An Giang có các hình thức tôn giáo tín ngưỡng
phong phú nhất ĐBSCL. Mỗi tộc người ở đây có
cách thức thực hành niềm tin tôn giáo riêng biệt,
khiến cho An Giang có một nền văn hóa tín
ngưỡng thật sự phong phú và đa dạng. Đối với
mỗi hình thức tôn giáo tín ngưỡng, có nhiều cơ sở
thờ tự khác nhau, giúp cho An Giang có rất nhiều
tiềm năng để phát triển loại hình du lịch tâm linh.
Sản phẩm du lịch tâm linh đặc trưng tiêu biểu của
An Giang có thể nói đến là miếu Bà Chúa Xứ núi
Sam cùng lễ hội Vía Bà và Khu du lịch Lâm Viên
Núi Cấm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, loại hình
du lịch này ở An Giang phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng. Sẽ không là quá muộn, nếu
từ bây giờ chúng ta tiến hành đồng bộ các giải
pháp khả thi. Ngoài các giải pháp cơ bản trên đây
còn nhiều giải pháp khác mà mỗi cá nhân, tổ
chức, đặc biệt là các cấp chính quyền phải tư duy
sáng tạo, luôn đổi mới, làm nhiều hơn nói thì mới
có thể khai thác được một ngành được xác định là
mũi nhọn của Tỉnh. Bên cạnh đó, chúng ta cần có
chiến lược phát triển du lịch sao cho có sự chung
tay góp sức của cộng đồng nhằm cải thiện chất
lượng dịch vụ của các sản phẩm du lịch tâm linh,
góp phần đưa ngành du lịch An Giang thay da đổi
thịt là một việc không thể chờ đợi lâu hơn nữa.
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch tâm linh ở An Giang hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
86
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH Ở AN GIANG HIỆN NAY
Võ Văn Thắng1, Mai Thị Minh Thuy1, Trần Xuân Hải2, Nguyễn Thị Ngọc Thơ1
1Trường Đại học An Giang
2UBKT Thành phố Châu Đốc, An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 01/07/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
22/07/2017
Ngày chấp nhận đăng: 08/2017
Title:
The development of spiritual
tourism in An Giang province
Keywords:
Spiritual tourism, religions,
beliefs, festivals
Từ khóa:
Du lịch tâm linh, tôn giáo,
tín ngưỡng, lễ hội
ABSTRACT
Based on the clarification of the concepts of spiritual tourism and its
characteristics, the authors have focused on defining potentialities, activities
and products of unique spiritual tourism in An Giang province through the
specifically cultural geography, diversed religions and beliefs of the province in
the Mekong Delta area. Also, the authors analyze the status of spiritual tourism
activities by different ways, then propose some basic solutions to develop this
type of tourism that is considered the current potential development of An
Giang.
TÓM TẮT
Trên cơ sở làm rõ khái niệm du lịch tâm linh và đặc trưng của nó, nhóm tác giả
tập trung làm rõ tiềm năng, hoạt động và sản phẩm du lịch tâm linh độc đáo ở
An Giang với đặc thù địa văn hóa của một tỉnh đa dạng nhất về tôn giáo, tín
ngưỡng ở Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời nhóm tác giả cũng phân tích
thực trạng của hoạt động loại hình du lịch tâm linh từ nhiều góc độ khác nhau,
qua đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển loại hình du lịch này
như là một thế mạnh của An Giang hiện nay.
ĐẶT VẤN ĐỀ
An Giang được biết đến là một tỉnh đa dân tộc, đa
tôn giáo. Có thể nói, An Giang là tỉnh có văn hóa
tín ngưỡng đa dạng và phong phú nhất khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Điều này
được minh chứng cụ thể bằng các hình thức và cơ
sở thờ tự của các tín ngưỡng tôn giáo đã và đang
tồn tại trên mảnh đất này. Chính vì vậy, loại hình
du lịch tâm linh có thể được xem là loại hình du
lịch có thế mạnh của An Giang. Tuy vậy, thời
gian qua, loại hình này chưa được phát triển
mạnh, chưa được phát huy thế mạnh tiềm năng
của nó. Trong bài viết này, tác giả khái quát tiềm
năng du lịch tâm linh cũng như xác định sản phẩm
du lịch tâm linh đặc trưng của tỉnh An Giang; qua
đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du
lịch tâm linh ở An Giang hiện nay.
1. DU LỊCH TÂM LINH – QUAN NIỆM VÀ
ĐẶC TRƯNG CỦA NÓ
Khái niệm Du lịch tâm linh đến nay vẫn còn nhiều
ý kiến khác nhau không chỉ ở Việt Nam mà cả
trên thế giới. Theo IGI Global (USA), du lịch tâm
linh là một trong những loại hình du lịch văn hoá
đang phát triển vì hiện nay con người đang có nhu
cầu phát triển tinh thần và khám phá ra những cái
mới của các nền văn hoá khác (IGI Global, 2017).
Trong năm 2007, du lịch tâm linh được UNWTO
(2017) đánh giá là phân khúc phát triển nhanh
nhất, mặc dù không dễ xác định phân khúc. Trên
thực tế, du lịch tâm linh dựa trên nhiều động cơ
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
87
.
khác nhau, từ du lịch tôn giáo truyền thống đến
liệu pháp y học thay thế đến đắm chìm vào tự
nhiên. (Tổ chức Du lịch Thế giới viết tắt là
UNWTO - World Tourism Organization - là một
cơ quan của Liên Hiệp Quốc nắm bắt mọi vấn đề
liên quan đến du lịch trên toàn thế giới; là cơ quan
chịu trách nhiệm cho việc thúc đẩy du lịch có
trách nhiệm, bền vững và có thể tiếp cận.
UNWTO biên soạn xếp hạng của Tổ chức Du lịch
(Global Code of Ethics for Tourism), có thành
viên gồm 156 quốc gia, 6 tổ chức và hơn 450 liên
kết và có trụ sở tại Madrid, Tây Ban Nha).
Theo chúng tôi, du lịch tâm linh là loại hình du
lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa làm
cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu
tâm linh của con người trong đời sống tinh thần.
Với cách tiếp cận này, du lịch tâm linh tập trung
khai thác những yếu tố văn hóa tâm linh trong quá
trình diễn ra các hoạt động du lịch, dựa vào những
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với lịch
sử hình thành nhận thức của con người về thế
giới, những giá trị về đức tin, tôn giáo, tín ngưỡng
và những giá trị tinh thần đặc biệt khác. Theo đó,
du lịch tâm linh mang lại những cảm xúc và trải
nghiệm thiêng liêng về tinh thần của con người
trong khi du lịch (Nguyễn Văn Tuấn, 2013).
Như chúng ta biết, nhu cầu tâm linh là nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống con người. Những
biểu hiện nổi bật của đời sống tâm linh được thể
hiện qua niềm tin và việc thực hành niềm tin tôn
giáo, tín ngưỡng của họ. Con người ngoài việc thể
hiện niềm tin và thực hành các nghi thức tôn giáo,
tín ngưỡng thường xuyên tại nơi mình sinh sống,
họ còn có nhu cầu hành hương đến các thánh địa
tôn giáo, các cơ sở thờ tự để chiêm bái, cầu
nguyện, gửi gắm niềm tin, thực hành nghi lễ thờ
phượng,... Bên cạnh đó, họ còn có nhu cầu tìm
hiểu về các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhằm làm
giàu thêm sự hiểu biết văn hóa của bản thân.
