Du lịch Việt Nam từ năm 2016 đến nay
tăng trưởng, phát triển khá cao cả về lượng
và chất. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam vẫn
bộc lộ không ít những tồn tại, hạn chế.
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó
là: cơ chế, chính sách phát triển du lịch còn
thiếu và yếu; chưa biết cách kinh doanh du
lịch theo kiểu chuyên nghiệp; môi trường
du lịch ô nhiễm, thiếu an toàn, lành mạnh;
đầu tư, giao thông và công nghệ thông tin
cho du lịch còn thấp. Để phát triển du lịch
theo hướng bền vững, Việt Nam cần hoàn
thiện cơ chế, chính sách cho phát triển du
lịch; thúc đẩy thực hiện xã hội hóa du lịch;
nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các
dịch vụ; tăng cường đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực du lịch; xây dựng
môi trường du lịch thân thiện, nhân văn
và bền vững; tăng cường đầu tư, xúc
tiến quảng bá và phát triển thị trường du
lịch Việt.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32
Phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững
Tô Đức Hạnh1
1 Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Email: hanhtoduc@gmail.com
Nhận ngày 10 tháng 1 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 4 năm 2019.
Tóm tắt: Việt Nam là quốc gia có tiềm năng to lớn trong phát triển du lịch và Chính phủ đã xác
định đây là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Bài viết phân tích, đánh giá những thành tựu,
những hạn chế và nguyên nhân của du lịch Việt Nam trong những năm qua trên bốn khía cạnh: tốc
độ phát triển du lịch; cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch; các điểm đến và các sản phẩm du lịch; và
năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm tiếp tục phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững.
Từ khóa: Du lịch, phát triển du lịch, Việt Nam, bền vững.
Phân loại ngành: Kinh tế học
Abstract: Vietnam is a country with great potential in tourism development, and the Government
has identified it as a key economic sector of the country. The paper analyses and evaluates the
achievements and limitations of Vietnam's tourism sector over the past years, and their causes,
from four perspectives: the speed of tourism development, infrastructure for tourism development,
tourist destinations and products, and the competitiveness of the sector. On that basis, the author
proposes a number of key solutions to continue developing the sector in a sustainable manner.
Keywords: Tourism, tourism development, Vietnam, sustainable.
Subject classification: Economics
1. Đặt vấn đề
Du lịch là ngành công nghiệp không khói
có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế
của quốc gia, nhất là đối với những quốc
gia có tiềm năng phát triển du lịch. Việt
Nam là một trong những quốc gia có nhiều
tiềm năng trong phát triển du lịch so với
nhiều quốc gia trong khu vực, đặc biệt là
tiềm năng về du lịch biển và du lịch sinh
thái. Nếu có chiến lược phát triển du lịch
đúng đắn, có những chính sách khai thác
Tô Đức Hạnh
33
tiềm năng du lịch hợp lý, phù hợp thì
du lịch Việt Nam sẽ phát triển nhanh và
bền vững.
Những năm qua du lịch Việt Nam đã
được chú ý phát triển, đặc biệt từ năm 2016
đến nay du lịch Việt Nam phát triển mạnh
mẽ, như số lượng khách du lịch và tổng thu
từ du lịch đã không ngừng tăng lên; hàng
chục tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và
hơn 300.000 tỷ VNĐ đã được đầu tư cho hạ
tầng du lịch; các điểm đến và các sản phẩm
du lịch được chú ý mở rộng, phát triển đa
dạng hơn; năng lực cạnh tranh của du lịch
được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, du lịch
Việt Nam trong những năm qua cũng bộc lộ
không ít những tồn tại hạn chế, thua kém
nhiều so với một số quốc gia trong khu vực;
năng lực cạnh tranh của du lịch còn thấp, du
lịch vẫn tiềm ẩn sự phát triển không bền
vững. Vấn đề đặt ra là cần có những nghiên
cứu khoa học để phân tích rõ thực trạng
phát triển của du lịch Việt Nam. Trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển du
lịch Việt Nam theo hướng bền vững.
2. Những thành tựu phát triển du lịch
Việt Nam
Thứ nhất, tốc độ phát triển du lịch tăng về
lượng và chất. Du lịch Việt Nam trong
những năm qua đã không ngừng tăng lên cả
về số lượng khách du lịch và tổng thu từ du
lịch, năm sau cao hơn năm trước.
