năng chuyên môn về du lịch (Trương Trí
Thông & Lý Mỹ Tiên, 2018).
2.2. Du lịch miệt vườn
Miệt vườn ở ĐBSCL là những vùng
đất có vườn cây ăn trái ven sông Tiền,
sông Hậu. Phạm vi miệt vườn là khu vực
nằm dọc hai bờ sông Tiền và sông Hậu
xuất phát từ biên giới Việt Nam-
Campuchia chạy dọc xuống phần hạ lưu,
bao gồm một phần của 3 tỉnh Đồng
Tháp, An Giang và Bạc Liêu, gồm phần
lớn thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang,
Sóc Trăng, Tiền Giang và gần toàn bộ
các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre và Trà
Vinh (Sơn Nam, 2005). Ở miệt vườn,
người dân chuyên canh cây ăn quả, ươm
giống cây trồng, trồng hoa, kiểng,... khá
hấp dẫn đối với khách du lịch. Bên cạnh
đó, với cách thức sinh hoạt của cư dân
địa phương đã hình thành nên những giá
trị văn hóa bản địa đặc thù được gọi là
“văn minh miệt vườn” (Nguyễn Trọng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
50
Nhân và ctv., 2015). Văn hóa sông nước
và chợ nổi, tham quan cảnh quan, kế đến
là thưởng thức đặc sản là hoạt động
chính của du khách du lịch miệt vườn.
Mô hình homestay là dạng hình du lịch
hấp dẫn với du khách nước ngoài qua
việc tìm hiểu văn hoá địa phương, tham
gia các hoạt động ở nông thôn, thưởng
thức những món ăn dân dã. Miệt vườn
có phong cảnh đẹp, có không khí trong
lành và mát mẻ, và người dân thân thiện,
mến khách. Du lịch miệt vườn, du khách
có một số hoạt động và trải nghiệm gồm
tham quan cảnh quan, thưởng thức đặc
sản địa phương, dã ngoại, thưởng thức
đàn ca tài tử, tham quan làng nghề, tìm
hiểu đời sống và sinh hoạt của người dân
và một số hoạt động khác như tát mương
bắt cá, tham quan nhà cổ, đi xuồng tham
quan sông rạch, cùng nấu nướng những
món ăn dân dã. Theo khảo sát 130 du
khách của Nguyễn Trọng Nhân & ctv.,
(2015), được thể hiện trong Bảng 1, các
hoạt động chính của du khách là tham
quan cảnh quan và thưởng thức đặc sản
địa phương.
Bảng 1. Các hoạt động của du khách du lịch miệt vườn
(Nguyễn Trọng Nhân & ctv., 2015)
Hoạt động Tỉ lệ (%)
Thưởng thức đặc sản 60,6
Thưởng thức đờn ca tài tử 30,0
Tham quan làng nghề 26,9
Tham quan cảnh quan 81,9
Dã ngoại 38,1
Tìm hiểu đời sống người dân 14,4
Các dịch vụ cung cấp chính là cho du
khách thâm nhập vào đời sống thực của
người dân địa phương, để họ được sống
như một người dân nông thôn thực sự,
làm các công việc đồng áng, chăm sóc
vườn cây, thu hoạch sản phẩm, giao tiếp
với cư dân trong làng xóm, tham gia các
lễ hội... trong môi trường thiên nhiên
trong lành. Tuy nhiên, một nhà nông dân
riêng lẻ khó đón được nhiều khách nên
cần được tổ chức thành làng du lịch với
các tổ hợp tác có ban quản lý chung để
có thể tổ chức đón những đoàn khách
đông người (Đoàn Thị Mỹ Hạnh & Bùi
Thị Quỳnh Ngọc, 2012). Thông tin về
điểm đến du lịch qua người thân và bạn
bè là hình thức quảng bá du lịch miệt
vườn hữu hiệu nhất hiện nay. Có năm
yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển của loại hình du lịch này là: (1)
nguồn nhân lực và sự đa dạng của dịch
vụ như cửa hàng đồ lưu niệm, hoạt động
vui chơi giải, nhà hàng ăn uống; (2) giá
cả dịch vụ về tham quan, ăn uống, giải
trí, lưu trú; (3) cơ sở hạ tầng kỹ thuật về
mức độ rộng rãi, vệ sinh, phương tiện an
toàn; (4) an ninh trật tự như sự chèo kéo,
thách giá, ăn xin, trộm cắp và sự an toàn
của phương tiện vận chuyển; (5) cơ sở
lưu trú sạch sẽ, thoáng mát, đầy đủ tiện
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
51
nghi, tọa lạc ở vị trí thuận lợi, cảnh quan
đẹp, nhân viên cơ sở lưu trú thân thiện
và lịch sự (Nguyễn Trọng Nhân & ctv.,
2015).