Chính vì vậy, loại hình du lịch tâm linh (hay còn
gọi là du lịch tôn giáo, du lịch tín ngưỡng) ra đời.
Khác với các loại hình du lịch khác, ngoài những
mục đích du lịch thuần túy như tham quan, nghỉ
dưỡng, giải trí, du lịch tâm linh còn vì mục đích
thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người. Mục
đích của các hoạt động tâm linh như hành hương,
thực hành các nghi thức tôn giáo tín ngưỡng ở các
cơ sở thờ tự là nhằm giúp con người loại bỏ
những tạp niệm, giữ tâm thanh tịnh và tìm kiếm
sự an lạc trong tinh thần. Ngoài ra, việc viếng
thăm các cơ sở thờ tự còn giúp khách du lịch tâm
linh tăng thêm nhận thức và đức tin đối với thần
linh. Từ đó, con người tin rằng, họ sẽ nhận được
sự che chở, bảo trợ của các đấng siêu nhiên và đạt
được những ước nguyện về nhu cầu tâm linh cũng
như nhu cầu trong đời sống thế tục. Điều này có
tác động tích cực đến đời sống tinh thần của con
người, giúp họ dễ dàng lấy lại sự thăng bằng và
cảm nhận được sự bình an trong cuộc sống. Về
mặt ý nghĩa và mục đích hướng tới, khó có loại
hình du lịch nào có thể đáp ứng được nhu cầu tâm
linh của con người như du lịch tâm linh. Chính vì
vậy, nó đã tạo cho du lịch tâm linh một sức mạnh
vượt trội.
Du lịch tâm linh gắn liền với nhiều hoạt động du
lịch đặc thù, gồm hai dạng:
Thứ nhất, du lịch để hành hương đến các cơ sở
thờ tự, các thánh địa tôn giáo và thực hành các
nghi thức, nghi lễ, tham gia lễ hội của các tôn
giáo, Trên thế giới, có rất nhiều hoạt động hành
hương tiêu biểu như: tín đồ Hồi giáo hành hương
về Thánh địa Mecca (bắt buộc đối với một tín đồ
Hồi giáo); tín đồ Ấn Độ giáo hành hương về các
thánh địa tôn giáo của mình để làm lễ trước sông
Hằng linh thiêng,... Ngay ở Việt Nam, có thể kể ra
rất nhiều chuyến hành hương tiêu biểu như: hành
hương về đền Hùng – Phú Thọ, chùa Hương – Hà
Nội, núi Bà Đen – Tây Ninh, viếng miếu và tham
dự lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam – An Giang,...
Những du khách của loại hình du lịch này còn tìm
đến những địa điểm núi non huyền bí, nhiều màu
sắc tâm linh nhằm tìm kiếm những nơi thanh tịnh,
giúp họ thanh tu tạm thời để chiêm nghiệm và lấy
lại sự thăng bằng trong đời sống.
Thứ hai, du lịch tâm linh còn được biểu hiện
thông qua việc du khách đến tham quan và tìm
hiểu, nghiên cứu tôn giáo của người dị giáo.
Những biểu hiện trong việc thực hành tôn giáo
của một tôn giáo khác lạ cũng được xem là những
giá trị văn hóa đặc sắc có thể khơi dậy óc tò mò
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
88
của con người. Sự hiểu biết về tôn giáo giúp con
người dễ dàng tìm hiểu về đời sống tinh thần cũng
như vật chất của tín đồ tôn giáo đó, qua đó giúp
con người càng nhích lại gần nhau.
2. TIỀM NĂNG, HOẠT ĐỘNG VÀ SẢN
PHẨM DU LỊCH TÂM LINH ĐẶC
TRƯNG Ở AN GIANG
2.1. Khái quát về tôn giáo, tín ngưỡng ở An
Giang
Với đặc thù địa văn hóa, An Giang là tỉnh đa dạng
nhất về tôn giáo, tín ngưỡng ở ĐBSCL, bao gồm:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thiên thần: phổ biến
nhất là thờ cúng Thổ Địa - Thần Tài, Táo Quân,
Thành Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần, Bà Chúa Xứ,
Ngũ Hành (miếu). Ngoài ra, một số nơi còn thờ
cúng Tổ tiên nhân loại (Cửu huyền trăm họ),
Ngọc Hoàng (Ông Thiên), Mẹ Phật Mẫu Diêu Trì
(Bà), Cửu Thiên Huyền Nữ, Ông Tà, Hà Bá -
Thuỷ Long, Bà Mẹ Sanh, v.v.
Tín ngưỡng thờ cúng nhân thần: phổ biến nhất là
thờ cúng Gia tiên, Quan Thánh Đế Quân, Ông
Bổn, Bắc Đế trấn vũ, tổ nghề nghiệp, danh nhân -
anh hùng dân tộc như Trần Văn Thành, Nguyễn
Hữu Cảnh, Thoại Ngọc Hầu,... Ngoài ra, một số
nơi còn thờ cúng liệt sĩ cách mạng, v.v.
Tôn giáo địa phương: phổ biến nhất là Phật giáo
Hòa Hảo, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Cao Đài.
Ngoài ra, một số người dân còn tin theo các hệ
phái như Bửu Sơn Kỳ Hương, Huỳnh Đạo.
Tôn giáo thế giới: Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo
Nam Tông (Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo
Theravada), Thiên Chúa giáo, Tin lành, Hồi
giáo,... [Lý Tùng Hiếu, 2012, 25 – 40].
Đối với mỗi tôn giáo – tín ngưỡng, các cơ sở thờ
tự không chỉ thể hiện giá trị tâm linh mà còn là
những giá trị văn hóa đặc sắc thông qua lối kiến
trúc và cách bài trí không gian đậm nét truyền
thống của các chủ thể văn hóa tương ứng.
Ngoài những hình thức tôn giáo kể trên, An Giang
còn nổi tiếng với một hình thức tâm linh nữa là
hiện tượng các ông Đạo, tiêu biểu như ông Đạo
Đoàn Minh Huyên với sự ra đời của đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương, ông Đạo Đức Bổn Sư – Ngô Lợi,
người sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, hay ông
Đạo Xển (Đạo Tư) hay còn gọi là Đức Huỳnh
Giáo Chủ – Huỳnh Phú Sổ, người khai lập Phật
giáo Hòa Hảo, và còn nhiều ông Đạo tên tuổi
khác.
An Giang nổi tiếng là vùng đất mang đậm nét tâm
linh, không có địa phương nào ở đây mà không có
cơ sở thờ tự của một tôn giáo nào đó. Trong một
gia đình, việc thờ 5 hoặc 7, thậm chí hơn 20 trang
thờ (Tứ Ân Hiếu Nghĩa) là việc không lạ. Trong
đời sống của người dân An Giang, tín ngưỡng tôn
giáo chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Mọi
việc trong đời sống dường như đều có sự hiện
diện của yếu tố tôn giáo, đều có những hoạt động
thể hiện sự “giao tiếp” của con người đối với các
đấng siêu nhiên. Tất cả các nghi lễ trong vòng đời
của người dân An Giang đều có sự hiện diện của
yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo. Ngoài ra, việc thăm
viếng các cơ sở thờ tự còn được thực hiện quanh
năm, tạo cho An Giang một màu sắc đậm nét văn
hóa tâm linh.