Về thu hút khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam: năm 2010 mới chỉ là 5,5 triệu
lượt khách, thì năm 2013 tăng lên 7,572
triệu lượt khách, tăng 10,6% so với năm
2012. Năm 2014 thu hút 7,874 triệu lượt
khách, tăng 4,0% so với năm 2013. Năm
2015 là 7,944 triệu lượt khách, tăng 0,9%.
Đặc biệt tốc độ tăng cao bắt đầu từ năm
2016 đến nay. Thu hút khách du lịch năm
2016 đạt 10,012 triệu lượt khách, tăng 26%
so với năm 2015; năm 2017 là 12,9 triệu
lượt khách, tăng 29,1%. Năm 2018 thu hút
15,498 triệu lượt khách, tăng 19,9%.
Về thu hút khách nội địa: năm 2010 đạt
28 triệu lượt khách, năm 2013 tăng lên 35
triệu lượt khách, tăng 7,7% so với năm 2012.
Năm 2014 thu hút 38,5 triệu lượt khách, tăng
10% so với năm 2013. Năm 2015 là 57 triệu
lượt khách và 32,4%; năm 2016 đạt 62 triệu
lượt khách, tăng 8,1% so với năm 2015; năm
2017 là 73,2 triệu lượt khách, tăng 18,1%.
Năm 2018 chỉ tính 6 tháng đầu năm đã thu
hút 42,8 triệu lượt khách, tăng 5,2% so cùng
thời kỳ năm 2017.
Về tổng thu từ du lịch: năm 2010 thu
được 96.000 tỷ VNĐ, năm 2013 tăng
200.000 tỷ đồng. Năm 2014 thu được
230.000 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2013.
Tương tự như vậy, năm 2015 là 337.830 tỷ
đồng và 14,9%; năm 2016 là 417.000 tỷ
đồng và 18,4%; đặc biệt năm 2017 tăng đột
biến là 510.900 tỷ đồng tương đương với 23
tỷ USD và tăng 27,5% so với năm 2016.
Năm 2018 thu được 620.000 tỷ đồng, tăng
21,4 % so năm 2017 [6].
Tốc độ tăng trưởng trung bình ngành du
lịch Việt Nam trong 5 năm qua cao gấp
khoảng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP
chung cả nước; đóng góp trực tiếp 6,6% và
đóng góp chung 13% trong cấu thành GDP
của Việt Nam. Riêng trong năm 2017, du
lịch Việt Nam là một trong những động lực
chính của tăng trưởng kinh tế đất nước,
đóng góp khoảng 1% vào mức tăng trưởng
GDP của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng du
lịch của Việt Nam cao thứ 2 khu vực. Trong
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
34
giai đoạn 2011-2016, du lịch Việt Nam tăng
trưởng 11%, chỉ thấp hơn Myanmar (37%)
và Campuchia (12%). Năm 2016, Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực
(26%), trong khi Indonesia đạt 16% (cao
thứ hai khu vực), Philippines 11%, Thái
Lan 9%, Singapore 8% [7]. Sự phát triển
du lịch Việt Nam đã vượt chỉ tiêu đề ra so
với Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013.
Theo đó là ngành du lịch đón 10-10,5 triệu
lượt khách quốc tế; 47- 48 triệu lượt khách
nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 17-18
tỷ USD [13]. Như vậy, ngành du lịch đã về
đích trước 4 năm so với chiến lược đề ra.
Thứ hai, đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát
triển du lịch ngày càng lớn. Những năm
qua, hàng chục tỷ USD đầu tư trực tiếp
nước ngoài và hơn 300.000 tỷ VNĐ đã
được đầu tư cho hạ tầng du lịch quốc gia,
hình thành hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
du lịch khá hiện đại tại nhiều địa phương có
tiềm năng phát triển du lịch của Việt Nam.
Việt Nam đã thu hút được nhiều nguồn
vốn FDI vào các dự án du lịch, nhiều khu
nghỉ dưỡng ven biển và khách sạn 5 sao đã
được đầu tư. Năm 2015 số lượng các cơ sở
lưu trú du lịch mới có 18.000 cơ sở, đến
cuối năm 2017, cơ sở lưu trú du lịch đã có
hơn 25.000 cơ sở; trong đó có 116 khách
sạn 5 sao, 259 khách sạn 4 sao và 488
khách sạn 3 sao [9] với hàng trăm nghìn
buồng và hàng nghìn doanh nghiệp lữ hành
quốc tế và doanh nghiệp lữ hành nội địa.
