Kết luận
Hệ thống cảng biển Việt Nam đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong hoạt động
Logistics phục vụ các hoạt động xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp. Việt Nam là một
quốc gia thu hút các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài (FDI), nhưng nếu chúng ta không
phát triển đồng bộ cảng biển thì dẫn đến tắc
nghẽn lưu thông hàng hóa làm giảm hiệu quả
kinh tế của các doanh nghiệp và lãng phí của
nền kinh tế. Chính vì vậy, phát triển hệ thống
cảng biển là không chỉ phát triển mỗi cảng
mà còn phải phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông phục vụ cảng, mạnh dạn áp dụng công
nghệ thông tin, đầu tư hạ tầng và đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao đang là đòi
hỏi cấp bách để phát triển kinh tế hàng hải
nước ta trong giai đoạn hội nhập hiện nay
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đáp ứng phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
95
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CẢNG BIỂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
DEVELOPING VIETNAM SEAPORT SYSTEM TO MEET ECONOMIC
GROWTH IN INTERNATIONAL INTEGRATION PERIOD
Phạm Văn Tài
Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại
Tóm tắt: Tăng trưởng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) trong những năm gần đây tăng tốc
đột biến tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất. Khi chiến tranh thương mại Trung Quốc - Hoa
Kỳ xảy ra, các công ty nước ngoài tại Trung Quốc di chuyển nhà máy sang các nước khác tại Đông
Nam Á, trong đó Việt Nam là một trong những địa chỉ ưu tiên hàng đầu. Vận chuyển nguyên vật liệu
và hàng hóa của các công ty FDI là một bài toán được đưa lên hàng đầu trong quản trị chuỗi cung
ứng của các doanh nghiệp này. Đối với Nhà nước, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ nền
kinh tế nói chung và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng là ưu tiên hàng
đầu. Bài viết này nhằm phân tích các cơ hội phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam nhằm giảm chi
phí và phục vụ phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hội nhập sâu rộng hiện nay.
Từ khóa: Phát triển, hệ thống cảng biển, kinh tế, hội nhập.
Chỉ số phân loại: 3.2
Abstract: Recently, there is significantly increase in foreign direct investment (FDI) in Vietnam,
especially in production sector. When the US-China trade war was triggered, many foreign companies
in China wanted to move their factories to other countries in Southeast Region and Vietnam is their
top priority. Transporting raw materials and complete products of those factories must be considered
carefully in supply chain management. At the side of government, building transportation
infrastructure must be the priority to supply growing economy and attract more foreign investors to
invest in Vietnam. This research paper is aimed at analyzing Vietnam opportunities to develop
Vietnam seaport system to meet the requirement of economic growth in international integration
currently.
Keywords: Development, seaport system, economy, integration
Classification number: 3.2
1. Giới thiệu
Theo tổng quan chung về vị trí địa lý
Việt Nam thì có thể nói rằng, điều kiện về vị
trí địa lý của Việt Nam rất có lợi cho giao
thương buôn bán cũng như cho hoạt động
Logistics phát triển. Việt Nam là quốc gia
nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển
Thái Bình Dương. Việt Nam có diện tích
327.500 km2 với đường biên giới trên đất
liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với
Trung Quốc, phía Tây tiếp giáp với Lào và
Campuchia; phía Đông giáp biển Đông. Trên
bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ
S, kéo dài từ vĩ độ 23°23' Bắc đến 8°27' Bắc,
dài 1.650 km theo hướng Bắc - Nam, phần
rộng nhất trên đất liền chừng 500 km; nơi
hẹp nhất gần 50 km. Thêm vào đó, Việt Nam
nằm trên ngã tư đường hàng hải và hàng
không quốc tế quan trọng tạo điều kiện giúp
Việt Nam trở thành cửa ngõ giao thương
buôn bán giữa các nước trên khu vực và thế
giới. Ba mặt giáp biển (Đông, Nam và Tây
Nam) chính là một nhân tố hết sức thuận lợi
cho ngành vận tải biển ở Việt Nam có điều
kiện phát triển. Với sự ưu đãi mà thiên nhiên
ban tặng, Việt Nam không những có nhiều
thuận lợi để mở rộng giao lưu buôn bán với
các quốc gia, các khu vực trên thế giới mà
còn có thể sẽ trở thành nơi trung chuyển hàng
hóa trong khu vục.
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á,
một khu vực có nền kinh tế trẻ và năng động.
