Thứ năm: Phát triển nhân lực du lịch có chất lượng cao
Tập trung các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực du lịch: đảm bảo chất lượng, số lượng, cân
đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo đáp ứng yêu
cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế. Phát triển mạng
lưới cơ sở đào tạo về du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị
giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa chất lượng giảng
viên; chuẩn hóa giáo trình khung đào tạo du lịch. Xây dựng
và ban hành khung trình độ nghề quốc gia trong lĩnh vực
du lịch tương đương trong khu vực và quốc tế
Các giải pháp này phải phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng
để mang lại hiệu quả cao nhất giữa 3 chủ thể:
- Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm)
chịu trách nhiệm ban hành đường lối, chủ trương phát
triển; ban hành và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách
phát triển du lịch và có trách nhiệm đứng ra thúc đẩy việc
liên kết giữa các doanh nghiệp để phát triển du lịch theo
tuyến HLKT.
- Doanh nghiệp: Với tư các là các tổ chức hay đơn vị
cung ứng dịch vụ du lịch phải căn cứ vào luật pháp, chính
sách của nhà nước để chủ động trong việc phối kết hợp,
liên kết tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu
của du khách.
- Người dân: Có trách nhiệm hưởng ứng, ủng hộ chủ
trương phát triển du lịch, luật pháp, chính sách đối với phát
triển du lịch theo tuyến HLKT trên tinh thần tự giác, thân
thiện và cùng nhau thúc đẩy du lịch phát triển.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch tỉnh Bắc Giang theo hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XÃ HỘI
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 2 (4/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 142
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
THEO HÀNH LANG KINH TẾ LẠNG SƠN - HÀ NỘI
BAC GIANG TOURISM DEVELOPMENT IN ECONOMIC CORRIDOR LANG SON - HA NOI
Lê Thu Hương1, Nguyễn Thị Ngọc Anh1,*,
Trần Quốc Hưng1, Nguyễn Văn Trượng2
TÓM TẮT
Bắc Giang là vùng đất được biết đến với nhiều thắng cảnh đẹp, di tích lịch sử
độc đáo. Gần đây nhất, UNESCO đã công nhận mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí
Yên, huyện Yên Dũng) là di sản kí ức thế giới và Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế được
xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt. Điều đó càng khẳng định rõ nét hơn về tiềm
năng, lợi thế phát triển du lịch tại Bắc Giang. Nhưng thực tế, du lịch Bắc Giang vẫn
đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức, du lịch chưa phải là ngành kinh tế đóng
góp nhiều cho ngân sách của tỉnh Bắc Giang vẫn là “vùng trũng” du lịch của cả
nước. Với tiềm năng phong phú, lại nằm cạnh những địa phương phát triển mạnh
về du lịch, nếu biết liên kết, tận dụng lợi thế, du lịch sẽ có nhiều cơ hội mới. Liên kết
chính là yêu cầu khách quan, là một xu thế tất yếu để du lịch Bắc Giang thực sự là
ngành kinh tế của địa phương, là “cơ hội” đổi đời cho người nghèo.
Từ khóa: Tài nguyên; liên kết; du lịch; phát triển.
ABSTRACT
Bac Giang province known as an area with many beauty sites and unique
historical relics. Recently, Vinh Nghiem pagoda’s Buddhist woodblocks (at Tri
Yen commune, Yen Dung district) have been recognized by UNESCO as a world
documentary heritage. Yen The Cluster Uprising has been ranked as a special
national relic. These surely demonstrate the potentials and advantages of Bac
Giang in tourism development. In fact, however, tourism industry in Bac Giang is
facing a lot of difficulties and challenges. The tourism itself hasn’t made great
contributions to the province’s budget. Bac Giang is still a low point in
nationwide tourism map. Yet, with the variety of potential and proximity of
strongly developing regions, Bac Giang’s tourism will get new chances if it can
make use of its own strength and associates with the neighbourhood. Co-
operation is an objective demand and essential trend for Bac Giang to be a locally
economic sector and a turning point for the poor to better their lives.
Keywords: Resources; tourism; cooperate; develop.
1Khoa Du lịch, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
2Khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
*Email: ngocanhbg81@gmail.com
Ngày nhận bài: 12/01/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 02/5/2019
Ngày chấp nhận đăng: 24/2/2019
1. GIỚI THIỆU
Bắc Giang là một tỉnh nằm dọc theo hành lang kinh tế
(HLKT) Lạng Sơn - Hà Nội. Không gian du lịch của HLKT này
chạy qua 4 địa phương Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng
Sơn, dựa trên sự tồn tại của tuyến trục giao thông huyết
mạch chạy qua 4 địa phương nằm dọc quốc lộ 1A, có tuyến
đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Tuyến này có vai trò quan
trọng đối với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh đến
thành phố Hà Nội. Đây cũng là một tuyến giao lưu giữa các
tỉnh Nam Trung Quốc đối với Việt Nam, là một đoạn trên
tuyến Xuyên Á. Trên tuyến có cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị
với khối lượng hàng hóa xuất nhập đáng kể và là một trong
những đầu mối chính giao lưu với Trung Quốc.
Bắc Giang có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch: vị trí
địa lí thuận lợi, cảnh quan kì thú, tươi đẹp, nhiều điểm du
lịch mang đậm dấu ấn văn hóa với bản sắc riêng, các di sản
văn hóa phi vật thể như: phong tục tập quán, lễ hội,
âm nhạc, dân ca, nghệ thuật ẩm thực, nghề thủ công
truyền thống
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra
xã hội học Nguồn thông tin sử dụng trong bài báo bao
gồm thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Thông tin sơ
cấp được tác giả bài báo thu thập, xử lí thông tin trực tiếp
từ các chuyến điều tra, khảo sát về thực trạng phát triển du
lịch của Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn và Hà Nội, về ý kiến
của cộng đồng dân cư, cũng như sự quan tâm của các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp đối với sự phát triển du lịch của
các địa phương thuộc HLKT Lạng Sơn - Hà Nội. Kết quả thu
thập được xử lý trên phần mềm SPSS 22.0, là cơ sở để đưa
ra đưa ra các giải pháp cho du lịch Bắc Giang khi liên kết với
các tỉnh, thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội.
Để làm rõ hơn, cụ thể hơn đặc điểm và nhu cầu của
khách du lịch trên tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội nói chung
và Bắc Giang nói riêng, nhóm tác giả bài báo đã tiến hành
khảo sát 02 đối tượng khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế thông qua phiếu điều tra.
- Số lượng cụ thể: Khách du lịch quốc tế 188 phiếu,
khách du lịch nội địa 430 phiếu.
- Quốc tịch khách du lịch quốc tế: Trung Quốc, Pháp, Úc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và các nước Đông Nam Á.
Quy mô mẫu được xác định theo công thức: n = z2x .