2.3. Thực phẩm địa phương và du
lịch nông nghiệp
Những nghiên cứu trước đây cho thấy
thực phẩm và thức uống đặc sản của địa
phương là một trong các yếu tố quan
trọng đối với khách du lịch. Sản phẩm
thực phẩm và thức uống địa phương
phục vụ du khách có thể giúp cải thiện
về kinh tế, sự bền vững môi trường cho
cộng đồng nơi điểm đến thông qua việc
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững,
hỗ trợ thương hiệu sản phẩm của địa
phương, có lợi cho du khách đồng thời
tăng sự hấp dẫn đối với du khách (Clark
& Chabrel, 2007). Kết quả nghiên cứu
cho thấy thực phẩm địa phương giúp tạo
mối liên kết giữa du khách và người dân
địa phương, du khách có thể tham gia
sản xuất thực phẩm. Thực phẩm địa
phương đóng vai trò quan trọng giúp
phát triển du lịch bền vững ở địa phương
với ba điểm lợi: Gia tăng sự tiêu thụ sản
phẩm của du khách; Giảm ảnh hưởng
môi trường qua giảm sự thải khí do vận
chuyển thực phẩm đến nơi xa hơn; giúp
tăng sự cạnh tranh về điểm đến trong du
lịch trên toàn thế giới (Rebecca, 2009).
Do đó, phát triển thực phẩm địa phương
theo dạng đặc sản, đặc thù của vùng là
phương cách hữu hiệu tạo sự thành công
của điểm đến trong du lịch (Hashimoto
& Telfer, 2006; Woodland & Acott,
2007).
Vùng ĐBSCL có những điều kiện
lịch sử - xã hội, điều kiện địa lý - tự
nhiên là những yếu tố tác động sâu sắc
đến văn hoá ẩm thực của vùng. Ẩm thực
nơi đây vừa là truyền thống vừa có sự đa
dạng của văn hóa ẩm thực của tộc người
Kinh, Chăm, Khmer, và người Hoa tạo
nên nét đặc sắc so với ẩm thực của các
vùng miền khác. Mặt khác, những yếu tố
về lịch sử liên quan đến quá trình khai
khẩn miền đồng bằng sông nước với các
lớp cư dân đến từ Bắc Bộ và Trung Bộ,
tạo nên nền ẩm thực được cải tiến cho
phù hợp hơn, góp phần giúp cho ẩm thực
nơi đây càng thêm phong phú (Ngô Đức
Thịnh, 2010). Đặc biệt, với nguồn lợi
thủy sản dồi dào giúp người dân tạo nên
những sản phẩm chế biến đa dạng. Hằng
năm, mùa nước nổi tràn về, du khách lại
có dịp thưởng thức những món ăn đặc
sắc trong mùa nước nổi, tuy đơn giản
nhưng mang lại những nét thú vị của ẩm
thực trong vùng. Qua đó góp phần tăng
tính cạnh tranh của điểm đến du lịch.