2.2. Các hoạt động du lịch tâm linh ở An
Giang
Tương ứng với tiềm năng về du lịch tâm linh như
đã đề cập trên đây, hoạt động của du khách thuộc
loại hình du lịch này ở An Giang gồm các hình
thức sau:
Thứ nhất, du khách hành hương hoặc tham quan
tìm hiểu về các cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng
tôn giáo. An Giang có hàng ngàn cơ sở thờ tự lớn
nhỏ với hàng trăm ngôi chùa của Phật giáo Bắc
Tông, trong đó có một số chùa nổi tiếng được
công nhận là di tích cấp quốc gia như chùa Tây
An, Chùa Hang (chùa Phước Điền) – Châu Đốc,
chùa Tam Bửu, chùa Phi Lai – Tri Tôn, chùa
Giồng Thành – Tân Châu, chùa Hòa Thạnh – Tịnh
Biên, Nam Linh Sơn Tự – Thoại Sơn,; Thánh
địa của Phật giáo Hòa Hảo (Tổ đình, An Hòa Tự)
– Phú Tân; khoảng 60 ngôi chùa Phật giáo Nam
Tông trên địa bàn các huyện Tri Tôn, Châu
Thành, Tịnh Biên và Thoại Sơn, tiêu biểu nhất là
chùa Xvayton (di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
quốc gia) – Tri Tôn; trên 50 nhà thờ lớn nhỏ thuộc
đạo Thiên Chúa và Tin Lành, tiêu biểu như Tòa
Giám mục Giáo phận Long Xuyên – thành phố
Long Xuyên, nhà thờ Năng Gù – Châu Phú, nhà
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
89
thờ Cù lao Giêng – Chợ Mới; hàng chục tòa thánh
đạo Cao Đài phân bố rải rác khắp các địa phương
trong Tỉnh; toàn Tỉnh có 16 đại thánh đường
(masjid) và 8 tiểu thánh đường (surao) của Hồi
giáo, nổi tiếng nhất là thánh đường Mubarak (di
tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia) – Tân
Châu. Ngoài ra, còn hàng trăm cơ sở thờ tự của
các tín ngưỡng dân gian trên khắp các địa bàn
trong Tỉnh, đặc biệt là tập trung ở một số ngọn núi
tiêu biểu ở An Giang như núi Cấm, núi Sam, núi
Két, núi Tượng, Chỉ tính riêng cụm di tích núi
Sam đã có trên 200 cơ sở thờ tự lớn nhỏ. Toàn
Tỉnh có hàng chục đình thờ thần Thành Hoàng,
tiêu biểu có đình Bình Mỹ - Châu Phú, đình Châu
Phú, Lăng Thoại Ngọc Hầu - Châu Đốc, đình Đa
Phước - An Phú, đình Mỹ Phước –Long Xuyên.
Nếu tính riêng cơ sở thờ tự của người Hoa, toàn
tỉnh An Giang có đến hàng chục cơ sở, nổi tiếng
như miếu Quan Thánh Đế Quân, chùa Ông Bắc,
Thất Phủ miếu, chùa Ông Quách - Long Xuyên,
miếu Bảo Sanh Đại Đế, miếu Quan Thánh Đế
Quân - Tân Châu, Thiên Hậu Thánh Cung (chùa
Bà Nước Hẹ) - Tịnh Biên, Ngoài việc hành
hương đến các cơ sở thờ tự để thực hành nghi
thức tôn giáo, một bộ phận du khách đến đây để
chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc độc
đáo, tìm hiểu đời sống văn hóa tâm linh của các
tộc người trên địa bàn tỉnh An Giang thông qua
những quan điểm của họ về tôn giáo tín ngưỡng,
những kiêng kỵ mang tính tâm linh, cách thức xây
dựng và bố trí cơ sở thờ tự, cách thức hành lễ và
lưu truyền những giá trị cốt lõi của các tôn giáo
tín ngưỡng,
Thứ hai, ngoài việc hành hương về các cơ sở thờ
tự, khách du lịch còn hành hương về những ngọn
núi, non của dãy Thất Sơn. Nhiều núi ở An Giang
chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh, huyền bí như
núi Sam (nơi phát hiện tượng Bà Chúa Xứ núi
Sam và trên 200 cơ sở thờ tự lớn nhỏ), núi Két,
núi Dài, núi Tượng, đặc biệt là núi Cấm – du
khách đến núi Cấm không chỉ viếng và lễ Phật tại
các chùa, miếu, điện thờ mà còn “thám hiểm” các
hang động nhỏ hẹp mang truyền thuyết huyền bí.
Hàng ngày, có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn
lượt khách hành hương đến viếng nơi đây. Núi
trong dãy Thất Sơn từng là nơi khởi nguồn, phát
tích của những nhân vật dị biệt được biết đến với
danh xưng “ông Đạo”, một vài người trong số này
đã tạo lập - cho ra đời những tôn giáo nội sinh ở
An Giang. Khách hành hương đến An Giang còn
tìm về con đường lập đạo của các “ông Đạo”,
trong đó tiêu biểu là ông Đạo Đoàn Minh Huyên
(đức Phật Thầy Tây An) với quá trình tập họp
dân, khai hoang lập làng, thu nhận đệ tử và khai
sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương với các địa điểm nổi
tiếng như chùa Thới Sơn, Trại Ruộng (chùa
Phước Điền), đình Thới Sơn, mộ ông Đình Tây,
– huyện Tịnh Biên, Tây An Cổ Tự (Chợ Mới),
đình thờ Quản Cơ Trần Văn Thành (Châu Phú),
Thứ ba, du khách hành hương và tìm hiểu các
hoạt động và giá trị văn hóa của các lễ hội tôn
giáo lớn, nhỏ trong Tỉnh. Hàng năm, có hàng trăm
lễ hội tôn giáo diễn ra ở An Giang, mỗi tôn giáo
thậm chí còn tổ chức lễ, hội diễn ra hầu hết các
tháng trong năm. Những lễ hội tôn giáo lớn trong
Tỉnh như lễ Vía Bà Chúa Xứ Bàu Mướp (19-21/4
âm lịch), lễ Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (23-27/4 âm
lịch); lễ cúng đình thần Châu Phú (Châu Đốc) và
dinh Nguyễn Hữu Cảnh (Chợ Mới) vào ngày 10-
11/5 âm lịch (ngày giỗ Nguyễn Hữu Cảnh); các lễ
hội tôn giáo của Phật giáo Hòa Hảo như lễ Kỷ
niệm ngày khai sáng đạo (18/5 âm lịch), lễ Đản
sinh Đức Huỳnh giáo chủ (25/11 âm lịch); lễ vía
Phật Thầy Tây An của hệ phái Bửu Sơn Kỳ
Hương (12/8 âm lịch); lễ vía Đức Bổn Sư Ngô
Lợi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (12-13/10 âm
lịch); lễ cúng miếu Ông Tà xã Tà Đảnh, huyện Tri
Tôn (19-20 tháng Giêng), các lễ hội của cộng
đồng Công giáo thuộc giáo phận Long Xuyên và
nhiều lễ hội lớn nhỏ khác.