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 2 (Apr 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 143
Trong đó:
- n: Quy mô cỡ mẫu
- Độ tin cậy: 95%
- p: 70% đối tượng điều tra đánh giá cao
- e: Sai số cho phép: 5%
- z: giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn
(nếu độ tin cậy là 95% thì giá trị z là 1,96)
- q: 30% đối tượng điều tra đánh giá cao, không cao
z z2 p q e e2 n
1,96 3,8416 70% 30% 5% 0,0025 323
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tiềm năng phát triển du lịch của Bắc Giang
Vị trí địa lí
Tỉnh Bắc Giang thuộc vùng du lịch trung du, miền núi
Bắc Bộ, về phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, Phía
Nam và Đông Nam giáp các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và
Quảng Ninh, phía Tây và Tây Bắc giáp Hà Nội, Thái Nguyên.
Bắc Giang có khoảng cách tương đối gần với những trung
tâm kinh tế, du lịch lớn của cả nước. Từ thành phố Bắc
Giang đi thủ đô Hà Nội khoảng 50km, đi Lạng Sơn 110km,
tới Hải Phòng 100km, đi Thái Nguyên 70km, tới thành phố
Hạ Long (Quảng Ninh): 215km. Từ Bắc Giang có các quốc lộ
1A, 4A, 18, 31A, 37, 279 nối liền với các tỉnh, thành phố của
vùng trung du miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng và
từ đó đi các tỉnh phía Nam. Đường sắt Bắc - Nam chạy qua
địa phận tỉnh đi cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng và nối với
tuyến du lịch xuyên Việt.
Tài nguyên tự nhiên
Được cấu thành bởi các yếu tố như địa chất, địa hình,
khí hậu, thủy văn và sinh vật đã tạo cho Bắc Giang một số
thuận lợi để phát triển du lịch. Nằm trong khu vực nhiệt đới
gió mùa vùng Đông Bắc Việt Nam, thời tiết phân 4 mùa rõ
rệt, địa hình và khí hậu đều mang tính giao thoa chuyển
tiếp giữa đồng bằng và miền núi đã tạo nên sự đa dạng và
phong phú về cảnh quan, trên lãmh thổ Bắc Giang có 3 con
sông lớn chảy qua sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam
vừa cung cấp nước cho nông nghiệp, giao thông vận tải và
du lịch. Bắc Giang còn hấp dẫn du khách bởi nhiều cảnh
quan thiên nhiên đẹp như: khu thắng cảnh Suối Mỡ, hồ
Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần (huyện Lục Ngạn); rừng nguyên
sinh Khe Rỗ, thác Ba Tia, suối Nước Vàng, khu bảo tồn thiên
nhiên Tây Yên Tử (huyện Sơn Động) với hệ động, thực vật
phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều loài quý hiếm được
ghi trong Sách Đỏ Việt Nam Đó là điều kiện thuận lợi để
Bắc Giang phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch
sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá
Tài nguyên văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa: Bắc Giang nổi tiếng là vùng đất
có bề dày truyền thống lịch sử. Tính đến hết năm 2011 toàn
tỉnh đã có 593 trên tổng số 2237 di tích được công nhận
xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật (có
11 di tích quốc gia đặc biệt, 113 di tích được xếp hạng cấp
Quốc gia, 480 di tích cấp tỉnh). Các di tích được xếp hạng
tập trung nhiều ở các huyện Hiệp Hòa, Lạng Giang, Tân
Yên, Lục Nam và Yên Dũng. Nổi bật là thành cổ Xương
Giang (thành phố Bắc Giang); khu di tích cuộc khởi nghĩa
nông dân Yên Thế, khu di tích cách mạng Hoàng Vân, di
tích Y Sơn (huyện Hiệp Hòa); đình, chùa Thổ Hà (huyện Việt
Yên); đình, chùa Tiên Lục và cây Dã hương nghìn năm tuổi
(huyện Lạng Giang) Ngoài ra, vào cuối tháng 3 năm 2012,
Bộ VHTTDL đã có quyết định công nhận thêm 3 di tích cấp
Quốc gia ở Bắc Giang (Di tích lịch sử Chùa Kem - Sùng
Nham Tự - huyện Yên Dũng, di tích lịch sử Cụm di tích Cầu
Vồng - huyện Tân Yên và Di tích lịch sử Các địa điểm liên
quan đến khởi nghĩa Yên Thế tại làng Trũng - b huyện Tân
Yên). Đặc biệt, chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng) - nơi
lưu giữ kho Mộc Bản với 3.050 bản ván khắc đã được
UNESCO công nhận là di sản ký ức thế giới khu vực châu Á -
Thái Bình Dương năm 2012.
Lễ hội: Do có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời và có
nhiều dân tộc anh em sinh sống, Bắc Giang - vùng Kinh Bắc
xưa còn nổi tiếng là miền quê có nhiều lễ hội. Hàng năm có
hơn một nghìn lễ hội được tổ chức ở khắp các thôn quê
trong tỉnh, vào dịp đầu xuân theo phong tục tập quán hầu
hết các địa phương đều tổ chức các lễ hội và trò chơi dân
gian, cùng những lời ca tiếng hát của nhiều dân tộc khác
nhau như: hát chèo, quan họ, then, sli, lượntheo khu vực
thôn xã. Đặc biệt hơn, tại mảnh đất này còn có hơn 20 làng
quan họ dọc sông Cầu còn lưu giữ được rất nhiều truyền
thống và làn điệu Quan họ cổ tiêu biểu đặc sắc cho văn hóa
Kinh Bắc, đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại năm 2009. Các lễ hội này có sức hấp dẫn
lớn đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, các du
khách thập phương. Bắc Giang có lễ hội cổ truyền và lễ hội
mới sáng tạo ra do yêu cầu của thời đại: hội đình, hội đền -
chùa, hội chợ, hội chạ, hội hát và một số lễ hội mới mang
tính chất kỷ niệm lịch sử, điển hình là lễ hội Xương Giang
(thành phố Bắc Giang); Lễ hội Y Sơn (huyện Hiệp Hòa); Lễ hội
đình Thổ Hà, chùa Bổ Đà; Lễ hội bơi chải (huyện Sơn Động);
Hội hát Soonghao (Lục Ngạn); Lễ hội suối Mỡ, Lễ hội chùa
Cao (Lục Nam); Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) Lễ
hội của Bắc Giang luôn gắn liền với các di tích lịch sử-văn
hóa, gắn với một điển tích của di tích, của làng, của xã nơi
diễn ra lễ hội. Mỗi lễ hội ở di tích Lịch sử-Văn hoá của Bắc
Giang đều có đặc trưng, sắc thái riêng, người được thờ trong
các di tích ấy cũng không giống nhau: Có thể là nhân thần,
nhiên thần, cũng có thể là tín ngưỡng thờ phồn thực, thờ
thành hoàng làng, thờ mẫu Nhưng cái chung nhất trong
các lễ hội ở Bắc Giang là du khách được đến với các di sản
văn hóa, với sự ngưỡng mộ các bậc tiền nhân, lòng sùng bái
các anh hùng dân tộc; lòng biết ơn những người đã có công
với dân, với nước, những danh nhân lịch sử - văn hóa. Qua
những tín ngưỡng thờ cúng bằng tấm lòng tôn kính và cùng
nhau cầu mong cho quốc thái, dân an, mỗi người lại tự minh
cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, mong cầu điều tài, cầu an khang
thịnh vượng mỗi khi đi dự hội đầu xuân, cũng như các lệ hội
khác trong năm.