Nhờ điều này mà Việt Nam thu hút được
nguồn vốn đầu tư của thế giới để có thể xây
dựng được cơ sở hạ tầng cho sự phát triển
kinh tế đất nước. Đồng thời, với vị thế là một
nền kinh tế trẻ, việc giao thương buôn bán
trong khu vực và thế giới cũng sẽ có tác động
tích cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế,
nhờ đó, các quá trình sản xuất, lưu thông
96
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
phân phối hàng hóa sẽ có điều kiện để phát
triển hơn nữa.
Tuy nhiên, việc nằm ở vị trí trung tâm
như vậy, không thể không có những khó
khăn và thách thức. Chính vị trí địa lý của
Việt Nam nằm ở khu vực là nền kinh tế trẻ
năng động đã khiến cho Việt Nam phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các quốc
gia cùng khu vực về tất cả các lĩnh vực, đặc
biệt là xuất nhập khẩu. Điều này cũng tác
động không tốt đến sự phát triển của các hoạt
động Logistics khi mà sự chia sẻ thị trường
và lợi nhuận luôn diễn ra gay gắt như hiện
nay.
2. Thực trạng hệ thống cảng biển Việt
Nam
Việt Nam được coi là một trong số
những quốc gia có tiềm năng rất lớn cho sự
phát triển ngành công nghiệp vận tải biển với
chiều dài bờ biển trên 3.260 km, cùng với
nhiều cảng biển sâu và rộng. Trải dài khắp
đất nước là hệ thống vùng, vịnh và cửa sông
nối liền với châu Á Thái Bình Dương, đó là
một điểm rất thuận tiện để Việt Nam xây
dựng và phát triển đội tàu biển quốc gia và
các cơ sở công nghiệp đóng và sửa chữa tàu
biển cũng như thực hiện các dịch về hàng hải
thương mại khác.
Theo quy hoạch phát triển cảng biển
Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 của chính phủ, hệ thống cảng biển
Việt Nam được chia thành 6 nhóm [8]:
- Nhóm 1: Nhóm cảng biển phía Bắc từ
Quảng Ninh đến Ninh Bình;
- Nhóm 2: Nhóm cảng biển Bắc Trung
Bộ từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh;
- Nhóm 3: Nhóm cảng biển Trung Trung
Bộ từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi;
- Nhóm 4: Nhóm cảng biển Nam Trung
Bộ từ Bình Định đến Bình Thuận;
- Nhóm 5: Nhóm cảng biển Đông Nam
Bộ (bao gồm cả Côn Đảo và trên sông Soài
Rạp thuộc địa bàn tỉnh Long An);
- Nhóm 6: Nhóm cảng biển đồng bằng
sông Cửu Long (bao gồm cả Phú Quốc và
các đảo Tây Nam).
Đến nay, theo số liệu của Cục Hàng hải
thì toàn quốc có 49 cảng biển được phân loại
thành 23 cảng biển loại I, 17 càng biến loại II
và 9 cảng biển loại III. Ngoài ra Việt Nam
còn xây dựng được 166 bến cảng lớn nhỏ
thuộc hệ thống các cảng đã được phân loại
nêu trên trải dài xuyên suốt lãnh thổ. Như
vậy có thể thấy hệ thống cảng biển Việt Nam
khá nhiều, có thể đáp ứng cho nhu cầu phát
triển của ngành Logistics. Các cảng biển ở
Việt Nam có mặt dọc theo chiều dài đất
nước, từ Bắc đến Nam và năng lực của một
số cảng biển cũng được đánh giá là khá cao,
có khả năng tiếp nhận những tàu có trọng tải
lớn lên đến 65.000 DWT (cảng Cẩm Phả),
60.000 DWT (cảng Sài Gòn, cảng Phú Mỹ)
50.000 DWT (cảng Quảng Ninh) và các cảng
như cảng Hải Phòng, Đình Vũ, Vũng Áng,
Đà Nằng có thể tiếp nhận tàu có trọng tải từ
40.000 DWT - 45.000 DWT (VLA, 2019)
[1],[2].
Năm 2018, sản lượng hàng hóa thông
qua hệ thống cảng biển Việt Nam ước đạt
524,7 triệu tấn, tăng 19%, theo Cục Hàng hải
Việt Nam. Trong đó, không bao gồm sản
lượng hàng hóa quá cảnh không bốc dỡ,
riêng khối lượng hàng container thông qua
cảng biển năm qua ước đạt 17,8 triệu TEU (1
TEU tương đương container 20 feet, chiếm
thể tích khoảng 39 m3), tăng 24% so với năm
2017. Ngoài ra, lượng hành khách qua cảng
tăng gần 29% so với năm trước, đạt 5,8 triệu
hành khách.