Các cơ sở dịch vụ ăn uống, nhà hàng, cơ sở
giải trí văn hóa, thể thao, hội nghị, triển lãm
và nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời; cải
tạo, nâng cấp tại hầu hết các địa bàn phát
triển du lịch trọng điểm. Đặc biệt, hàng
trăm khách sạn trong các khu du lịch cao
cấp được xây mới, hình thành hàng loạt cơ
sở lưu trú (khách sạn và tổ hợp resort) cao
cấp, như: Intercontinental, JW Marriott, hệ
thống khách sạn Mường Thanh, FLC,
VinGroup, SunGroup làm diện mạo
ngành du lịch có những thay đổi khá lớn.
Hệ thống vận tải du lịch, nhất là hàng
không và đường bộ, đang được xã hội hóa
mạnh và ngày càng kết nối rộng rãi với các
điểm đến trong và ngoài nước. Việt Nam
hiện có 52 hãng hàng không quốc tế đến từ
25 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 54 đường
bay quốc tế, 48 đường bay nội địa kết nối
và nhiều đường bay thẳng đến Việt Nam
mới được mở thêm [3].
Thứ ba, các điểm đến và các sản phẩm
du lịch luôn mở rộng, phát triển đa dạng
hơn. Nhiều khu, điểm du lịch được du
khách quốc tế biết đến và yêu thích như:
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, phố
cổ Hà Nội, Văn Miếu - Quốc Tử Giám,
làng gốm sứ Bát Tràng, phố cổ Hội An,
vịnh Hạ Long - quần đảo Cát Bà, Phong
Nha - Kẻ Bàng Các điểm đến này không
chỉ được đánh giá cao ở sự nổi trội của tài
nguyên du lịch, mà còn ở công tác quản lý,
chất lượng dịch vụ, môi trường tự nhiên, xã
hội. Đồng thời trong những năm qua, nhiều
điểm du lịch mới ở nhiều địa phương được
mở ra cũng đang thu hút được nhiều khách
du lịch trong và ngoài nước như: lễ hội Hoa
tam giác mạch ở Đồng Văn, Hà Giang;
Mùa vàng Mù Cang Chải, Yên Bái; Hang
Sơn Đoòng ở Vườn quốc gia Phong Nha -
Kẻ Bàng, Quảng Bình; Phú Quốc; Côn
Đảo... Nhiều điểm đến của Việt Nam được
bầu chọn là điểm đến yêu thích của các tạp
chí danh tiếng về du lịch; nhiều địa danh
được chọn để quay các cảnh đặc sắc của
phim trường Hollywood.
Tô Đức Hạnh
35
Bảng 1: Năng lực cạnh tranh về du lịch và lữ hành của các quốc gia ASEAN [3]
2015 2017 Năm
Quốc gia Khu vực Thế giới Khu vực Thế giới
Singapore 1 11 1 13
Malaysia 2 25 2 26
Thailand 3 35 3 34
Indonesia 4 50 4 42
Vietnam 7 75 6 67
Philippines 6 74 7 79
Lao PDR 8 96 8 94
Cambodia 5 68 9 101
Thứ tư, năng lực cạnh tranh của du lịch
Việt Nam được cải thiện đáng kể. Theo Báo
cáo năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu
của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), năm
2015, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 75/141
quốc gia trong bảng xếp hạng, tăng 5 bậc so
với năm 2013 và đứng thứ 7/9 nước trong
khu vực ASEAN (Brunei không xếp hạng).
Do sự phát triển ấn tượng của du lịch Việt
Nam trong 2 năm 2016 và 2017, nên năm
2017 Việt Nam xếp hạng thứ 67/136 nền
kinh tế, tăng 8 bậc so với năm 2015 và
thuộc nhóm 10 nền kinh tế cải thiện mạnh
nhất về thứ hạng; xếp thứ 6 và đứng đầu về
mức độ cải thiện thứ hạng trong Hiệp hội
ASEAN so với năm 2015 (Bảng 1).