Thứ tư, du khách kết hợp hành hương với các
hoạt động thuần túy du lịch khác như tham quan
các danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nhà
thờ (Cù lao Giêng – Chợ Mới), các khu sinh thái
tự nhiên, nghỉ dưỡng, mua sắm và thưởng thức
đặc sản địa phương,
2.3. Sản phẩm du lịch tâm linh đặc trưng của
tỉnh An Giang
Có thể nói rằng, tiềm năng du lịch tâm linh ở An
Giang rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, dựa
vào đặc thù địa văn hóa và điều kiện lịch sử,
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
90
chúng tôi nhận thấy sản phẩm đặc trưng của loại
hình du lịch này ở An Giang có hai đại diện tiêu
biểu là miếu Bà Chúa Xứ núi Sam cùng lễ hội Vía
Bà và Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm.
2.3.1 Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam cùng lễ hội Vía
Bà
Bà Chúa Xứ được xem là một dạng thần Đất có
tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đối với người dân Nam
Bộ. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ dường như tồn
tại khắp các địa phương nơi đây, tiêu biểu là ở An
Giang. Qua khảo sát thực tế, chúng tôi ghi nhận
miếu Bà Chúa Xứ có mặt tại nhiều địa phương ở
An Giang như Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri Tôn,
Châu Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Trong đó, tiêu
biểu nhất là miếu Bà Chúa Xứ núi Sam ở thành
phố Châu Đốc, được công nhận là di tích kiến trúc
nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 10/7/1980. Khách
du lịch hành hương đến viếng, khấn vái ở miếu Bà
với nhiều mục đích khác nhau như cầu bình an,
cầu sức khỏe, cầu may mắn, cầu tài lộc, cầu thăng
tiến, cầu con cái, cầu tình duyên, Họ viếng,
cúng Bà Chúa Xứ vì mục đích tâm linh đơn thuần
có lẽ không mạnh mẽ bằng mục đích thế tục của
bản thân. Đa số họ mong muốn sau khi viếng,
cúng, khấn Bà, đều xin Bà phù hộ cho họ có cuộc
sống sung túc, giàu có hơn là cầu được bình an.
Hằng năm, miếu Bà Chúa Xứ núi Sam diễn ra lễ
hội Vía Bà vào các ngày 23 – 27/4 âm lịch. Tuy
nhiên, việc viếng Bà dường như diễn ra quanh
năm, thường tập trung vào bốn tháng đầu năm,
cao điểm là vào những ngày diễn ra lễ chính, tín
đồ viếng Bà lên hàng ngàn lượt mỗi ngày.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam được Bộ Văn
hóa, Thông tin và Du lịch Việt Nam công nhận là
Lễ hội cấp Quốc gia vào năm 2001. Lễ hội không
chỉ mang tính chất tín ngưỡng tâm linh mà còn là
hoạt động văn hóa đặc trưng của cư dân Nam Bộ
nói chung và An Giang nói riêng. Lễ Vía Bà Chúa
Xứ núi Sam mang dáng dấp của một lễ ở đình thờ
thần Thành Hoàng với các lễ cúng như lễ tắm Bà,
lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà, lễ Túc
yết, lễ Xây chầu, lễ Chánh tế. Những lễ này được
diễn ra trang nghiêm theo đúng quy củ truyền
thống từ mấy trăm năm hình thành và phát triển
của miếu Bà. Mỗi lễ mang ý nghĩa đặc biệt, việc
tham dự lễ cúng là ước nguyện và cũng là một
niềm tự hào đối với các tín đồ của Bà Chúa Xứ
núi Sam. Họ tin rằng, khi tham dự lễ cúng Bà sẽ
được Bà phù hộ nhiều hơn, cuộc sống của họ sẽ
càng mỹ mãn hơn.
Rất nhiều khách hành hương tự nhận Bà là Mẹ đỡ
đầu cho mình, xem việc viếng Bà mỗi năm như
một bổn phận, trong cuộc sống dù làm chuyện lớn
chuyện nhỏ đều “xin phép” Bà, thậm chí có người
mỗi tháng đều đến viếng Bà, đi đâu xa, lâu ngày
không viếng Bà thì nhớ nhung như tình cảm đối
với người mẹ ruột của mình. Đây là những điều
chúng tôi được chứng kiến, nghe thấy khi tiếp xúc
với một số khách hành hương viếng Bà trong lễ
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Và xa hơn nữa là tín đồ
của Bà từ mọi miền đất nước đổ về. Nhiều người
tâm sự, mỗi năm, nếu không đến viếng Bà Chúa
Xứ núi Sam một lần sẽ cảm thấy không yên lòng
và trong lòng luôn bị thúc giục rồi nhất định phải
đến viếng Bà. Khách hành hương đến viếng Bà
Chúa Xứ núi Sam thường xin lộc bằng cách “vay
tiền” Bà để “làm vốn” làm ăn. Do vậy, hằng năm,
để đền ơn, số tài vật mà khách dâng cúng cho Bà
là rất nhiều. Qua số lượng thống kê về khách
hành hương đến viếng miếu Bà mỗi năm phần nào
chúng ta có thể khẳng định niềm tin vào sự linh
thiêng của Bà là rất mạnh mẽ, chứng tỏ được uy
thế của một lực lượng thần bí tối cao chứ không
chỉ là một vị thần Đất. Rõ ràng, miếu Bà và lễ Vía
Bà Chúa Xứ núi Sam là một tài nguyên rất lớn
trong việc khai thác du lịch tâm linh ở An Giang,
bởi vì nó không chỉ thu hút khách du lịch thông
thường mà phần lớn khách hành hương còn cho
rằng, đến vía Bà là một “bổn phận và nhiệm vụ”
phải làm. Như vậy, nếu khai thác tốt nguồn tài
nguyên này, ngành du lịch của An Giang sẽ có
được them nguồn thu rất đáng kể.
2.3.2 Khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm
Núi Cấm là ngọn núi cao nhất trong toàn vùng
Thất Sơn có chiều cao 710 m, được xem là nóc
nhà của ĐBSCL với hàng trăm điện thờ. Núi Cấm
ngoài lợi thế về việc phát triển du lịch sinh thái có
khí hậu khá mát mẻ, hệ động - thực vật phong
phú, đa dạng, đặc biệt là các loại dược liệu quý,
đồng thời còn là một địa điểm lý tưởng để nghỉ
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
91
.
dưỡng. Núi Cấm còn là nơi thích hợp cho du lịch
tâm linh – du khách hành hương đến hàng trăm
điện thờ, nơi thanh tu của các cư sĩ, đạo sĩ,
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp, ở Thất
Sơn người ta còn phân biệt “non” khác với “núi”.
“Non” cũng gọi là “vồ”, tức chỗ đá nhô ra từ núi,
ở trên cao và thông thường, hễ có chỗ nhô ra thì
có chỗ khuyết vào, gọi là “điện”. “Điện” hiểu như
hang cạn, đủ để lập một cái am để tu, thờ cúng.
Những nơi vừa có “vồ” vừa có “điện” được nhiều
người biết đến là ở núi Cấm, gồm: Vồ Bò Hong ở
độ cao 710 m, vồ Đầu ở độ cao 584 m, vồ Bà ở độ
cao 579 m, vồ Ông Bướm, vồ Thiên Tuế ở độ cao
514 m. Năm vồ vừa kể, người ta gọi là Năm Non
(“Năm Non Bảy Núi”). Ngoài ra, còn có các vồ
khác như vồ Cây Quế, vồ Chư Thần, vồ Mồ
Côi, còn điện – nơi núi đá tự nhiên hình thành
những dạng thế đặc biệt, trông nhuốm vẻ linh
thiêng huyền nhiệm, được sơn nhân đắc dụng làm
nơi cúng bái chư vị sơn thần, [Nguyễn Hữu
Hiệp, 2010, 36, 37].