Các tài nguyên văn hóa khác:
Bắc Giang hiện nay là miền đất tụ cư của 27 dân tộc anh
em cùng chung sống đoàn kết, mỗi dân tộc đều mang bản
XÃ HỘI
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 2 (4/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 144
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
sắc văn hóa riêng thể hiện qua tiếng nói, trang phục truyền
thống, nếp sống sinh hoạt, văn hóa ẩm thực, lời ca tiếng
hát và cách thức sản xuất một số nghề thủ công, văn hóa
nghệ thuật dân gian. Những nét văn hóa đặc trưng của dân
tộc ít người còn in đậm nét ở các bản người Dao Đồng Làng
(Sơn Động), bản Sán Chỉ ở Kiên Lao (Lục Ngạn), bản Cao
Lan ở Nghè Mản (Lục Nam) tất cả đã làm nên một Bắc
Giang có một bản sắc văn hóa đa dạng phong phú - cơ sở
để phát triển du lịch văn hóa.
Đặc sản: Đến với lễ hội Bắc Giang, ngoài việc được chiêm
ngưỡng các di tích lịch sử-văn hóa, được hòa mình trong
không khi lễ hội rộn ràng, du khách còn được thưởng thức
các món riêng có của từng vùng miền nơi diễn ra lễ hội như:
Bánh đa ở hội Kế, Bún ở hội Đa Mai, chè kho hội Mỹ Độ (thành
phố Bắc Giang); bánh khúc tai mèo ở hội Thổ Hà, và sẽ thật
thiếu sót khi không nhắc tới đặc sản rượu Vân nổi tiếng đã
thành thương hiệu cả trong và ngoài nước ở hội chùa Vân
(Việt Yên); xôi bẩy mầu, bánh vắt vai, bánh gio ở hội hát
Soonghao, Sli, lượn (Lục Ngạn) và không thể không nhắc
đến vải thiều Lục Ngạn (nổi tiếng cả trong và ngoài nước),
hồng không hạt, na dai (Lục Nam) Ngoài ra, Bắc Giang còn
nổi tiếng với món cơm lam miền núi (Sơn Động, Lục Ngạn),
bánh đúc Đông Quan (Yên Dũng), chả chó làng Dền (TP Bắc
Giang), chả cá Bố Hạ, thịt lợn luộc Mai Sưu,
Nghề thủ công truyền thống: Bắc Giang hiện có 33 làng
nghề, với tổng số trên 6.400 hộ tham gia làm nghề (chiếm
65% tổng số hộ); thu hút khoảng hơn 20.800 nhân khẩu
tham gia nghề, trong đó lao động trong độ tuổi chiếm
68,4%. Thu nhập từ làm nghề tại các làng nghề chiếm
khoảng 80% tổng thu nhập. Điển hình: Làng nghề mây tre
đan Tăng Tiến, xã Tăng Tiến, Việt Yên (Bắc Giang) là nơi có
nghề đan lát truyền thống nổi tiếng từ rất lâu đời. Làng có
lịch sử hình thành nghề đến nay đã hơn 300 năm, khoảng
vào thời nhà Hậu Lê và ngày một phát triển lớn mạnh. Làng
gốm Thổ Hà, gốm làng Ngòi, dệt vải, thêu ren (Lục Nam),
mỳ Chũ, ruợu Làng Vân, bánh đa Kế
Tài nguyên du lịch phong phú, đặc sắc nhưng Bắc Giang
chưa khai thác được hết các lợi thế của mình, du lịch phát
triển còn rất khiêm tốn. Vì vậy, xây dựng các sản phẩm du
lịch mới liên kết với các tỉnh, thành phố theo HLKT Lạng
Sơn - Hà Nội để hình thành các tour, tuyến du lịch nhằm
thu hút khách du lịch đến với Bắc Giang là hết sức cần thiết,
góp phần đẩy mạnh ngành công nghiệp không khói trên
địa bàn tỉnh.
Địa bàn liên kết
Với tiềm năng phong phú, lại nằm cạnh những địa
phương phát triển mạnh về du lịch, nếu biết liên kết, tận
dụng lợi thế, du lịch Bắc Giang sẽ có nhiều cơ hội mới. Bài
báo tập trung vào hướng liên kết giữa Bắc Giang với trung
tâm du lịch Hà Nội, Bắc Ninh và Lạng Sơn, từ đó có thể liên
kết xa hơn với các tỉnh và địa bàn du lịch khác.
Hà Nội là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của cả
vùng với nhiều cơ sở đào tạo có uy tín và nhiều chuyên gia
giỏi. Hà Nội có thể hỗ trợ Bắc Giang đào tạo đội ngũ nhân
lực phục vụ du lịch với nhiều phương thức khác nhau nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du lịch của
địa phương, tạo nên sự thống nhất trong mặt bằng chất
lượng nhân lực. Mặt khác, Bắc Giang là địa phương hội tụ
nhiều yếu tố, lợi thế về loại hình du lịch sinh thái, tâm linh,
văn hóa, ẩm thực... Các doanh nghiệp, tổ chức, công ty du
lịch, dịch vụ, lữ hành tiếp tục đầu tư, liên kết mở tour, tuyến
kết nối Hà Nội với Bắc Giang, Lạng Sơn và ngược lại. Hoạt
động này không chỉ giúp làm phong phú thêm các loại
hình du lịch Hà Nội đến các tỉnh, trong đó có Bắc Giang, mà
qua đây tạo điều kiện thuận lợi để Bắc Giang học hỏi kinh
nghiệm... Các bên giúp đỡ nhau về bồi dưỡng, đào tạo cán
bộ, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư, giới
thiệu, quảng bá hình ảnh du lịch của các địa phương đến
du khách.
Lạng Sơn với lợi thế là cửa ngõ đón khách du lịch Trung
Quốc nên việc thu hút khách Trung Quốc sẽ là nội dung
hợp tác chủ yếu trong phát triển du lịch của Hà Nội - Bắc
Giang, Bắc Ninh và Lạng Sơn. Riêng với Bắc Giang sẽ đẩy
mạnh hoạt động hợp tác kêu gọi đầu tư vào hệ thống hạ
tầng phục vụ ngành du lịch; tạo điều kiện cho các công ty
du lịch Bắc Giang đặt văn phòng đại diện tại Hà Nội. Đặc
biệt, ngành du lịch Hà Nội và hai tỉnh bạn sẽ phối hợp xây
dựng các sản phẩm du lịch mới, thu hút khách trên tuyến
du lịch từ Hà Nội đến Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn và
ngược lại.
Lợi thế này giúp Bắc Giang liên kết xây dựng tour, bao
gồm tour du lịch nội địa, từ Hà Nội và vùng phụ cận lên du
lịch Bắc Giang - Lạng Sơn và đưa khách từ Lạng Sơn về du
lịch Bắc Giang - Hà Nội; nối tour cho khách quốc tế từ Hà
Nội lên du lịch Bắc Giang, Lạng Sơn; khai thác khách du lịch
Trung Quốc, khách du lịch quốc tế đường bộ nối tour Trung
Quốc - Việt Nam... Bắc Giang cũng có thể liên kết xây dựng
và khai thác các sản phẩm như: du lịch Kinh Bắc (du lịch
nông thôn, du lịch làng nghề thủ công truyền thống, du
lịch tín ngưỡng); vòng cung Đông Bắc (du lịch sinh thái, du
lịch trekking); du lịch biên giới, lồng ghép sản phẩm du lịch
Bắc Giang vào các chương trình du lịch miền Bắc và xuyên
Việt (du lịch thăm quan biển, du lịch sinh thái - dân tộc, du
lịch sinh thái - lịch sử, du lịch sinh thái - nông thôn)...