3. Những hạn chế, yếu kém và nguyên
nhân của nó
Thứ nhất, du lịch Việt Nam phát triển khá
mạnh nhưng vẫn thua kém nhiều so với một
số quốc gia trong khu vực. Theo Tổng cục
Du lịch, năm 2016 du lịch Việt Nam phát
triển ấn tượng, thu hút được 10,012 triệu
lượt khách quốc tế, tăng 26% so với năm
2015, nhưng chỉ bằng 31% so với Thái Lan
(32,6 triệu), bằng 37% của Malaysia
(26,8 triệu), 61% của Singapore (16,4
triệu), 83% so với Indonesia (12 triệu) [7].
Năm 2017, tổng thu từ du lịch của Việt
Nam đạt 23 tỷ USD. Trong khi Thái Lan
năm 2013 đã thu được 42,1 tỷ USD, tăng
23,1% so với năm 2012; đứng thứ 7 thế giới
về doanh thu từ khách du lịch quốc tế trong
năm 2013 [12]. Mặc dù Thái Lan không
được thiên nhiên ưu đãi về du lịch như
Việt Nam.
Du lịch Việt Nam chưa thu hút khách có
khả năng chi trả cao. Theo Hiệp hội Du lịch
Việt Nam, trong tổng số khách quốc tế đến
Việt Nam thì khách Châu Á (ít có khả năng
chi trả cao) chiếm 3/4, khách Châu Âu (có
khả năng chi trả cao) chỉ chiếm 1/4. Hơn
nữa số lượng khách quốc tế quay lại lần 2
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
36
cũng rất ít. Theo Hiệp hội Du lịch Châu Á-
Thái Bình Dương (PATA), có đến 40% du
khách quay lại Singapore, 45% khách du
lịch quay lại Thái Lan, còn Việt Nam hơn
80% du khách không quay trở lại.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng du lịch chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Có thể nói hệ
thống cơ sở hạ tầng du lịch của Việt Nam
trong những năm qua cũng đã được cải
thiện đáng kể, nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra và còn nhiều hạn chế, như:
hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp cận điểm đến
còn thiếu đồng bộ; hệ thống cơ sở vật chất
kỹ thuật, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch
phát triển nhanh nhưng nhìn chung quy mô
còn nhỏ lẻ, tiện nghi còn thiếu tính hiện đại
và phong cách vận hành chưa chuyên
nghiệp, chưa hình thành được hệ thống
các khu du lịch quốc gia với thương hiệu
nổi bật.
So với thế giới và khu vực thì cơ sở hạ
tầng du lịch Việt Nam vẫn xếp ở hạng
dưới. Cụ thể, theo WEF thì năm 2015
Việt Nam đứng thứ 94/141 quốc gia và xếp
thứ 7/9 trong các nước ASEAN (Brunei
không xếp hạng), chỉ đứng trên Lào
(100/141), Campuchia (113/141) và
Myanmar (137/141) [3].
Thứ ba, các điểm đến và các sản phẩm
du lịch còn đơn điệu, ít đổi mới. Sản phẩm
du lịch Việt Nam vẫn chậm đổi mới, nghèo
nàn, đơn điệu, thiếu đặc sắc, ít sáng tạo, còn
trùng lặp nhiều giữa các vùng miền, giá trị
gia tăng hàm chứa trong sản phẩm du lịch
thấp, thiếu đồng bộ và thiếu liên kết trong
phát triển sản phẩm. Theo nhận xét của
nhiều chuyên gia kinh tế cũng như các du
khách nước ngoài khi đến Việt Nam cho
rằng: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn
giản, chưa phong phú và đa dạng, các sản
phẩm dịch vụ vui chơi giải trí cũng chưa có
gì độc đáo, đặc sắc. Du khách đến Việt
Nam thường chỉ để tham quan và tắm biển
là chính. Chỉ có hai sản phẩm đặc trưng của
Việt Nam được các du khách nước ngoài ca
ngợi đó là, trang phục “áo dài” và “nón lá”.
Thứ tư, năng lực cạnh tranh của du lịch
Việt Nam còn thấp. Năng lực cạnh tranh
của du lịch Việt Nam chỉ đứng thứ 67 thế
giới và thứ 6/9 nước trong khu vực ASEAN
(thua xa các quốc gia như Singapore xếp
thứ 13 trên thế giới, Malaysia xếp thứ 26,
Thái Lan xếp thứ 34, Indonesia thứ 42) [3].
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế
về phát triển du lịch Việt Nam theo hướng
bền vững như sau:
Một là, cơ chế, chính sách phát triển du
lịch còn thiếu và yếu. Cơ chế, chính sách
của nhà nước về phát triển du lịch chậm ban
hành, thiếu đồng bộ và tính phù hợp chưa
cao. Cụ thể là năm 2013, Chính phủ mới
phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030.