Đến với núi Cấm, du khách có thể lên đỉnh núi
bằng nhiều cách như đi cáp treo, xe ô tô, xe gắn
máy hay cũng có thể đi bộ. Đối với mỗi cách di
chuyển, du khách sẽ có những trải nghiệm khác
biệt và thú vị. Trên đỉnh của núi Cấm, ngoài việc
tham quan các điện thờ, hang động, du khách còn
hành hương đến các danh thắng nổi tiếng vừa có
quang cảnh đẹp, vừa mang đậm yếu tố tâm linh
của An Giang như chùa Vạn Linh, chùa Phật Nhỏ,
chùa Phật Lớn, đặc biệt là tượng Phật Di Lặc cao
33,6 m, đạt kỷ lục là tượng Phật Di Lặc trên đỉnh
núi cao nhất Việt Nam và châu Á. Không chỉ
tham quan, hành lễ, du khách còn có thể mua sắm
và thưởng thức đặc sản địa phương, tiêu biểu nhất
là món bánh xèo Bảy Núi với rất nhiều loại rau
rừng mang giá trị dược liệu cao. Tuy không có
nhiều các lễ hội tôn giáo, nhưng quang cảnh thiên
nhiên rừng núi bao la, tĩnh mịch với nhiều truyền
thuyết tâm linh huyền bí, núi Cấm đã và đang trở
thành điểm du lịch tâm linh không thể bỏ qua khi
đến An Giang.
3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH Ở AN
GIANG HIỆN NAY
3.1. Thực trạng du lịch tâm linh ở An Giang
hiện nay
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang,
trong năm 2016, An Giang đón khoảng 6,4 triệu
lượt khách du lịch, tăng 2,4% so với năm 2015.
Doanh thu du lịch ước đạt 2.000 tỷ đồng, tăng
31,5% so với năm 2015. Điều này cho thấy, du
lịch An Giang đang có những tín hiệu phát triển
đáng khích lệ. Đối với loại hình du lịch tâm linh,
tính riêng năm 2012, lượng khách đến Miếu Bà
Chúa Xứ núi Sam đạt 3,6 triệu lượt. Con số này
đang tăng lên hàng năm. Điều này cho thấy, An
Giang có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển
loại hình du lịch tâm linh với nhiều sản phẩm đặc
trưng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nguồn thu từ
loại hình du lịch tâm linh ở An Giang chưa tương
xứng với tiềm năng hiện có. Một số biểu hiện của
vấn đề này có thể kể đến:
- Khách của loại hình du lịch này đến An Giang
chủ yếu là đến các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng
trong thời gian ngắn, do họ chỉ chú trong việc
chiêm bái và tham gia các nghi thức, lễ hội tôn
giáo mà ít tham gia các hoạt động mang tính
chất vui chơi giải trí hay nghỉ dưỡng. Thời
gian lưu trú của khách ngắn. Nếu tính riêng
miếu Bà Chúa Xứ núi Sam (điểm du lịch tâm
linh quan trọng nhất Tỉnh) thì thời gian lưu trú
trung bình của khách là 1,3 ngày chủ yếu tập
trung vào mùa lễ hội; thời gian khách hành
hương đến núi Cấm dài từ khoảng 1 – 3 ngày.
Tuy nhiên, các dịch vụ khách sử dụng tại
đây lại không đáng kể. Hầu hết du khách chủ
yếu thăm viếng các điểm du lịch tâm linh
trong vài giờ (ước tính lượng khách đến thành
phố Châu Đốc năm 2016 là 4.570.500 lượt, so
với cùng kỳ tăng 6,92%, so với kế hoạch đạt
102%, tổng khách lưu trú 262.192 khách
(trong đó, khách Việt Nam: 225.643 lượt;
khách nước ngoài: 34.778 lượt; khách Việt
Kiều: 1.771 lượt. Như vậy, tổng số khách lưu
trú chỉ chiếm 5,74% trên tổng số khách du lịch
đến thành phố Châu Đốc. Con số này chứng
minh cho việc thất thu từ khách du lịch đến
thành phố Châu Đốc nói chung và các điểm du
lịch tâm linh tại đây nói riêng, vì họ chỉ tham
quan trong ngày mà ít trú lưu qua đêm).
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
92
;
- Hầu hết các điểm du lịch tâm linh ở An Giang
không thu vé tham quan, mặt khác, du khách
sử dụng các dịch vụ du lịch của địa phương rất
hạn chế, họ chỉ chi tiêu cho các dịch vụ lưu trú
khi có nhu cầu qua đêm và mua sắm đặc sản
địa phương, thậm chí nhiều du khách còn tự
chuẩn bị thức ăn, thức uống trong quá trình
tham quan. Phần lớn khách lựa chọn những
dịch vụ với giá cả bình dân, chưa quan tâm
đến các cơ sở cung ứng dịch vụ du lịch có tiêu
chuẩn và chất lượng cao, dẫn đến nguồn thu từ
du lịch chiếm tỉ lệ rất thấp so với số lượng
khách tham quan. Đơn cử như khách hành
hương đến núi Cấm, một số đoàn khách có khả
năng nghỉ lại qua đêm từ 1 – 3 đêm/đợt nhưng
tất cả những dịch vụ họ sử dụng đều ở mức tối
thiểu, có tiêu chuẩn thấp, giá rẻ như phòng trọ
(chất lượng dịch vụ thấp, ở ghép cả đoàn, chi
phí thấp). Ngoài ra, khách du lịch còn trang bị
cho những nhu cầu cần thiết khác, như tự
mang theo nước uống và thức ăn dùng cho cả
đoàn trong suốt chuyến đi. Nhiều khách mua
đặc sản địa phương còn rất dè dặt bởi họ chưa
an tâm về chất lượng sản phẩm, giá cả chưa
hợp lý.