Khách du lịch đến Bắc Giang
Lượng khách du lịch đến Bắc Giang còn khá khiêm tốn,
thấp nhất trong 4 địa phương dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà
Nội. Năm 2018 Hà Nội đón 26,04 triệu lượt khách, tăng gấp
2,11 lần so với năm 2010, gấp 7,5 lần số lượng khách đến
Lạng Sơn, 40 lần số lượng khách đến Bắc Giang, gấp 31,6 lần
số lượng khách đến Bắc Ninh. Sau khi làm việc với các Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch của 4 tỉnh, thành phố (riêng Hà Nội
là Sở Du lịch) và từ kết quả điều tra, phân tích số liệu thực tế,
tác giả bài báo xác định khi có sự liên kết phát triển du lịch
giữa các địa phương dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội, số du
khách thực hiện du lịch theo tuyến HLKT vào năm 2010 đạt
khoảng 15%, năm 2015 khoảng 21%, năm 2018 khoảng 27%
so với tổng khách du lịch của 4 địa phương. Điều đó chứng
tỏ sau khi có quyết định thành lập và phát triển HLKT Lạng
Sơn - Hà Nội (năm 2008), số lượng khách di chuyển theo
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 2 (Apr 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 145
tuyến hành lang có tăng lên, kéo theo số lượng khách du lịch
dừng chân ở Bắc Giang có chiều hướng tăng lên, tuy nhiên
số lượng tăng chưa nhiều. Điều đó chứng tỏ HLKT đã có tác
động đến việc tăng trưởng khách du lịch của Bắc Giang nói
riêng và các địa phương dọc tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội
nói chung, tuy chưa thật sự rõ rệt. Khách du lịch vẫn chủ yếu
đến Hà Nội và di chuyển đến các điểm du lịch hấp dẫn khác
trong cả nước...
Bảng 1. Tổng hợp khách du lịch của tỉnh Bắc Giang và các địa phương dọc
theo tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội
Đơn vị: 1000 lượt người
Địa phương 2010 2015 2018 Tốc độ
tăng BQ
năm(%)
Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT
Toàn lãnh thổ 14.556 2.183 20.222 4.247 31.740 8.569 7,0
Lạng Sơn 1.900 323 2.350 493 3.100 837 5,4
% so tổng số 13,1 13,5 11,6 11,6 11,9 11,9 -
Bắc Giang 160 22 408 86 1.500 405 20,3
% so tổng số 1,1 1,1 2,0 2,0 2,2 2,2 -
Bắc Ninh 196 27 500 106 1.100 297 21,2
% so tổng số 1,4 1,3 2,5 2,5 2,8 2,8 -
Hà Nội 12.300 1.811 16.964 3.562 26.040 7.030 6,7
% so tổng số 84,4 84,5 83,9 83,9 83,1 83,1 -
Nguồn: Tác giả xử lý theo số liệu trong Niên giám thống kê, Quy hoạch phát triển du
lịch của các tỉnh, thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội và số liệu điều tra.
Ghi chú: Tổng số: Tổng số trên địa bàn nghiên cứu; HLKT: Tổng hợp trên
tuyến HLKT.
Kết quả điều tra cho thấy: Khách du lịch quốc tế mới
chủ yếu đến trung tâm đô thị - du lịch Hà Nội và trung tâm
đô thị - du lịch Lạng Sơn, hầu như chưa biết đến trung tâm
đô thị - du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang. Khách du lịch nội địa
chủ yếu đến trung tâm đô thị - du lịch Hà Nội và Lạng Sơn,
ít đến trung tâm đô thị - du lịch Bắc Ninh, Bắc Giang (lượng
khách du lịch chủ yếu đi theo các tour du lịch tâm linh như:
Đền Bà chúa Kho, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Vĩnh
Nghiêm, chùa Bổ Đà, đền Suối Mỡ... và cũng chủ yếu đến
trong ngày), thể hiện cụ thể tại bảng 2.
Bảng 2. Khách du lịch đã từng/chưa từng đến du lịch tại các địa phương trên
tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội
Nội dung Đã từng đến Chưa từng đến
Số lượng (khách) Tỉ lệ (%) Số lượng (khách) Tỉ lệ (%)
Hà Nội 532/618 86,1 86/618 13,9
Bắc Ninh 112/618 18,1 506/618 81,9
Bắc Giang 65/618 18,1 553/618 89,5
Lạng Sơn 345/618 55,8 273/618 44,2
Nguồn: Kết quả phiếu điều tra khách du lịch của tác giả, 2018
- Đa phần khách du lịch ưa thích các điểm đến du lịch
trên tuyến hành lang (đặc biệt là Hà Nội, các địa phương
khác trên tuyến họ chủ yếu đi vào mùa lễ hội), đa số họ hài
lòng với các dịch vụ trong chuyến đi du lịch, tuy nhiên họ
đánh giá công tác tổ chức tại các điểm du lịch không tốt
(61,1%) và họ thể hiện không thích sự lặp lại và nhàm chán
trong các tour du lịch, họ mong muốn trải nghiệm những
sản phẩm du lịch mới, khác lạ, các dịch vụ tốt hơn, đội ngũ
nhân viên du lịch chất lượng ví dụ những sản phẩm du
lịch mới như: du lịch đêm Hà Nội, cảm xúc Hà Nội, du lịch
miền quan họ, du lịch vùng biên
Nguồn khách nội địa đến Bắc Giang, Bắc Ninh và các
tỉnh lân cận, mục đích là tham quan lễ hội và du lịch tín
ngưỡng, làng nghề còn du lịch sinh thái chưa đáng kể. Số
khách du lịch từ tỉnh này phát sinh nhu cầu sang địa
phương khác khi chưa liên kết theo tuyến HLKT khoảng 15-
20% (tức là trong 100 khách du lịch sẽ có 15 - 20 khách phát
sinh nhu cầu đi sang địa phương khác); nhu cầu này sẽ tăng
lên 45 - 60% khi các địa phương có sự liên kết phát triển du
lịch theo tuyến HLKT (tức là 100 khách du lịch sẽ có 45 - 60
khách phát sinh nhu cầu đi sang địa phương khác).
Hầu hết du khách (91,6%) đều đánh giá các địa phương
nên liên kết phát triển du lịch theo tuyến HLKT vì sẽ mang
lại hiệu quả cao hơn và nên mở rộng liên kết ra các tỉnh lân
cận như Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình,
Hiện nay, thực tế tour du lịch kết nối Lạng Sơn - Bắc
Giang - Bắc Ninh - Hà Nội chưa được du khách biết đến và
lựa chọn nhiều, khi được hỏi du khách có mong muốn quay
lại Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang du lịch lần thứ 2 không thì
nhiều du khách (cả trong nước và quốc tế) còn do dự.