Trong nghiên cứu các yếu tố xác định
năng lực cạnh tranh điểm đến, trường
hợp tại tỉnh Bạc Liêu cho thấy yếu tố có
nhiều dịch vụ ăn uống chất lượng, đa
dạng xung quanh các điểm đến (thuộc
nhân tố Dịch vụ du lịch) là ảnh hưởng
quan trọng nhất đến năng lực cạnh tranh
điểm đến du lịch tại Bạc Liêu. Các yếu
tố khác góp phần quan trọng bao gồm:
Cơ sở vật chất kỹ thuật, Tính hấp dẫn,
Hình ảnh điểm đến, Dịch vụ du lịch và
Quản lý điểm đến (Nguyễn Thanh Sang
& Nguyễn Phú Son, 2018). Các đặc sản
địa phương được gọi là đặc sản “nhà
làm” trong du lịch góp phần giúp cư dân
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
52
bản địa cải thiện đời sống kinh tế, đa
dạng hóa sản phẩm du lịch, đồng thời
giới thiệu được phong tục, tập quán và
lối sống sinh hoạt của địa phương đến
khách du lịch trong và ngoài nước. Thí
dụ các hộ sản xuất kinh doanh đặc sản
đã tạo được dấu ấn thương hiệu nhất
định trong tâm trí của du khách. Trường
hợp nghiên cứu tại Phong Điền, Cần
Thơ, có thể kể đến bánh hỏi mặt võng Út
Dzách, cơ sở sản xuất Cacao – Mười
Cương, làng nghề bánh tráng, rượu đế
Mỹ Khánh. Vì thế, để nâng cao khả năng
cạnh tranh, tăng sức hút đối với du
khách, nghiên cứu cải tiến, nâng cao
chất lượng đặc sản “nhà làm” được xem
là giải pháp có ý nghĩa quan trọng đối
với việc phát triển đặc sản gắn liền với
phát triển du lịch (Bùi Văn Trịnh &
Nguyễn Quốc Nghi, 2018).
Sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản cung
cấp nguồn nguyên liệu tạo nên thực
phẩm đặc sắc là không thể thiếu trong
phát triển du lịch ở ĐBSCL. Hiện nay
sản xuất nông nghiệp của vùng phần lớn
đang đối mặt với nhiều khó khăn, còn lệ
thuộc vào hoá chất nông nghiệp, giá
thành sản xuất cao, chất lượng thấp,
thiếu tính cạnh tranh trên thị trường,
chưa giúp tăng thêm thu nhập đáng kể
cho nông hộ. Nhất là trong điều kiện bị
tác động của biến đổi khí hậu, sản xuất
nông nghiệp (SXNN) cần được đổi mới
để thích nghi và bền vững hơn (Siwar et
al., 2009; Võ Thị Gương & ctv., 2016).
Kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và du
lịch (AT, Agritourism) là chiến lược
phát triển ngắn và dài hạn giúp tăng thu
nhập cho người dân, giảm những nguy
cơ liên quan đến sự suy thoái môi trường
đất nước, đa dạng sinh học, tăng sự bền
vững của hệ sinh thái. Sự phát triển hệ
thống AT đặc biệt hiệu quả trong cải
thiện thu nhập của những nông hộ nhỏ
và cộng đồng nông thôn, đóng vai trò
quan trọng cho sự phát triển những vùng
nông thôn xa (Corinne, & Carla, 2014;
Claudio et al., 2017). AT giúp tăng cơ
hội phát triển du lịch sinh thái, du lịch
xanh và bền vững. Qua nghiên cứu tại
một xã ở ĐBSCL, khảo sát phỏng vấn
400 hộ nông dân cho thấy du lịch giúp
nhiều lợi ích cho cộng đồng nông thôn
như cải thiện cơ sở hạ tầng, tăng cường
thu nhập, chất lượng cuộc sống của
người dân tại địa phương (Quyen, 2017).
Trong nghiên cứu của Christine et al.,
(2012) thì bên cạnh những lợi ích về
kinh tế, về môi trường nêu trên, AT còn
giúp đạt được mục đích quan trọng khác
như là công cụ quảng bá (marketing
tool) sản phẩm nông nghiệp của địa
phương.
Do nhu cầu cao của du khách về thực
phẩm sạch, đạt chất lượng cao, không sử
dụng hoá chất nông nghiệp, SXNN đạt
chuẩn GAP và SXNN hữu cơ là đòi hỏi
cần thiết trong liên kết với du lịch
(Donatella, 2010). Các nghiên cứu trước
đây cho thấy ứng dụng kết quả nghiên
cứu vào thực tế sản xuất, áp dụng biện
pháp kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng công
nghệ sinh học trong sản xuất an toàn đạt
tiêu chuẩn GAP, sản xuất nông nghiệp
hữu cơ là vấn đề khả thi, cần được tổ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
53
chức và quản lý (Võ Thị Gương & ctv.,
2016).