Một số nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có
thể kể đến như:
- Môi trường xã hội tại các điểm du lịch tâm
linh còn “vướng” nhiều vấn đề bất cập gây ảnh
hưởng tiêu cực đến hình ảnh du lịch địa
phương, như nạn chèo kéo khách mua các vật
phẩm cúng tế, ăn xin, móc túi (ví dụ giai đoạn
2013 - 2015, thành phố Châu Đốc tiến hành xử
lý lực lượng bán hàng rong, ăn xin, cò mồi đeo
bám, chèo kéo khách với 524 người, trong đó
làm cam kết 326 đối tượng) (Ủy ban Nhân dân
thành phố Châu Đốc, 2016); mê tín dị đoan –
“buôn thần bán thánh” lừa đảo khách mua và
sử dụng các “dịch vụ tâm linh” như bói toán,
giải hạn, bùa chú, Chỉ tính riêng hoạt động
mê tín dị đoan tại thành phố Châu Đốc, trong
năm 2016 đã phát hiện và xử lý 87 vụ gồm 11
tổ chức, cá nhân (Ủy ban Nhân dân thành phố
Châu Đốc, 2017); một số hộ kinh doanh dịch
vụ du lịch “chặt chém”, cung cấp hàng giả,
hàng kém chất lượng cho khách, thái độ phục
vụ kém chuyên nghiệp, cụ thể là, trong năm
2016, thành phố Châu Đốc phối hợp với
Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An
Giang tiến hành kiểm tra 15 cơ sở lưu trú du
lịch, trong đó có 11 cơ sở vi phạm, bên cạnh
đó còn tiến hành kiểm tra về vấn đề vệ sinh an
toàn thực phẩm đối với 69 cơ sở kinh doanh
dịch vụ ăn uống, đã phát hiện 58 cơ sở vi
phạm (Ủy ban Nhân dân thành phố Châu Đốc,
2017); một bộ phận lao động phục vụ dịch vụ
vận chuyển du khách tại các điểm du lịch tâm
linh thiếu chuyên nghiệp, thậm chí còn giành
giật khách, có thái độ khiếm nhã với khách;
bất ổn về an ninh trật tự, an toàn xã hội vào
những mùa cao điểm hoặc các lễ hội dẫn đến
tình trạng cướp giật, chen lấn, giẫm đạp và xô
xát lẫn nhau (ví dụ giai đoạn 2013 - 2015, tại
thành phố Châu Đốc phát hiện và lập biên bản
8.480 trường hợp vi phạm về kinh doanh mua
bán, lấn chiếm lòng lề đường, trật tự đô thị;
182/2.760 cơ sở kinh doanh, dịch vụ không
đảm bảo vấn đề an ninh trật tự) (Ủy ban Nhân
dân thành phố Châu Đốc, 2016).
- Môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch tâm
linh bị ô nhiễm đáng báo động, một số điểm
chưa đảm bảo điều kiện vệ sinh tối thiểu cho
khách. Điều này khiến du khách cảm thấy ái
ngại và lo sợ, đặc biệt là khách quốc tế. Hệ quả
là du khách chỉ muốn đến để tham quan một
cách nhanh chóng rồi đi mà không ở lại lâu
hơn.
- Tại các điểm du lịch tâm linh, hoạt động vui
chơi giải trí chưa phong phú, thậm chí trong
các lễ hội tôn giáo, phần “lễ” rất được chú
trọng, trong khi đó, phần “hội” ít được quan
tâm, do đó du khách không có nhiều lựa chọn
và tham gia hoạt động vui chơi giải trí cũng là
nguyên nhân khiến du khách không muốn lưu
lại lâu tại các điểm du lịch. Và như vậy, thời
gian qua, các địa phương có loại hình du lịch
này thất thu trầm trọng.
- Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch tại hầu hết các điểm du lịch tâm linh chưa
đồng bộ và chưa đảm bảo chất lượng phục vụ
du khách, đặc biệt là ở các điểm thuộc khu vực
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
93
Bảy Núi. Chẳng hạn, hàng quán phục vụ ăn
uống nhếch nhác, tạm bợ, không đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, giá cả không hợp lý;
cơ sở lưu trú không đảm bảo điều kiện tối
thiểu để phục vụ du khách về vệ sinh và các
trang thiết bị chuyên dụng.
4. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH Ở AN
GIANG
Từ việc khái quát thực trạng trên đây, thiết nghĩ,
các cấp chính quyền, tổ chức có liên quan cần
phải có những giải pháp thiết thực nhằm phát triển
loại hình du lịch tâm linh ở An Giang tương xứng
với tiềm năng.
4.1 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước về du
lịch
Ban hành những quy định về việc đảm bảo các
vấn đề an ninh trật tự, an toàn xã hội tại các khu,
điểm du lịch tâm linh, đặc biệt là vào các mùa lễ
hội; phối hợp với cơ quan quản lý thị trường điều
tiết và quy định giá cả đối với các hàng hóa, dịch
vụ phục vụ du khách xung quanh các điểm du
lịch, tránh tình trạng chặt chém du khách; thanh
tra, kiểm tra, rà soát các cơ sở kinh doanh du lịch
tại địa bàn có các điểm du lịch tâm linh nhằm đảm
bảo các điều kiện trong việc sẵn sàng phục vụ du
khách, tránh tình trạng cung cấp hàng hóa, dịch vụ
kém chất lượng;
Kiên quyết bài trừ và có những biện pháp cưỡng
chế đối với các hoạt động mê tín dị đoan hoặc lợi
dụng lòng tin tín ngưỡng của du khách để trục lợi
bất hợp lý. Chẳng hạn, kiểm soát chặt chẽ hoặc
ngăn chặn việc bán đồ cúng và chim phóng
sinh, dưới nhiều hình thức lừa gạt khách tại khu
vực núi Sam nhằm vừa đảm bảo quyền lợi của
khách du lịch vừa bảo vệ loài sinh vật này;
Xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường và có
biện pháp chế tài đủ mạnh đối với những hành vi
gây ô nhiễm môi trường trong các khu, điểm du
lịch. Để thực hiện điều này, chúng ta cần đưa ra
những quy định cụ thể để cộng đồng nào đủ điều
kiện mới được tham gia làm dịch vụ. Ngay trong
miếu Bà cũng cần sắp xếp lại việc du khách thắp
hương, cúng vái, tạo ra một không gian an toàn,
trật tự, sạch sẽ, thoáng mát, văn minh, lịch sự;
Kết hợp với cơ sở đào tạo tổ chức các lớp đào tạo,
bỗi dưỡng về kinh doanh du lịch, tiến tới cấp
chứng chỉ hành nghề, đồng thời quy định những
cá nhân, hộ gia đình, tổ chức nào không có chứng
chỉ này không được hành nghề, kinh doanh, qua
đó tổ chức lại các hoạt động du lịch nói chung và
du lịch tâm linh nói riêng một cách chuyên nghiệp
hơn, hấp dẫn hơn;
Đẩy mạnh công tác truyền thông và xem đây là
một kênh quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh doanh. Có thể nói, quản lý và truyền thông là
mảng yếu kém của chúng ta. Cơ quan quản lý du
lịch phải kết hợp chặt chẽ với ban quản lý các
điểm du lịch tâm linh ứng dụng công nghệ thông
tin để quảng bá, quản lý điểm du lịch. Các trang
web cần thiết kế chuyên nghiệp, đặc thù với đầy
đủ nội dung, sinh động phục vụ cho du lịch. Nên
chú ý rằng, trong thời đại hội nhập toàn cầu, một
thông tin có thể truyền đi cả thế giới trong vòng
vài giây mà thôi. Hơn nữa, khách du lịch, đặc biệt
là khách quốc tế, hầu hết họ đều tìm hiểu thông
tin về điểm đến, bản sắc văn hóa, sản phẩm du
lịch đặc trưng, an ninh - trật tự, trước khi họ
quyết định đi đến điểm du lịch, quốc gia nào đó.