Nhưng đến năm 2016 các chỉ tiêu cơ bản đã
hoàn thành. Năm 2017 phát triển du lịch
mới được xác định là ngành kinh tế mũi
nhọn. Theo đó, các chính sách ưu đãi cho
ngành kinh tế mũi nhọn chưa rõ ràng; chưa
xác định được phương châm “toàn dân làm
du lịch”; chính sách đầu tư cho du lịch chưa
thỏa đáng; chính sách miễn thị thực còn dè
dặt, cầm chừng
Hai là, chưa biết cách kinh doanh du lịch
theo kiểu chuyên nghiệp. Thực tế những
năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng khá
nhanh, đặc biệt là tăng trưởng ấn tượng 2
năm 2016-2017 vẫn chủ yếu là dựa vào thế
mạnh về du lịch mà tự nhiên ban, chưa phải
là cách kinh doanh du lịch chuyên nghiệp.
Các địa phương thường chỉ khai thác theo
kiểu “tận thu”, chỉ thấy lợi ích trước mắt
chưa có chiến lược giữ gìn, xây dựng, phát
triển vì lợi ích lâu dài.
Tô Đức Hạnh
37
Ba là, đội ngũ nguồn nhân lực du lịch
vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất
lượng, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chất
lượng cao. Theo thống kê của Tổng cục Du
lịch, mỗi năm toàn ngành cần thêm gần
40.000 lao động; nhưng chỉ có khoảng
20.000 lao động tốt nghiệp từ các cơ sở đào
tạo, trong số đó chỉ có khoảng 1.800 sinh
viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp;
2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch, còn
lại là học sinh trung cấp, sơ cấp và đào tạo
ngắn hạn dưới ba tháng [3].
Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực do các
cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh
nghiệp, nhất là nguồn nhân lực quản lý.
Ngay cả khi tuyển đúng người học ngành
du lịch, các doanh nghiệp vẫn mất thời
gian, công sức đào tạo lại. Nguồn nhân lực
du lịch Việt Nam còn bộc lộ nhiều mặt yếu
kém, như: ngoại ngữ, chuyên môn văn hóa,
lịch sử, kiến thức cuộc sống, sử dụng công
nghệ hiện đại cũng như năng lực đối ngoại.
Ngoài ra Việt Nam còn thiếu cả đội ngũ
doanh nhân lãnh đạo doanh nghiệp du lịch
có bản lĩnh, sáng tạo, tự tin
Bốn là, môi trường du lịch ô nhiễm,
thiếu an toàn, lành mạnh. Nhiều khu, điểm
du lịch Việt Nam môi trường chưa đảm
bảo, còn bị ô nhiễm nhiều; còn tồn tại
không ít những hiện tượng lừa đảo, ăn xin,
trộm cắp, làm giá, “chặt chém” và đặc biệt
là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm chưa
đảm bảo.
Theo thống kê của Ban quản lý Khu bảo
tồn biển vịnh Nha Trang, mỗi ngày có
khoảng 10 tấn rác thải du lịch, cộng với rác
thải sinh hoạt, nhà vệ sinh của cư dân đổ
xuống biển. Một số nơi du lịch phát triển
sinh thái phát triển quá “nóng” lại mang
tính mùa vụ, gây ra những tác động tiêu cực
về môi trường, cảnh quan. Tại Vườn Quốc
gia Hoàng Liên (Lào Cai) xây dựng nhà
máy thủy điện; ồ ạt đưa du khách lên khám
phá Phan Xi Păng, trong khi công tác quản
lý còn bất cập tác động tiêu cực đến hệ sinh
thái. Tại Vườn Quốc gia Cúc Phương, du
khách tụ tập đốt lửa trại, ăn uống la hét,
hoặc karaoke, đua xe khiến thú rừng
hoảng hốt sợ hãi, cỏ cây bị tàn phá và nguy
cơ cháy rừng...
Kỳ nghỉ lễ 30-4 và 1-5-2017, tại Tp. Hạ
Long và Tp. Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh)
một số cơ sở lưu trú đã tự ý nâng giá phòng
lên cao gấp 4-5 lần so với ngày thường.
Một số nhà nghỉ ở phường Bãi Cháy, Tp.