ĐBSCL có điều kiện cơ sở hạ tầng
giao thông kỹ thuật, đất đai, nguồn nước
thuận lợi trong canh tác nông nghiệp,
trong đó lúa là cây trồng chủ lực, vườn
cây ăn trái, (CAT) rau màu, chăn nuôi,
thủy sản nuôi kết hợp là thế mạnh. Tất
cả các mô hình canh tác, vật nuôi đều có
thể ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật
mới vào sản xuất. Trường hợp khảo sát ở
một số huyện thuộc tỉnh An Giang cho
thấy tiến bộ kỹ thuật trong canh tác được
áp dụng khá tốt. Mô hình vườn CAT
phát triển du lịch sinh thái cũng được
triển khai trên quy mô nhỏ. Một số mô
hình dự án đã được phát triển tốt theo
tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Vấn
đề xây dựng những tuyến điểm du lịch
liên kết các địa điểm về di sản, làng
nghề, tâm linh, SXNN hoàn toàn khả thi
và hấp dẫn với đặc thù đồng bằng sông
nước, núi non và nhiều phong cảnh đẹp
và những truyền thuyết dân gian.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức
cho sự phát triển mô hình AT ở ĐBSCL.
Để thu hút khách du lịch, cần quan tâm
đến năm yếu tố ảnh hưởng đến sự phát
triển du lịch sinh thái là "cơ sở hạ tầng
và dịch vụ hỗ trợ", "giá cả dịch vụ",
"chất lượng nguồn nhân lực và điều kiện
ăn uống", "an ninh trật tự và an toàn",
"cơ sở vật chất kỹ thuật" (Nguyễn Trọng
Nhân & Phan Thành Khởi, 2016). Nhìn
chung, ĐBSCL chưa đáp ứng được các
yếu tố này. Sản phẩm vườn CAT đặc
sản hiện chưa trở thành sản phẩm đặc
trưng để thu hút du khách đến tham quan
và thưởng thức. Bên cạnh đó, các hộ có
vườn CAT đặc sản thường trồng tự phát
chưa có sự liên kết giữa các nhà vườn,
liên kết với Công ty du lịch để tạo ra
nhiều hoạt động phong phú, chưa phát
huy được nguồn lực nội tại đưa việc phát
triển kinh tế vườn gắn với du lịch trở
thành ngành có nhiều đóng góp cho phát
triển kinh tế của địa phương (Võ Hồng
Tú & ctv., 2018). Đối với phát triển thuỷ
sản phục vụ và liên kết với du lịch là
lĩnh vực thật sự hấp dẫn du khách, vẫn
chưa được tổ chức chặt chẽ, thống nhất
cho sự liên kết với du lịch. Đối với
SXNN, sự phát triển đa dạng sản phẩm
đạt tiêu chuẩn GAP và hữu cơ là vô
cùng cần thiết. Rất cần ý thức tham gia
của cộng đồng nông thôn, sự quyết tâm
tổ chức, quản lý của chính quyền địa
phương.