4.2 Đối với ban quản lý các điểm du lịch, lễ
hội tôn giáo
Có biện pháp để khôi phục các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp nhằm tăng tính nhân văn và
tính linh thiêng của các địa điểm du lịch tâm linh,
cũng như các lễ hội tôn giáo; tổ chức các nghi
thức tôn giáo cần đảm bảo tính trang nghiêm và
linh thiêng nhằm đề cao giá trị văn hóa, giá trị
tâm linh, nhân vật lịch sử - văn hóa với các điểm
du lịch (Ví dụ như ở nước Áo, họ khai thác triệt
để hình ảnh danh nhân văn hóa Wolfgang
Amadeus Mozart (1756 - 1791), một nhạc sĩ tài
hoa của nhân loại trên hầu hết các sản phẩm, thậm
chí trên viên socola, cây kem để thu hút việc
mua quà lưu niệm khi du khách đến đó). An
Giang từng được mệnh danh là vùng “Địa linh
nhân kiệt”; biên soạn tài liệu song ngữ hoặc tam
ngữ chuẩn xác, hấp dẫn giới thiệu về nguồn gốc,
lịch sử, tư tưởng, của các tôn giáo, di tích, nhân
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
94
.
vật lịch sử - văn hóa – tôn giáo, kết hợp với
việc truyền thông rộng rãi nhằm giới thiệu, quảng
bá một cách chính thống trên các phương tiện
thông tin đại chúng;
Tổ chức nhiều hoạt động giải trí gắn liền với điểm
du lịch tâm linh, đặc biệt mở rộng và phát triển
phần “hội” trong các “lễ hội” tôn giáo. Có như
vậy mới hy vọng giữ chân khách ở lại lâu hơn.
Điều này có thể thực hiện thông qua việc khôi
phục (nếu đã có trước đây) hoặc tổ chức các trò
chơi dân gian dựa vào các truyền thuyết liên quan
đến đối tượng được suy tôn trong lễ hội, tổ chức
các hoạt động vui chơi, thể thao, biểu diễn nghệ
thuật thiết thực nhằm tạo điều kiện giải trí cho
khách du lịch;
Phải có yêu cầu cụ thể đối với đội ngũ thuyết
minh viên ngoài việc có chuyên môn, đạt tính
chuyên nghiệp, sự tâm huyết, lòng tự trọng, tự tôn
dân tộc còn phải sử dụng lưu loát ít nhất một
ngoại ngữ để kịp thời cung cấp cho du khách
những thông tin cần thiết, hấp dẫn, hướng dẫn
khách trong và ngoài nước thực hiện các nghi
thức tôn giáo nhằm tăng sự hấp dẫn đối với
khách; nên động viên các người đứng đầu cơ sở
thờ tự, điểm du lịch thuyết minh được cho khách
(nói được tiếng Anh thì càng tốt). Điều này cũng
là yếu tố góp phần thu hút khách đến tham quan
nhiều hơn;
Tăng cường lực lượng bảo vệ trong các lễ hội tôn
giáo nhằm đảm bảo sự an toàn cho khách và tránh
tình trạng mất an ninh - trật tự xảy ra, Một vấn
đề đặt ra bức thiết mà hầu hết khách du lịch lo
ngại nhiều, thậm chí là rất sợ, đó là vấn đề an toàn
thực phẩm. Khách du lịch bao giờ cũng muốn
thưởng thức đặc sản nơi mình đến nhưng nhiều
khách phải chấp nhận bỏ qua những món đặc sản
cho dù họ rất thích vì không đảm bảo vệ sinh.
Chẳng hạn, rất nhiều khách thích ăn bánh xèo núi
Cấm nhưng ngay cả rau rừng cũng không được
rửa sạch, bảo quản hợp vệ sinh, bên cạnh hàng
quán nhếch nhác, bàn ghế không sạch sẽ, Điều
đó đã làm cho chúng ta mất nguồn thu lớn từ dịch
vụ này;
Nhanh chóng đầu tư cho việc sửa sang, quy
hoạch, phát triển khuôn viên, cảnh quan môi
trường các điểm du lịch như một quần thể; kết cấu
hạ tầng, đặc biệt là đường xá thông thoáng, an
toàn; xây dựng mạng lưới nhà hàng, khách sạn,
nhà nghỉ phục vụ chuyên nghiệp với các món ăn
đặc sản, có không gian thư giãn, vui chơi giải trí
chất lượng được đảm bảo một cách nghiêm túc, từ
đó kết hợp với doanh nghiệp xây dựng các tuyến,
tour du lịch trọn gói, linh hoạt trong khu vực,
trong nước và ngoài nước. Có như vậy mới có thể
kéo dài thời gian và tận dụng tối đa quỹ thời gian
của khách du lịch ở lại An Giang (bởi vì hàng
ngày, An Giang có hàng trăm, thậm chí hàng
nghìn người vừa leo núi vừa hành hương tại núi
Cấm, ngoài ra nhóm khách này thường lưu lại từ 2
– 4 ngày vừa để thăm viếng các điện, vồ, chùa,
vừa kết hợp nghỉ dưỡng ở hệ sinh thái núi cao có
khí hậu mát mẻ; khách còn đến địa điểm nổi tiếng,
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống tâm
linh trong thời kỳ khẩn hoang của người dân An
Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung, tiêu biểu
như ông Đạo Đoàn Minh Huyên – người khai đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương, gồm các địa điểm như chùa
Thới Sơn, Trại Ruộng (chùa Phước Điền), đình
Thới Sơn, mộ ông Đình Tây (Tịnh Biên), đình thờ
Quản Cơ Trần Văn Thành (Châu Phú), Tuy
nhiên, thị trường khách này ít được quan tâm và
khai thác hiệu quả). Cần đầu tư và phát triển du
lịch không chỉ các cơ sở thờ tự của người Việt mà
còn chú trọng các công trình tín ngưỡng tôn
giáo của các dân tộc Hoa, Chăm, Khmer (Du
khách nói chung, du khách người Việt nói riêng đi
đến các nước Đông Nam Á như đất nước chùa
tháp (Campuchia), xứ sở chùa Vàng (Myanma,
Thái Lan, Lào) đều viếng thăm các ngôi chùa Phật
giáo Theravada. Tuy nhiên, ở An Giang có hơn 60
ngôi chùa tương đồng như thế lại chưa được khai
thác hợp lý. Khi du lịch đến các nước Hồi giáo thì
các thánh đường là điểm đến trọng yếu của loại
hình du lịch tâm linh. Theo kinh nghiệm từ ngành
du lịch Malaysia, các thánh đường Hồi giáo ngày
càng thu hút du khách khắp nơi trên thế giới, bởi
vì nó vừa mang yếu tố tâm linh, vừa còn là những
công trình kiến trúc độc đáo, chứa đựng các giá trị
văn hóa cốt lõi trong đời sống của tín đồ Hồi giáo.
An Giang có 16 đại thánh đường Hồi Giáo, những
thánh đường này được xây theo kiến trúc truyền
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
95
;
thống của thánh đường Hồi giáo ở các nước Ảrập
nhưng chúng cũng chưa được khai thác triệt để
cho du lịch). An Giang có nhiều tiềm năng du lịch
tâm linh tương đồng với các nước trong khu vực,
trong khi du lịch tâm linh ở các quốc gia đó đã tận
dụng một cách tối đa các tiềm năng hiện có và
ngành du lịch ngày càng phát triển thì du lịch An
Giang lại chưa khai thác hoặc khai thác chưa đúng
với tiềm năng. Ở đây, chúng tôi đề xuất khai thác
các lễ hội của 4 dân tộc chính với những sản
phẩm riêng biệt, điểm du lịch tâm linh từ các tộc
người cộng cư đang có nhiều tiềm năng phát triển
nhưng ít được quan tâm dựa trên nền tảng của các
sản phẩm du lịch tâm linh đặc trưng hiện nay (Cần
xây dựng chương trình tổng hợp cho khách du
lịch văn hóa, tâm linh tham quan, hành hương,
hành lễ ở Cụm di tích văn hóa - lịch sử; tham dự
lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam; tham quan
những ngọn núi thiêng của dãy Thất Sơn, các ngôi
chùa Phật giáo Nam Tông; tham dự Tết Chol
Chnam Thmay, lễ Sen Dolta – Hội đua bò Bảy
Núi, lễ hội Ok om bok; thưởng thức ẩm thực của
người Khmer ở Tri Tôn, Tịnh Biên, khu du lịch
sinh thái rừng Tràm Trà Sư; tham quan, hành lễ,
tham quan thánh đường Hồi Giáo; tìm hiểu đời
sống văn hóa, làng nghề truyền thống và thưởng
thức ẩm thực của người Chăm ở Tân Châu, An
Phú; tham gia các hoạt động du lịch sinh thái ở
búng Bình Thiên tại huyện An Phú, kết hợp mua
sắm tại các trung tâm thương mại cửa khẩu quốc
tế Tịnh Biên, chợ Châu Đốc).
Xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh theo hướng
gắn với phát triển các khu, điểm du lịch tâm linh
đạt tới độ tinh tế, đáp ứng đa dạng, phong phú nhu
cầu về tâm linh của du khách, nhất là các dịp lễ
hội; cần hiểu đúng khái niệm sản phẩm du lịch
tâm linh không chỉ là sản phẩm vật chất, di tích
mà còn có các sản phẩm tinh thần – tâm linh. Đây
là điều rất quan trọng mà chúng ta chưa nghĩ đến
và chưa làm. Chẳng hạn, trên núi Cấm hoặc các
điểm khác, chúng ta tổ chức Tuần lễ ăn chay,
Tuần lễ yoga, Tuần lễ thiền, Thăng hoa núi Cấm
(các khóa ngắn hạn này, chúng ta cũng có thể thiết
kế linh hoạt từ 3 - 5 ngày, thậm chí là 01 ngày, vì
khách du lịch ít có điều kiện ở lâu hơn. Để làm
được điều này, chúng ta cần đầu tư đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ, trong đó có cả các vị sư sãi nắm
vững chuyên môn, dạy có bài bản, khoa học; đảm
bảo an toàn vệ sinh đối với các món ăn,... nhằm
làm cho khách tham gia các khóa này yên tâm.
Với không khí mát mẻ, trong lành, không gian
yên ắng, tĩnh lặng của núi non vùng Thất Sơn
hoặc vài nơi khác trong Tỉnh chắc chắn từng bước
chúng ta sẽ khai thác được hoạt động này một
cách triệt để) Như vậy, để phát triển sản phẩm
du lịch nói chung, du lịch tâm linh nói riêng, các
cấp chính quyền cần có hợp tác chặt chẽ, có trách
nhiệm ràng buộc minh bạch với các doanh nghiệp,
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để tư vấn, đề
xuất những ý tưởng sáng tạo, khả thi nhằm triển
khai thực hiện thành công, góp phần làm phong
phú sản phẩm du lịch ở An Giang.
5. KẾT LUẬN
An Giang có các hình thức tôn giáo tín ngưỡng
phong phú nhất ĐBSCL. Mỗi tộc người ở đây có
cách thức thực hành niềm tin tôn giáo riêng biệt,
khiến cho An Giang có một nền văn hóa tín
ngưỡng thật sự phong phú và đa dạng. Đối với
mỗi hình thức tôn giáo tín ngưỡng, có nhiều cơ sở
thờ tự khác nhau, giúp cho An Giang có rất nhiều
tiềm năng để phát triển loại hình du lịch tâm linh.
Sản phẩm du lịch tâm linh đặc trưng tiêu biểu của
An Giang có thể nói đến là miếu Bà Chúa Xứ núi
Sam cùng lễ hội Vía Bà và Khu du lịch Lâm Viên
Núi Cấm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, loại hình
du lịch này ở An Giang phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng. Sẽ không là quá muộn, nếu
từ bây giờ chúng ta tiến hành đồng bộ các giải
pháp khả thi. Ngoài các giải pháp cơ bản trên đây
còn nhiều giải pháp khác mà mỗi cá nhân, tổ
chức, đặc biệt là các cấp chính quyền phải tư duy
sáng tạo, luôn đổi mới, làm nhiều hơn nói thì mới
có thể khai thác được một ngành được xác định là
mũi nhọn của Tỉnh. Bên cạnh đó, chúng ta cần có
chiến lược phát triển du lịch sao cho có sự chung
tay góp sức của cộng đồng nhằm cải thiện chất
lượng dịch vụ của các sản phẩm du lịch tâm linh,
góp phần đưa ngành du lịch An Giang thay da đổi
thịt là một việc không thể chờ đợi lâu hơn nữa.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 16 (4), 86 – 96
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
International Islamic University Malaysia. (2016).
Issues And Potential Of Mosque As A
Spiritual Tourism Destination In Malaysia.
Proceedings of ISER 22nd International
Conference, Hong Kong, ISBN: 978 – 93 –
85973 - 48.
Truy cập từ:
pdf/206-14565539051-6.pdf.
IGI Global. (2017). What is Spiritual Tourism.
Truy cập từ
global.com/dictionary/spiritual-
tourism/39292.
Lý Tùng Hiếu. (01/11/2012). Diện mạo văn hoá
đa dân tộc - đa tôn giáo ở An Giang qua khảo
sát điền dã. Tập san Khoa học Xã hội & Nhân
văn (Annals of USSH). Số 56 (9/2012), trang
25 – 40.
Mai Thị Minh Thuy. (2016). Tín ngưỡng thờ Ông
Địa – Ông Tà của người Việt ở An Giang.
Luận văn Thạc sĩ ngành Văn hóa học. Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đăng Duy. (1996). Văn hóa tâm linh.
Nhà xuất bản Hà Nội.
Nguyễn Hữu Hiệp. (2010). An Giang đôi nét văn
hóa đặc trưng vùng đất bán sơn địa. Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin.
Nguyễn Văn Tuấn. (2013). Du lịch tâm linh ở Việt
Nam - Thực trạng và định hướng phát triển.
Truy cập từ:
traodoi/726-du-lich-tam-linh-o-viet-nam-thuc-
trang-va-dinh-huong-phat-trien.html.
Trần Đức Thanh. (2008). Nhập môn khoa học du
lịch. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trúc Giang. (2016). Du lịch sẽ là ngành kinh tế
mũi nhọn của An Giang. Truy cập từ
ws/items/17921.
Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch An Giang.
(2014). Quy hoạch tổng thể phát triển ngành
du lịch An Giang giao đoạn từ năm 2014 đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ủy ban Nhân dân Thành phố Châu Đốc. (2016).
Báo cáo Kết quả triển khai thực hiện Nghị
quyết số 11-NQ/TU ngày 18/01/2013 của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang và Kế
hoạch số 53-KH/TU ngày 26/4/2013 của Ban
Chấp hành Đảng bộ thị xã (nay là thành phố
Châu Đốc) về đẩy mạnh phát triển du lịch trên
địa bàn đến năm 2015 và định hướng đến năm
2020.
Ủy ban Nhân dân Thành phố Châu Đốc. (2017).
Báo cáo Kết quả thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Thủ tướng Chính phủ về phát triển
du lịch.
UNWTO. (2017).
truy cập ngày 21/4/2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_du_lich_tam_linh_o_an_giang_hien_nay.pdf