Hạ Long đưa ra giá thuê một phòng đôi là
1,5 triệu đồng/phòng/đêm (trong khi mức
giá được niêm yết tại quầy lễ tân chỉ
250.000 đồng/đêm). Vé tàu du lịch tại Cảng
khách quốc tế Tuần Châu các đối tượng
“cò” đã thu của khách là 150 nghìn
đồng/khách (trong khi giá vé niêm yết là
100.000 đồng/khách). Tại Thanh Hóa, giá
ghẹ lên tới 1 triệu đồng/kg, cao gấp 2 lần so
với giá ghẹ ngày bình thường [8].
Vẫn còn những hiện tượng khách nước
ngoài bị lừa đảo phải mua một túi bánh rán
với giá 700.000 đồng ngay tại phố cổ Hà Nội;
đánh sửa giày: 500.000 đồng; đi xe taxi 5km
mất 600.000 đồng; mua một quả dừa 500.000
đồng [11].
Năm là, đầu tư, giao thông và công nghệ
thông tin cho du lịch còn thấp. Đầu tư cho
du lịch của Việt Nam còn thấp nhiều so với
khu vực. Đơn cử như đầu tư cho xúc tiến
quảng bá du lịch của Việt Nam năm 2016 chỉ
chi khoảng 2 triệu USD, trong khi đó Thái
Lan đầu tư 69 triệu USD, Malaysia 105 triệu
USD, Singapore 80 triệu USD, Indonesia 200
triệu USD, Philippines 54 triệu USD [9].
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
38
Giao thông nói chung và giao thông đến
các điểm du lịch Việt Nam đã được cải
thiện nhiều, nhưng vẫn còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển du lịch. Như
tốc độ giao thông thấp, nạn kẹt xe ở thành
phố nhiều, ý thức người tham gia giao
thông kém, coi thường luật, tai nạn giao
thông cao Áp dụng công nghệ cao trong
quảng bá marketing du lịch còn thấp.
4. Một số giải pháp phát triển du lịch
Việt Nam theo hướng bền vững
Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho
phát triển du lịch. Để du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn thực sự, cần phải
có các chính sách đồng bộ hỗ trợ cho nó
phát triển. Đó là các chính sách đầu tư phát
triển hạ tầng cho du lịch; chính sách đào tạo
nguồn nhân lực du lịch; chính sách phát
triển các điểm, khu du lịch; chính sách sản
phẩm du lịch; chính sách tài chính, tín dụng
thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư kinh
doanh du lịch; chính sách miễn thị thực
nhập cảnh cho công dân nước ngoài đến du
lịch tại Việt Nam (cần mở rộng hơn nữa
việc miễn thị thực nhập cảnh cho công dân
các quốc gia. Hiện tại Việt Nam mới miễn
thị thực nhập cảnh cho công dân 22 nước,
trong khi Indonesia miễn cho 169 nước và
vùng lãnh thổ; Singapore là 158, Philippines
157, Malaysia 155 và Thái Lan miễn cho 61
nước và vùng lãnh thổ) [12]...
Hai là, thúc đẩy thực hiện xã hội hóa du
lịch. Phát triển du lịch không chỉ là nhiệm
vụ của ngành du lịch, của Chính phủ mà
phải là công việc của toàn xã hội, của cả hệ
thống chính trị, các cấp, các ngành và của
mỗi người dân. Phải thực hiện phương
châm “toàn dân làm du lịch”, phải có sự
thống nhất cả về ý chí, hành động và sự liên
kết của các cấp, các ngành từ trung ương
đến địa phương. Chỉ có như vậy thì du lịch
mới phát triển ổn định, bền vững cả về số
lượng và chất lượng. Kinh nghiệm phát
triển du lịch của Thái Lan đã chứng minh
điều đó. Du lịch Thái Lan phát triển được
như ngày nay là bắt nguồn từ nhận thức đến
hành động từ Nhà Vua, đến Chính phủ và
người dân.
Ba là, nâng cao chất lượng và đa dạng
hóa các dịch vụ du lịch. Cần quy hoạch, sắp
xếp, nâng cấp, xây dựng các cơ sở dịch vụ:
nhà nghỉ, y tế, ăn uống, vui chơi giải trí
đồng bộ, tiện ích và hiện đại. Đồng thời
phải quản lý chặt chẽ các loại dịch vụ, phí
dịch vụ phục vụ du khách. Nâng cao ý thức
đạo đức phục vụ trong kinh doanh du lịch.
Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các
sản phẩm du lịch, nhất là các chuỗi liên kết
và dịch vụ, phải tăng cường kết nối liên
ngành, liên vùng, tạo ra chuỗi sản phẩm,
dịch vụ vừa đa dạng, phong phú, đáp ứng
tiêu chuẩn du lịch quốc tế nhưng vẫn mang
những nét đặc trưng riêng của từng vùng,
miền. Qua đó cải thiện tỷ lệ quay trở lại của
du khách quốc tế. Mặt khác cần bảo tồn,
phát triển, quảng bá, xây dựng hình ảnh và
thương hiệu du lịch quốc gia Việt Nam.
Đẩy mạnh liên kết với các nước trong khu
vực, khai thác triệt để tuyến hành lang Đông -
Tây, hình thành các tour, tuyến du lịch liên
quốc gia, như: chương trình liên kết du lịch
giữa Việt Nam - Campuchia - Lào, tuyến
đường bộ 3 nước Việt Nam - Lào - Thái Lan
và xa hơn nữa là liên kết một số nước trong
nội khối ASEAN.
Bốn là, tăng cường đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Suy cho
cùng nguồn nhân lực luôn là nhân tố quyết
Tô Đức Hạnh
39
định phát triển du lịch bền vững. Nguồn
nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay vừa
thiếu lại vừa yếu, do đó phát triển đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch
là công việc rất cần thiết hiện nay. Tăng
cường đào tạo, nâng cao chất lượng lao
động trực tiếp và lao động quản lý, nhất là
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng
cao. Nâng cao chất lượng nhân lực du lịch
thông qua việc trang bị kiến thức về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ du lịch, lịch sử
dân tộc, ngoại ngữ, tin học, ứng sử, am hiểu
thị trường, am hiểu luật pháp trong nước và
quốc tế
Năm là, xây dựng môi trường du lịch
thân thiện, nhân văn và bền vững. Đẩy
mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức của mỗi người
dân, cộng đồng xã hội về trách nhiệm bảo
vệ môi trường du lịch, tích cực tham gia
xây dựng phong trào ứng xử văn minh thân
thiện với du khách, giữ gìn trật tự trị an
gắn liền với việc tăng cường quản lý của
các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội,
nghề nghiệp. Thẳng tay và kiên quyết xóa
bỏ các hiện tượng lừa đảo, ăn xin, trộm cắp,
làm giá và đặc biệt là khâu đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm phục vụ du lịch một
cách triệt để.
Sáu là, tăng cường đầu tư, xúc tiến
quảng bá và phát triển thị trường du lịch
Việt. Xã hội hóa, tăng cường huy động
nguồn lực đầu tư cho du lịch. Để tạo ra
những sản phẩm độc đáo có tính cạnh tranh
cao cho du khách, các nước có du lịch phát
triển trong khu vực cũng phải đầu tư hàng
tỷ USD, như: Thái Lan đã đầu tư các khu
du lịch vui chơi giải trí có danh tiếng
Pattaya, thuần hóa, huấn luyện các động
vật hung dữ như sư tử, cá sấu, rắn độc
trở nên thân thiện gần gũi với con người,
bảo tồn xây dựng “công viên bướm”;
Singapore đầu tư xây dựng “công viên chim
tự nhiên”; Malaysia đầu tư xây dựng những
khu vui chơi giải trí sầm uất như cao
nguyên Genting Việt Nam cần phải có
chính sách khuyến khích thu hút các nhà
đầu tư cả trong và ngoài nước đầu tư xây
dựng các khu du lịch danh tiếng để có
những sản phẩm du lịch độc đáo, tạo ấn
tượng sâu sắc cho du khách.
Tăng đầu tư đẩy mạnh xúc tiến, quảng
bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp nhằm
vào thị trường mục tiêu, lấy sản phẩm du
lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm;
quảng bá du lịch gắn với quảng bá hình ảnh
quốc gia, phù hợp với các mục tiêu đã xác
định; gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến
thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao,
văn hóa. Không thể để tồn tại thực trạng
đầu tư cho xúc tiến quảng bá du lịch Việt
Nam chỉ bằng khoảng 1/50 của các nước
trong khu vực như hiện nay.