3. KẾT LUẬN
Đa dạng về di tích lịch sử và văn hoá
ẩm thực, nét đẹp thiên nhiên vùng sông
nước, biển đảo, có cả núi non hùng vĩ ở
một số khu vực, những vườn cây ăn trái
trĩu quả, ruộng lúa bạt ngàn, thuỷ sản,
hải sản phong phú, ĐBSCL thật sự hấp
dẫn đối với du khách trong và ngoài
nước. Phát triển du lịch theo hướng du
lịch xanh, du lịch bền vững sẽ góp phần
quan trọng cho phát triển kinh tế của
vùng. Đặc biệt loại hình du lịch gắn kết
sản xuất nông nghiệp, loại hình được
phát triển nhiều nơi trên thế giới rất hiệu
quả, là loại hình có triển vọng phát triển
rất tốt ở ĐBSCL. Tuy nhiên, sự phát
triển du lịch còn nhiều tự phát, chưa
được đầu tư đúng mức, chưa được tổ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
54
chức đồng bộ và chuyên nghiệp, người
dân chưa được tập huấn để có ý thức tốt
trong cách cư xử, cho việc chuẩn bị
khuôn viên nhà vườn, vườn CAT, ao
nuôi theo kỹ thuật canh tác tiên tiến đạt
tiêu chuẩn GAP và tiêu chửn nông
nghiệp hữu cơ, thiếu chuẩn bị các đặc
sản địa phương, các sản phẩm đặc sắc
nhà làm Vì thế, rất cần sự tham gia tổ
chức của chính quyền địa phương với
chiến lược ngắn hạn và dài hạn liên kết
giữa các khu vực trong vùng, cùng với
các doanh nghiệp lữ hành và sự tham gia
của cộng đồng dân cư để tổ chức quảng
bá, xúc tiến du lịch vùng với nhiều điểm
đến du lịch thật hấp dẫn đối với du
khách trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Trịnh, Nguyễn Quốc
Nghi. 2018. Mức giá mong đợi của du
khách đối với các đặc sản “nhà làm” ở
huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ. 54(4C): 115-125.
2. Cao Mỹ Khanh, Nguyễn Đức Toàn.
2016. Khai thác di sản văn hóa phi vật
thể tại địa phương trong phát triển du
lịch ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp
chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ.
43c: 10-18.
3. Claudio, L., Vincenzo, G., Luigi,
M., Agostino, G., Alfonso, S. 2017.
Exploring the features of agritourism
and its contribution to rural development
in Italy. Land Use Policy. Volume 64:
383-390.
4. Christine, T and Carla B. 2012. The
perceived benefits of agritourism: The
provider’s perspective. Tourism
Management. Vol. 33 : 215-224.
5. Corinne,V., Carla, B. 2014.
Agritourism as a sustainable adaptation
strategy to climate change in the Andean
Altiplano. Tourism Management
Perspectives. Volume 11: 18-25.
6. Clark, G., Chabrel, M. 2007.
Measuring integrated rural
tourism.Tourism Geographies. 9:371–
386.
7. Damir,D., Robert, B. 2011.
Agritourism development in Croatia.
Studies in physical culture and tourism.
Vol. 18, No. 4.
8. Díaz, M.R., Rodríguez, T.F.E.
2016. Determining the Sustainability
Factors and Performance of a Tourism
Destination from the Stakeholders’
Perspective. Sustainability. 8: 951,
doi:10.3390/su8090951.
9. Donatella, P. 2010. The importance
of organic agriculture in tourism rural.
Applied Studies in Agribusiness and
Commerce–APSTRACT. Agroinform
Publishing House, Budapest.
10. Đào Ngọc Cảnh, Ông Thị Diệu
Huyền. 2017. Thực trạng và giải pháp
khai thác các di tích lịch sử - văn hóa
trong phát triển du lịch tại quận Bình
Thủy, thànhphố Cần Thơ. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ. 51c: 19-
27.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
55
11. Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Bùi Thị
Quỳnh Ngọc. 2012. Phát triển du lịch
nông thôn ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long: Đường đến cơ cấu kinh tế dịch
vụ- nông - công nghiệp.
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và
Kinh doanh. 28: 261‐268.
12. Franch M., Martini U., Buffa F.,
Parisi G. 2008. Four L tourism
(landscape, leisure, learning and limit):
responding to new motivations and
expectations of tourists to improve the
competitiveness of alpine destinations in
a sustainable way. Tourism Review, vol.
63: 4–14.
13. Gabriel, B., Condruta, A.B.,
Nicoleta, A.N., Dana, B., Ovidiu, M.T.,
Anca, M. 2017. Approaching the
Sustainable Development Practices in
Mountain Tourism in the Romanian
Carpathians. Sustainability, 9,
doi:10.3390/su9112051.