Tổng sản lượng hàng hóa thông qua
cảng biển của các phương tiện thủy nội địa
năm qua ước đạt 171,6 triệu tấn, tăng hơn
30% và số lượt phương tiện ra vào cảng đạt
30.200 lượt, tăng gần 40% so với năm trước.
Hiện tổng số bến cảng là 272 bến cảng, tổng
công suất trên 550 triệu tấn/năm.
Thống kê cũng cho thấy, Việt Nam tính
đến hết năm 2018 có gần 1.600 tàu biển với
tổng trọng tải lên đến 7,8 triệu DWT (đơn vị
đo năng lực vận tải an toàn tính bằng tấn –
7,8 triệu tấn), đứng thứ tư trong khu vực
ASEAN và thứ 30 trên thế giới. Đặc biệt, đội
tàu container đã tăng hơn gấp đôi trong năm
năm qua, từ 19 tàu vào năm 2013 lên 41 tàu
trong năm 2018 (Cục Hàng hải, 2019).
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
97
Bảng 1. Mục tiêu cụ thể phát triển cảng biển Việt Nam đến năm 2020 định hướng 2030.
Đơn vị tính: Triệu tấn
Năm Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6
2015 11 ~ 117 46,7 ~ 48 31~32,5 24~25 172 ~175 10 ~11,2
2020 153~ 164 101 ~106 56,5 ~70 61~ 62,5 238 ~248 25~ 28
2030 260 ~295 171 ~182 97,4 ~115 85,4 ~91,3 358,5~411,5 66,5 ~71,5
Nguồn. Quyết định 1037/QĐ-TTG về Phê duyệt qui hoạch
phát triển cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
Vị trí cảng rất thuận lợi cho việc chuyên
chở hàng hóa từ Thành phố Hồ Chí Minh đi
khắp nơi trên thế giới và là nơi tiếp nhận
container từ nước ngoài về. Các nhà đầu tư
nước ngoài khi vào Việt Nam đã rất để ý đến
khu chế xuất Tân Thuận bởi vì một lý do hết
sức quan trọng đó là việc vận chuyển hàng
hóa thuận tiện thông qua cảng VICT.
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, tính đến
thời điểm hiện tại, Việt Nam có tổng số bến
cảng được công bố là 272 bến cảng với
khoảng 92,2km chiều dài cầu cảng, tổng
công suất trên 550 triệu tấn/năm. So với năm
2000 (năm đầu tiên thực hiện quy hoạch phát
triển hệ thống cảng biển Việt Nam) hệ thống
cảng biển đã tăng 4,4 lần chiều dài bến cảng.
Năng lực bến cảng ngày càng được quan tâm
nâng cấp, cải tạo để tiếp nhận các tàu có
trọng tải ngày càng lớn. Hầu hết các cảng
tổng hợp, đầu mối đã đón được tàu có trọng
tải đến 30.000 DWT. Có những bến cảng
được đầu tư, có khả năng đón được tàu
container lớn nhất từ trước đến nay (196.000
DWT) như bến cảng CMIT ở khu vực Cái
Mép - Thị Vải.
Năm 2018, bến cảng cửa ngõ quốc tế
Hải Phòng tại Lạch Huyện chính thức khánh
thành, đưa vào khai thác hai bến khởi động,
có thể tiếp nhận tàu trọng tải 100.000 DWT.
Cũng trong năm 2018, sản lượng hàng
hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam
ước đạt 524,7 triệu tấn, trong đó, khối lượng
hàng container thông qua cảng biển ước đạt
17,8 triệu TEU, tăng lần lượt 19% và 24% so
với năm 2017. Lượng hành khách qua cảng
cũng tăng 28,9% so với năm 2017, đạt 5,8
triệu hành khách.
Rõ ràng, kinh tể biển Việt Nam nói riêng
cũng như ngành Logistics nói chung hoàn
toàn có khả năng và điều kiện để phát triển,
mở rộng hoạt động của mình, đáp ứng nhu
cầu giao thương buôn bán hàng hóa với các
nước trên khắp thế giới. Với tiềm năng và
những thế mạnh vốn có của mình, Việt Nam
sẽ có được một hệ thống cảng biển đủ đáp
ứng được nhu cầu của vận tải biển - một
trong những hoạt động cơ bản và nền tảng
của Logistics.
Nhưng Việt Nam lại chưa tận dụng được
những ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng đó để
xây dựng được một hệ thống các cảng biển
phát triển hiện đại, đủ tiêu chuẩn. Việt Nam
thực sự chưa cung cấp đủ những điều kiện cơ
sở và nền tảng cần thiết để cho ngành Kinh
doanh Logistics có cơ hội phát triển đúng với
tiềm năng của mình. Một thực tế hết sức
đáng buồn rằng, Việt Nam là nước được xếp
hạng thấp nhất về cơ sở hạ tầng vận chuyển
hàng hóa trong số các nền kinh tế trọng điểm
ở khu vực Đông Nam Á. Chính bởi sự yếu
kém về cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là về hệ
thống cảng biển, năng lực vận tải lại kém đã
làm cho chi phí Logistics tại Việt Nam gần
như gấp đôi so với các nước công nghiệp
khác [4].