Căn cứ vào kết quả này, tác giả bài báo nhận thấy, các
sản phẩm du lịch trên tuyến nói chung và Bắc Giang nói
riêng chưa có sự đổi mới, đa dạng hóa để thu hút đa dạng
đối tượng khách du lịch, giữ chân khách lâu hơn, chi trả cao
hơn cho các dịch vụ du lịch Đặc biệt, các sản phẩm du
lịch chưa thực sự hấp dẫn để du khách muốn quay trở lại
du lịch vào những lần tiếp theo và họ quảng bá cho bạn bè,
người thân đến với trung tâm đô thị - du lịch Lạng Sơn, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hà Nội. Bắc Giang và các địa phương chưa
có sự liên kết chặt chẽ để xây dựng các tuyến du lịch, tour
du lịch mới (trên cơ sở phát triển liên kết trong chuỗi giá trị
du lịch) độc đáo, không trùng lặp, phát huy tối đa lợi thế so
sánh của Bắc Giang và các địa phương dọc theo HLKT Lạng
Sơn - Hà Nội.
Tổng thu du lịch
Các cơ quan thống kê mới chỉ có con số về doanh thu
trực tiếp của hoạt động du lịch như hoạt động dịch vụ lữ
hành, ăn nghỉ ở khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ chưa có số liệu
về doanh thu của các hoạt động liên quan khác như doanh
thu của dịch vụ mua bán hàng hóa, quà lưu niệm, dịch vụ
vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống ngoài khách sạn... Vì thế,
các con số phân tích ở dưới chỉ là số liệu về doanh thu của
một số khâu (lữ hành, ăn nghỉ).
Theo tính toán, điều tra của tác giả bài báo và trên cơ sở
làm việc với các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch của 4 tỉnh,
thành phố (riêng Hà Nội là Sở Du lịch): Tổng thu du lịch trên
tuyến HLKT năm 2010 chiếm khoảng 16%, năm 2015 chiếm
khoảng 23% và năm 2018 chiếm khoảng 29% tổng thu du
lịch của lãnh thổ nghiên cứu.
XÃ HỘI
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 2 (4/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 146
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
Bảng 3. Tổng hợp tổng thu du lịch của Bắc Giang và các địa phương dọc theo
tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội (Giá hiện hành)
Đơn vị: Tỷ đồng
Địa
phương
2010 2015 2018 Tốc độ tăng
bình quân
năm(%)
Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT
Toàn
lãnh thổ
9.244 1.479 56.414 12.989 80.910 21.846 26,2
Lạng
Sơn
508 81,4 2.426 558 2.395 694,6 29,5
% so
tổng số
5,5 5,5 4,3 4,3 4,16 4,16 -
Bắc
Giang
60 9,6 262 61,6 1.300 126 23,2
% so
tổng số
0,6 0,6 0,45 0,45 0,57 0,57 -
Bắc Ninh 268 43 1.410 334,4 1.400 378 30,4
% so
tổng số
2,9 2,9 2,5 2,5 2,3 2,3 -
Hà Nội 8.408 1.345 52.316 12.035 75.815 20.470 26,8
% so
tổng số
90,9 90,9 92,7 92,7 93,1 93,1 -
Nguồn: Tác giả xử lý theo số liệu trong Niên giám thống kê, Quy hoạch phát triển du
lịch của các tỉnh, thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội và số liệu điều tra.
Ghi chú: Tổng số: Tổng số trên địa bàn nghiên cứu; HLKT: Tổng hợp trên
tuyến HLKT.
Trên toàn địa bàn nghiên cứu tổng thu du lịch có sự tăng
trưởng khá từ 2010 đến 2018 (tăng 6.812 tỉ đồng), tốc độ
tăng trưởng doanh thu đạt 26,2 % (thấp hơn mức tăng bình
quân của cả nước). Tổng thu du lịch Bắc Giang cũng tăng
trưởng đáng kể, tuy nhiên tốc độ tăng tổng thu thấp nhất
trong 4 địa phương (Thống kê trên tuyến HLKT, tổng thu du
lịch chiếm 16 - 29% trên toàn địa bàn, tốc độ tăng tổng thu
cũng cao hơn. Tuy nhiên, số ngày lưu trú trung bình của
khách du lịch còn thấp, bình quân chi tiêu/lượt khách còn
chưa cao... ảnh hưởng trực tiếp đến tổng thu du lịch.
Theo kết quả điều tra 91 công ty lữ hành, 96,5% đánh
giá để phát triển tốt du lịch trên tuyến HLKT nên phát triển
chuỗi giá trị du lịch, lúc đó mối quan hệ giữa các công ty lữ
hành, nhà hành khách sạn, các loại hình dịch vụ sẽ chặt
chẽ hơn, bổ sung, hỗ trợ nhau và lúc đó sẽ mang lại hiệu
quả cao hơn, tổng thu du lịch sẽ cao hơn. Vấn đề là các
công ty lữ hành đóng vai trò then chốt phải kết nối và cho
ra đời các sản phẩm du lịch hấp dẫn.
Khi liên kết phát triển du lịch theo tuyến HLKT, tổng thu
du lịch của Bắc Giang và các địa phương dọc theo HLKT
Lạng Sơn - Hà Nội đều chiếm tỉ trọng cao hơn và có xu
lướng tăng dần trên toàn lãnh thổ nghiên cứu. Điều đó
càng chứng tỏ phát triển du lịch theo tuyến HLKT sẽ mang
lại hiệu quả ngày càng cao hơn.
Lao động du lịch
Bảng 4. Tổng hợp lao động ngành du lịch của Bắc Giang so với các tỉnh,
thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội
Đơn vị: Nghìn người
Địa
phương
2010 2015 2018 Tốc độ
tăng
bình
quân
năm(%)
Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT Tổng
số
HLKT
Toàn lãnh
thổ
88 14,5 108,2 25,9 153,8 46,1 9,8
Lạng Sơn 11,2 1,9 16,8 4,1 19,1 6,0 9,3
% so tổng số 12,7 12,9 15,5 15,9 12,4 12,9
Bắc Giang 12,9 2,1 14,9 3,6 17,1 4,8 4,8
% so tổng số 14,7 14,6 13,8 13,9 11,1 10,5
Bắc Ninh 11,4 1,8 18,0 4,3 19,3 5,2 9,2
% so tổng số 12,9 12,5 16,6 16,4 12,5 11,2
Hà Nội 52,5 8,7 58,5 13,9 98,3 30,9 11,0
% so tổng số 59,6 60 54,1 53,8 63,9 65,4
Nguồn: Tác giả xử lý theo số liệu trong Niên giám thống kê, Quy hoạch phát triển du
lịch của các tỉnh, thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội và số liệu điều tra.
Ghi chú: Tổng số: Tổng số trên địa bàn nghiên cứu; HLKT: Tổng hợp trên
tuyến HLKT.