Tập trung thu hút có lựa chọn các phân
đoạn thị trường khách du lịch. Phát triển
mạnh thị trường du lịch nội địa. Tăng
cường thu hút khách du lịch quốc tế, đặc
biệt là khách ở các quốc gia có khả năng chi
trả cao. Bên cạnh đó, cần phát triển thương
hiệu du lịch quốc gia trên cơ sở thương hiệu
du lịch vùng, địa phương, doanh nghiệp và
thương hiệu sản phẩm. Chú trọng phát triển
những thương hiệu có vị thế cạnh tranh cao.
5. Kết luận
Du lịch Việt Nam từ năm 2016 đến nay
tăng trưởng, phát triển khá cao cả về lượng
và chất. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam vẫn
bộc lộ không ít những tồn tại, hạn chế.
Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
40
là: cơ chế, chính sách phát triển du lịch còn
thiếu và yếu; chưa biết cách kinh doanh du
lịch theo kiểu chuyên nghiệp; môi trường
du lịch ô nhiễm, thiếu an toàn, lành mạnh;
đầu tư, giao thông và công nghệ thông tin
cho du lịch còn thấp. Để phát triển du lịch
theo hướng bền vững, Việt Nam cần hoàn
thiện cơ chế, chính sách cho phát triển du
lịch; thúc đẩy thực hiện xã hội hóa du lịch;
nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các
dịch vụ; tăng cường đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực du lịch; xây dựng
môi trường du lịch thân thiện, nhân văn
và bền vững; tăng cường đầu tư, xúc
tiến quảng bá và phát triển thị trường du
lịch Việt.
Tài liệu tham khảo
[1] Văn Dương (2017), Tình hình du lịch Việt
Nam, cơ hội thách thức trong hội nhập quốc tế,
1585, truy cập ngày 15/11/2018.
[2] Quang Hiệu (2018), Cao Bằng chính thức trở
thành công viên địa chất Toàn cầu,
https://vtv.vn/trong-nuoc/cao-bang-chinh-thuc-
tro-thanh-cong-vien-dia-chat-toan-cau-
201811250743459.htm, truy cập ngày
15/11/2018.
[3] Laodong.vn (2018), Du lịch Việt Nam đã có
bước phát triển vượt bậc, https://laodong.vn/du-
lich/618565.ldo, truy cập ngày 15/11/2018.
[4] Nguyễn Tùng Lâm (2017), Một số giải pháp
phát triển ngành du lịch Việt Nam,
121641.html, truy cập ngày 15/11/2018.
[5] Phương Liên (2017), Du lịch Việt Nam đang đứng
ở đâu trong ASEAN?,
index.php/items/24110, truy cập ngày 5/11/2018.
[6] Huệ Linh (2017), Nạn “chặt chém” kìm hãm sự
phát triển du lịch,
index.php/items/24110, truy cập ngày 15/11/2018.
[7] Nguyễn Quốc Kỳ (2018), Du lịch Việt Nam:
Cơ hội và thách thức,
2402-13863.html, truy cập ngày 15/11/2018.
[8] Đoàn Bích Ngọ (2017), 26 Di sản văn hóa ở
Việt Nam được vinh danh là Di sản Thế giới,
truy
cập ngày 15/11/2018.
[9] K Nguyễn (2017), Quốc gia nào có sức “hấp
dẫn” khách du lịch lớn nhất khu vực Đông Nam
Á? 20170504081336486.chn,
truy cập ngày 15/11/2018.
[10] Thủy Nguyễn (2016), Chính sách miễn thị thực của
các nước ASEAN,
02-9358.html, truy cập ngày 15/11/2018.
[11] Minh Thi, Bích Hà (2017), Còn “chặt chém”
còn mất khách du lịch, https://laodong.vn/kinh-
te/ 520926.ldo, truy cập ngày 15/11/2018.
[12] Nguyễn Xuân Thiên, Hà Minh Tuấn (2016),
Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan
và một số gợi ý đối với Việt Nam,
truy cập ngày
15/11/2018.
[13] Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định
số: 201/QĐ-TTg, ngày 22/01/2013 về Phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
[14] Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm
2016, https://www.gso.gov.vn/ default.aspx?
tabid=621&ItemID=16174, truy cập ngày
15/11/2018.
[15] Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế xã hội năm
2017, https://www.gso.gov.vn/default.aspx?
tabid=621&ItemID=18668, truy cập ngày
15/11/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_du_lich_viet_nam_theo_huong_ben_vung.pdf