14. Hashimoto, A., Telfer, D. 2006.
Selling Canadian culinary tourism:
Branding the global and the regional
product.Tourism Geographies, 81:31–
55.
15. Hardy, A., Pearson, L.J. 2016.
Determining sustainable tourism in
regions.Sustainability. 8.
doi:10.3390/su8070660.
16. Huỳnh Trường Huy. 2018. Giải
pháp nâng cao năng lực nguồn nhân lực
du lịch ĐBSCL. Báo cáo tổng kết đề tài
khoa học và công nghệ cấp Bộ. 106p.
17. Nguyễn Thanh Sang, Nguyễn Phú
Son. 2018. Các yếu tố xác định năng lực
cạnh tranh điểm đến du lịch tỉnh Bạc
Liêu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ. 54(4D): 229-236.
18. Quyen, L. T. T. 2017. Social
impacts of tourism development on local
community: A case study at Dong Hoa
Hiep village, Cai Be district, Tien Giang
province. Can Tho University Journal of
Science. Vol 5: 10-17.
19. Rebecca Sims. 2009. Food, place
and authenticity: local food and the
sustainable tourism experience, Journal
of Sustainable Tourism, 17: 321-336.
20. Siwar, C., Alam, M.M., Murad,
M.W., and Al-Amin, A.Q. 2009. A
Review of the Linkages between
Climate Change, Agricultural
Sustainability and Poverty in Malaysia,
International Review of Business
Research Papers, Vol. 5(6), pp. 309-321.
21. Sơn Nam, 2005. Đồng bằng sông
Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa và Văn
minh miệt vườn. Nhà xuất bản Trẻ.
Thành phố Hồ Chí Minh. 423 trang.
22. Tổng cục Du lịch Việt Nam.
(2015). Đề án Phát triển sản phẩm Du
lịch đặc thù vùng ĐBSCL. Hà Nội.
bang-song-cuu-long.
23. Trương Trí Thông, Lý Mỹ Tiên.
2018. Tiềm năng, thực trạng và giải
pháp phát triển du lịch tại làng nghề dệt
thổ cẩm của đồng bào Khmer ở xã Văn
Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018
56
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ. 54(4C): 137-147.
24. Võ Thị Gương, Nguyễn Mỹ Hoa
Châu Minh Khôi,Trần Văn Dũng,
Dương Minh Viễn. 2016. Quản lý độ phì
nhiêu đất và hiệu quả sử dụng phân bón
ở ĐBSCL. Nhà xuất bản Đại học Cần
Thơ. 264p.
25. Woodland, M., Acott, T. 2007.
Sustainability and local tourism
branding in England’s South Downs.
Journal of Sustainable Tourism. 15:715–
734.
DEVELOPING AGRI-TOURISM IN THE MEKONG DELTA
Chau Phuong Uyen
Can Tho University
(Email: cpuyen@ctu.edu.vn)
ABSTRACT
The development of “green” tourism, including agri-tourism as part of the sustainable
tourism initiation, has been considered the optimal development positioning in the world.
As a matter of fact, tourism is one of the most prioritized strong point of the Mekong Delta,
contributing greatly to the region’s socio-economic through the diversification of ecology
and tourism varieties. The pressing point lies within the feasibility of agri-tourism
positioning in the Mekong Delta. Realizing this possibility, there has been a self-supported
emergence of farm tourism, as a form of agri-tourism. The region is enriched with
resources of aquaculture, as well as agricultural products and local foods, resulting in
charming sceneries and cultural values; or in other words, has been overflowing with
potentials for agri-tourism development. However, this model has met with multiple
challenges, due to the lack of proper investment, thus lack of consistency and
professionalism, as well as unability to emphasis on the authentic and outstanding features
of the local areas. Therefore, this situation has demanded a more in-depth of support and
involvement of the local authorities, with a clear strategies for linkages between regions,
connecting networks between tourism organizations and local communities. The purposes
are to aim for better approaches in destination planning and management, to utilize the
current resources for the most effective promotion and access to both domestic and
international visitors.
Keywords: Agri-tourism, local food, organic agriculture, tourism in the Mekong delta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_du_lich_nong_nghiep_o_dong_bang_song_cuu_long.pdf