Nguồn lao động du lịch Bắc Giang đã có sự tăng trưởng
đáng kể cả về số lượng và chất lượng, tuy nhiên so với các
tỉnh, thành phố dọc theo HLKT Lạng Sơn - Hà Nội nguồn
lao động du lịch có trình độ của Bắc Giang còn mỏng, tốc
độ tăng trưởng bình quân thấp nhất, số lao động sử dụng
tốt ngoại ngữ không nhiều. Theo tính toán, điều tra của tác
giả và trên cơ sở làm việc với các Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch của 4 tỉnh, thành phố (riêng Hà Nội là Sở Du lịch):
Tổng số lao động du lịch của Bắc Giang nói riêng và 3 tỉnh,
thành phố nói riêng tham gia trên tuyến HLKT năm 2010
chiếm khoảng 16,5%, năm 2015 chiếm khoảng 24% và năm
2016 chiếm khoảng 30% tổng số lao động du lịch của lãnh
thổ nghiên cứu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Cơ sở lưu trú
Số lượng buồng và cơ sở lưu trú của Bắc Giang so với
nhu cầu còn thiếu trầm trọng, năm 2010 có tổng 223 cơ sở
lưu trú với 2380 phòng đến 2018 số lượng cơ sở lư trú đã
tăng lên 312 cơ sở lưu trú với 3150 phòng. Mặc dù thời gian
qua việc đầu tư (cả trong nước và ngoài nước) để nâng cấp
và xây dựng mới các cơ sở lưu trú có chất lượng cao đã
được chú ý tăng cường, song tình trạng thiếu cục bộ các
khách sạn đạt chuẩn vẫn còn tiếp tục diễn ra. Trong những
năm gần đây, hệ thống các cơ sở lưu trú của tư nhân tăng
đáng kể, góp phần tích cực, có hiệu quả trong việc đáp ứng
tạm thời nhu cầu khách sạn. Tuy nhiên, qui mô của các
khách sạn, nhà nghỉ này hạn chế, chất lượng phục vụ còn
kém, đội ngũ nhân viên phục vụ chưa được đào tạo cơ bản,
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 2 (Apr 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 147
các dịch vụ ăn uống, các dịch vụ bổ sung còn đơn điệu...
nên bước đầu chỉ đáp ứng được nhu cầu cho loại khách du
lịch bình dân. Số ngày lưu trú của khách còn thấp (trung
bình khoảng 2 ngày 1 đêm).
Theo kết quả điều tra 80 cơ sở lưu trú đều cho rằng khi
liên kết phát triển du lịch theo tuyến HLKT, số khách lưu trú
sẽ tăng khoảng 10%, mối liên hệ giữa các mắt xích trong
chuỗi giá trị du lịch sẽ mật thiết hơn, 86,7% đối tượng điều
tra cho rằng, hiệu quả phát triển du lịch sẽ cao hơn.
Cơ sở ăn uống, nhà hàng
Số nhà hàng của Bắc Giang có tăng đáng kể từ 2010 đến
2018, khả năng phục vụ của các nhà hàng tăng cao do
được xây mới, tu bổ và sửa chữa, đội ngũ nhân viên phục
vụ chất lượng chưa cao, khả năng phục vụ số lượng khách
đông trong 1 thời điểm còn hạn chế.
Theo kết quả điều tra, 90 nhà hàng được điều tra thì
95,2% cho rằng khi phát triển theo chuỗi giá trị du lịch thì sẽ
mang lại lợi nhuận cao hơn trong lĩnh vực kinh doanh nhà
hàng nói riêng và du lịch trên tuyến hành lang nói chung.
Các cơ sở văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí và cơ sở
phục vụ du lịch khác bao gồm bể bơi, sân tenis, trung tâm
thể thao, sân golf, massage, câu lạc bộ đêm, vũ trường, nhà
hát, cinema... có tác dụng bổ trợ cho hoạt động du lịch, kéo
dài thời gian lưu trú và khuyến khích sự chi tiêu của du
khách. Nhưng hiện nay, các khu vui chơi giải trí này của Bắc
Giang số lượng cũng như chất lượng còn rất hạn chế, mới
chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của người dân địa
phương, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
khách du lịch.
Các tuyến du lịch liên kết
Tuyến du lịch mang tính quốc tế
- Các tuyến du lịch quốc tế theo đường hàng không sân
bay quốc tế từ Lạng Sơn qua Bắc Giang - Bắc Ninh đến sân
bay quốc tế Nội Bài, kết nối với các thị trường quan trọng
của Việt Nam và Hà Nội như Trung Quốc, các nước ASEAN.
- Tuyến du lịch theo QL 1A Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang
- Lạng Sơn: Thu hút khách du lịch trong nước & quốc tế từ
Hà Nội, các tỉnh phụ cận đến Bắc Giang, Bắc Ninh và khách
quốc tế từ các cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) -
Trung Quốc đến tham quan du lịch trong nước, theo đường
bộ hoặc đường sắt liên vận quốc tế (Hà Nội - Trung Quốc,
Hà Nội – Lào). Tuyến du lịch này cũng là một phần của
tuyến xuyên Á.
Tuyến du lịch quốc gia
- Tuyến du lịch theo quốc lộ 1: Từ Lạng Sơn qua Bắc
Giang, Bắc Ninh đến Hà Nội, tiếp tục đi về phía nam du
khách sẽ được thưởng thức các danh thắng của Ninh Bình -
Thanh Hóa như: Cúc Phương, Tam Cốc hoặc ngược chiều
đi Lạng Sơn.
- Tuyến theo quốc lộ 1B nối Lạng Sơn với Thái Nguyên
và thủ đô Hà Nội.
- Tuyến du lịch theo quốc lộ 2: Từ Lạng Sơn qua Bắc
Giang, Bắc Ninh đến Hà Nội và tiếp tục di chuyển du khách
sẽ đến những điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Vĩnh Phúc -
Phú Thọ.
- Tuyến du lịch theo quốc lộ 3: Từ Lạng Sơn qua Bắc
Giang, Bắc Ninh kết nối các điểm du lịch Hà Nội - Thái
Nguyên - Bắc Cạn - Cao Bằng.
- Quốc lộ 5: Từ Lạng Sơn qua Bắc Giang, Bắc Ninh đến
Hà Nội kết nối với các điểm du lịch của Hưng Yên, Hải
Dương, Hải Phòng.
- Tuyến du lịch theo quốc lộ 6: Phát triển du lịch về phía
Tây Nam, từ Lạng Sơn qua Bắc Giang, Bắc Ninh đến Hà Nội
kết nối với không gian du lịch phía Lương Sơn - Kim Bôi -
Hòa Bình.
- Tuyến du lịch theo quốc lộ 32: Từ Lạng Sơn qua Bắc
Giang, Bắc Ninh đến Hà Nội qua các điểm du lịch của thị xã
Sơn Tây và Ba Vì, kết nối với Phú Thọ (Đền Hùng).
- Tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và kết nối với
tuyến đường sắt liên vận quốc tế.
- Tuyến chạy từ Tây sang Đông, từ TP. Thái Nguyên và
Tây Bắc đi qua TP.Bắc Giang theo tuyến QL 37 rồi tiếp tục
qua Bắc Ninh đến Hà Nội.
- Tuyến du lịch: Hành trình theo QL 279 Đồng Mỏ (Lạng
Sơn) - An Châu (Sơn Động, Bắc Giang) - Hạ Long (Quảng
Ninh): Giữ chân khách du lịch từ phía Bắc xuống, quá cảnh
tại An Châu và tham quan một số điểm du lịch thuộc vùng
Đông Bắc của tỉnh từ 1 - 3 ngày.
4. KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và điều tra phỏng vấn
chuyên sâu 16 chuyên gia và 91 doanh nghiệp kinh doanh
lữ hành, tác giả khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát
triển du lịch Bắc Giang theo tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội
như sau:
Bảng 5. Ý kiến của các chuyên gia về các biện pháp để phát triển tốt du lịch
Bắc Giang theo tuyến hành lang Lạng Sơn - Hà Nội
Các sản phẩm du lịch Tổng số
phiếu
thu về
Tổng số ý
kiến đồng
thuận
Tỷ lệ %
đồng
thuận
Hoàn thiện kết cấu hạ tầng phát
triển du lịch.
16 16 100
Hợp tác, liên kết phát triển du lịch 16 16 100
Xây dựng chính sách để phát triển
du lịch theo tuyến HLKT
16 16 100
Hình thành Hiệp hội du lịch 16 14 87,5
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả, 2018
Bảng 6. Ý kiến của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành: Các giải pháp để
phát triển du lịch liên kết của Bắc Giang dọc theo hành lang kinh tế Lạng Sơn -
Hà Nội
Các sản phẩm du lịch Tổng số
phiếu thu
về
Tổng số ý
kiến đồng
thuận
Tỷ lệ %
đồng
thuận
Các địa phương hợp tác liên kết để cho
ra đời sản phẩm du lịch hấp dẫn
91 89 97,8
Hình thành Hiệp hội du lịch trên phạm
vi 4 địa phương
91 80 87,9
XÃ HỘI
Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 56 - Số 2 (4/2020) Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn 148
KINH TẾ P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
Hoàn thiện kết cấu hạ tầng phát triển
du lịch
91 91 100
Xây dựng chính sách để phát triển du
lịch theo tuyến HLKT
91 86 94,5
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả, 2018
Thứ nhất: Đầu tư cho phát triển du lịch
Đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với phát
triển du lịch, để phát triển du lịch Bắc Giang và các địa
phương trên tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội có hiệu quả và
bền vững thì cần phải vừa gia tăng vốn đầu tư cho phát
triển du lịch vừa phải tiến hành đầu tư có trọng điểm và
đồng bộ. Vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển du lịch được
phân bổ theo từng giai đoạn, từng hạng mục, tuy nhiên so
với tổng số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của Bắc
Giang nói riêng và trên tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội nói
chung còn chưa đáng kể. Cần huy động tổng lực các nguồn
vốn cho phát triển du lịch, cả vốn của nhà nước, vốn tư
nhân, vốn FDI Xây dựng chính sách đầu tư thông thoáng,
hấp dẫn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư.
- Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): Có quy hoạch kêu gọi nguồn
vốn FDI ít nhất 2 năm/lần, tổ chức Hội nghị kêu gọi đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực du lịch. Khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài đối với các dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi như Điều
15 Nghị định số 51/1999/NĐ-CP về khuyến khích đầu tư
trong nước; địa bàn ưu đãi có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, và đặc biệt khó khăn, như Điều 16 Nghị định số
51/1999/NĐ-CP và Nghị định số 35/2002/NĐ-CP và mức ưu
đãi quy định tại Điều 18 Nghị định số 51/1999/NĐ-CP.
- Kêu gọi nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),
đặc biệt là từ 3 nhà tài trợ lớn là Ngân hàng Phát triển Thế
giới (WB); Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB); tài trợ của
Chính phủ Nhật Bản. Nguồn tài trợ này chủ yếu đầu tư vào
cơ sở hạ tầng phát triển du lịch các quốc lộ trong tỉnh; trục
giao thông chính; hệ thống đường, cấp điện, cấp nước vào
các khu, điểm du lịch quốc gia..
- Huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các tổ
chức khác: Tạo điều kiện, cung cấp thông tin để các doanh
nghiệp đầu tư vào các cơ sở kinh doanh nhà nghỉ, lữ hành,
khu vui chơi giải trí theo quy hoạch phát triển du lịch của
địa phương; các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư
toàn bộ hay tham gia đầu tư, hình thành các cơ sở đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ du lịch dân lập, bán công phù
hợp với xu hướng xã hội hoá đào tạo của ngành du lịch.
Thứ hai: Hợp tác, liên kết phát triển du lịch
Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ du lịch của Bắc
Giang và các địa phương dọc theo tuyến HLKT phải có
những chính sách cụ thể để phối hợp, liên kết để hình thành
các tour du lịch kết nối các điểm du lịch, khai thác tối đa lợi
thế tài nguyên du lịch của 4 địa phương, bao gồm tour du
lịch nội địa, từ Hà Nội và vùng phụ cận lên du lịch Bắc Giang,
Bắc Ninh, Lạng Sơn và đưa khách từ Lạng Sơn về du lịch Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hà Nội; nối tour cho khách quốc tế từ Hà
Nội lên du lịch Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn; khai thác
khách du lịch Trung Quốc, khách du lịch quốc tế đường bộ
nối tour Trung Quốc - Việt Nam, khách du lịch đến từ các
nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, các nước Châu Âu...
Trước mắt, có thể xem xét xúc tiến mở tour từ Hà Nội
đến một số điểm như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, Đình
Thổ Hà, làng Vân, khu du lịch sinh thái Suối Mỡ, cây dã
hương nghìn tuổi, khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám, khu
vực Tây Yên Tử... (Bắc Giang); khu du lịch Tam Thanh - Nhị
Thanh, chợ đêm Đông Kinh, chùa Tiên, Mẫu Sơn... (Lạng
Sơn) hình thành những "điểm nhấn" để thu hút khách du
lịch trong, ngoài nước, mở đường cho hành trình du lịch từ
Hà Nội tỏa đi Bắc Giang và Lạng Sơn.
Như vậy, trước tiên Bắc Giang cần tích cực liên kết với
hai địa phương Hà Nội và Bắc Ninh, Lạng Sơn để quảng bá,
với mục đích để tên địa danh Bắc Giang có trong các tour
trọng điểm, sau đó mạnh dạn liên kết quảng bá tour với các
địa phương khác trong cả nước và các tỉnh lân cận như Hải
Dương, Hải Phòng, Thái Nguyên, Quảng Ninh
Thứ ba: Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch
Để liên kết phát triển du lịch giữa Bắc Giang và các địa
phương trên tuyến HLKT Lạng Sơn - Hà Nội cần ưu tiên
một số việc sau đây: Hoàn thiện tuyến cao tốc Hà Nội -
Lạng Sơn. Nhanh chóng xây dựng đường cao tốc từ Bắc
Giang đi Lạng Sơn; Hoàn thiện các đoạn đường nối kết
tuyến cao tốc với các diểm, khu du lịch dọc tuyến HLKT
Lạng Sơn - Hà Nội. Xây dựng, nâng cấp các tuyến đường kết
nối đến các điểm du lịch hấp dẫn như hồ Cấm Sơn, hồ
Khuôn Thần, làng văn hóa Đồng Cao
Quy hoạch kết cấu hạ tầng: Cơ bản giữ nguyên tiêu
chuẩn đường cấp III, 2 làn xe như hiện tại đồng thời đẩy
nhanh tiến độ dự án xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Lạng
Sơn, quy mô 4 làn xe. Cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Hà
Nội - Lạng Sơn theo tiêu chuẩn quốc tế khổ 1435mm.
Thứ tư: Hình thành Hiệp hội du lịch trên phạm vi 4 địa
phương
Mục đích của Hiệp hội là liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau
về kinh tế - kỹ thuật về kinh doanh dịch vụ, tạo bình ổn thị
trường, nâng cao giá trị chất lượng, sản phẩm du lịch, khả
năng cạnh tranh trong và ngoài nước của hội viên; đại diện
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội viên.
Nhiệm vụ của Hiệp hội là hướng dẫn, tư vấn, cung cấp
miễn phí thông tin về pháp lý, kinh tế, du lịch cho Hội viên,
tổ chức các loại hình huấn luyện đào tạo nhằm giúp hội
viên nâng cao kiến thức và năng lực kinh doanh; Tạo điều
kiện mở rông kinh doanh cho các Hội viên bằng các hoạt
động khảo sát xây dựng sản phẩm, phát triển thị trường
trong và ngoài nước; các hoạt động xúc tiến du lịch như tổ
chức tham gia sự kiện triển lãm, hội chợ, hội thảo, hội nghị
trong nước và quốc tế; Tổ chức các hoạt động như phát
triển thị trường trong và ngoài nước, khảo sát xây dựng sản
phẩm để hỗ trợ hội viên và phát huy tinh thần tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau giữa các Hội viên nhằm phát triển kinh
doanh có hiệu quả, đúng pháp luật và tổ chức các hoạt
động xã hội đóng góp vào sự phát triển chung của các địa
phương và đất nước.
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 56 - No. 2 (Apr 2020) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 149
Để khuyến khích việc thành lập các Hiệp hội, chính
quyền các địa phương cần hỗ trợ 15 - 20% kinh phí hoạt
động của các Hiệp hội này.
Thứ năm: Phát triển nhân lực du lịch có chất lượng cao
Tập trung các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực du lịch: đảm bảo chất lượng, số lượng, cân
đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo đáp ứng yêu
cầu phát triển du lịch và hội nhập quốc tế. Phát triển mạng
lưới cơ sở đào tạo về du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị
giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa chất lượng giảng
viên; chuẩn hóa giáo trình khung đào tạo du lịch. Xây dựng
và ban hành khung trình độ nghề quốc gia trong lĩnh vực
du lịch tương đương trong khu vực và quốc tế
Các giải pháp này phải phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng
để mang lại hiệu quả cao nhất giữa 3 chủ thể:
- Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm)
chịu trách nhiệm ban hành đường lối, chủ trương phát
triển; ban hành và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách
phát triển du lịch và có trách nhiệm đứng ra thúc đẩy việc
liên kết giữa các doanh nghiệp để phát triển du lịch theo
tuyến HLKT.
- Doanh nghiệp: Với tư các là các tổ chức hay đơn vị
cung ứng dịch vụ du lịch phải căn cứ vào luật pháp, chính
sách của nhà nước để chủ động trong việc phối kết hợp,
liên kết tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu
của du khách.
- Người dân: Có trách nhiệm hưởng ứng, ủng hộ chủ
trương phát triển du lịch, luật pháp, chính sách đối với phát
triển du lịch theo tuyến HLKT trên tinh thần tự giác, thân
thiện và cùng nhau thúc đẩy du lịch phát triển.
5. KẾT LUẬN
Bắc Giang là một tỉnh giàu tiềm năng du lịch, con người
hiền hòa mến khách, lại nằm gần các địa bàn phát triển
mạnh về du lịch, phát triển du lịch chính là một hướng đi
tất yếu của nền kinh tế. Với mục tiêu phát triển mạnh
ngành du lịch, dịch vụ nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, gắn
phát triển du lịch với chương trình xóa đói, giảm nghèo,
Bắc Giang cần phát huy hết những lợi thế về tài nguyên du
lịch và học hỏi kinh nghiệm của những tỉnh lân cận đã phát
triển mạnh về du lịch, thiết lập những tour du lịch liên
vùng, những điểm đến ấn tượng để giữ chân du khách....
Chính vì vậy, liên kết để phát triển du lịch là một hướng đi
mới cho du lịch Bắc Giang - một tỉnh giàu tiềm năng phát
triển du lịch, vị trí địa lý thuận lợi, nhưng chưa phát huy
hết thế mạnh của mình. Nếu khai thác đúng hướng, với
những chính sách, biện pháp hợp lí, chắc chắn du lịch Bắc
Giang sẽ có nhiều khởi sắc. Bắc Giang sẽ không còn là
“vùng trũng” về du lịch của cả nước. Du khách sẽ không
ngày ngày đi qua Bắc Giang để đến với tỉnh khác nữa./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2007. Quy hoạch phát triển hành lang kinh tế
Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đến năm 2020.
[2]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011. Đề án Hành lang kinh tế Lạng Sơn, Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Mộc Bài.
[3]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2014. Quy hoạch phát triển hành lang kinh tế
Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài.
[4]. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2014. Báo cáo đề án “Phát triển các hành lang,
vành đai kinh tế và các cực tăng trưởng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
[5]. Tổ nghiên cứu Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, Trung Quốc, 2008. Phát
triển và vận hành Hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapo, Quảng Tây.
[6]. Tổng cục Du lịch, 2011. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội.
[7]. Tổng cục Thống kê, 2010-2016. Niên giám thống kê Hà Nội. NXB
Thống kê, Hà Nội.
[8]. Tổng cục Thống kê, 2010-2016. Niên giám thống kê Bắc Giang. NXB
Thống kê, Hà Nội.
[9]. Tổng cục Thống kê, 2010-2016. Niên giám thống kê Lạng Sơn. NXB
Thống kê, Hà Nội.
[10].Tổng cục Thống kê, 2010-2016. Niên giám thống kê Bắc Ninh. NXB
Thống kê, Hà Nội.
[11]. UBND Bắc Giang, 2011. Quy hoạch ngành văn hóa, thể thao và du lịch
tỉnh Bắc Giang đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
[12]. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011. Đề án quy
hoạch phát triển HL Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài tham gia
hành lang Xuyên Á Nam Ninh - Singapore.
[13]. Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 2013. Quy hoạch tổng thể phát triển
du lịch Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn đến 2030.
[14]. Hồ Nguyệt Yến, Đỗ Thị Liên Vân, 2016. Phát triển chuỗi giá trị sản phẩm
du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện,
tr 16-44.
[15].
dia-diem-du-lich-o-Bac-Giang-hap-dan-va-thu-vi-nhat (truy cập ngày
25/12/2016)
[16] (truy cập ngày
02/3/2018)
[17].
trien-du-lich-ha-noi-bac-giang-lang-son-qua-cac-hoat-dong-le-hoi-54.html
(truy cập ngày 8/4/2018)
AUTHORS INFORMATION
Le Thu Huong1, Nguyen Thi Ngoc Anh1, Tran Quoc Hung1,
Nguyen Van Truong2
1Faculty of Tourism, Hanoi University of Industry
2Faculty of Fundamental Science, Hanoi University of Industry
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_du_lich_tinh_bac_giang_theo_hanh_lang_kinh_te_lan.pdf