Hầu hết các cảng biển ở nước ta không
được thiết kế cho việc bốc dỡ hàng hiện đại,
nhiều cảng nằm ngoài khu vực Thành phố
Hồ Chí Minh chỉ được thiết kế để vận
chuyển hàng rời, không có thiết bị để bốc dỡ
container chuyên dụng. Các cảng đều đang
được dần container hóa nhưng cũng chỉ đủ
sức để tiếp nhận tàu container gom hàng (tàu
feeder) cỡ nhỏ là chủ yếu. Mặt khác, các
trang thiết bị gom, dỡ container và tiếp nhận
hàng ở các cảng cũng hết sức thô sơ, thua xa
các nước trong và ngoài khu vực. Chính điều
này là nguyên nhân làm cho năng suất giải
phóng tàu ở các cảng biển Việt Nam còn
nhiều hạn chế, tình trạng ách tách giao thông,
quá tải tại các cảng vẫn còn xảy ra nhiều, gây
cản trở lớn đến quá trình giao thương buôn
bán. Một thực tế có thể thấy rõ trong vấn đề
cảng biển ở Việt Nam đó là có quá nhiều bến
98
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
cảng (nếu tính về số lượng) và quá ít cảng
đáp ứng yêu cầu (tính về quy mô và chất
lượng). Thiếu cầu bến cho tàu trọng tải lớn,
đặc biệt là các bến cho tàu container vận
hành trên tuyến biển xa là một điểm nổi bật
của hệ thống cảng biển Việt Nam hiện nay.
Thống kê cho thấy trong số hơn 330 bến
cảng của cả nước thì chỉ có 1,37% có thể đáp
ứng cho tàu trên năm vạn DWT vào làm
hàng, cầu bến cho tàu 2 - 5 vạn DWT chiếm
21,43% (hàng tổng hợp 15,9%), cho tàu 1 - 2
vạn DWT chiếm 39,72% (hàng tổng hợp
24,31%) và cho tàu dưới một vạn DWT
chiếm 38,46% (hàng tổng hợp 24,85%). Trên
thực tế, với hơn 330m cầu bến cảng với tổng
chiều dài 39.951m, 35 luồng vào cảng quốc
gia công cộng và 12 luồng vào cảng chuyên
dụng, cơ sở hạ tầng cảng biển Việt Nam vẫn
luôn được xếp vào hàng yếu kém về chất
lượng, lạc hậu về trình độ kỹ thuật công nghệ
so với yêu cầu và các nước tiên tiến trong
khu vực [3],[5].
Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, Việt Nam
có nhiều cảng biển nhưng chỉ có khoảng 14
cảng là có quy mô đủ lớn, đủ sức để tiếp
nhận những con tàu có trọng tải từ 30.000
DWT trở lên. Con số còn lại, hơn 100 cảng
chỉ được xếp loại là những cảng nhỏ, hoạt
động không hiệu quả, chủ yếu chỉ để phục vụ
các tàu nhỏ, trọng tải chưa đến 10.000 tấn.
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có cảng quốc
tế cửa ngõ, cảng trung chuyển container quốc
tế, cảng nước sâu... đủ sức tiếp nhận tàu
9.000 TEU trở lên (120.000 - 150.000 tấn
trọng tải). Các cảng quốc tế của Việt Nam
hiện nay thực chất vẫn chỉ là những bến gom
hàng container cho các đầu mối trung chuyển
trong khu vực như Singapore, Hongkong,
Kaoshiung... Hơn thế nữa, trong quá trình tập
trung xây dựng cơ sở hạ tầng cảng biển,
nhiều khi mạng lưới giao thông nối liền cảng
với các khu công nghiệp, khu chế xuất - nơi
mà dòng chủ lưu của hàng hóa sẽ đi và đến -
cũng chưa được quy hoạch thực sự phù hợp,
với những dự báo chính xác về tăng trường
khối lượng trong một thời gian tương đối dài
hạn. Ách tắc trên đường đến cảng, trong vận
tải nội địa do hậu quả của những hiện trạng
đó đã gây nên ách tắc cho cảng, làm giảm
năng lực lưu thông qua cảng. Có thể nói, vấn
đề cảng biển đang là một thách thức thực sự
lớn đối với Việt Nam trong nỗ lực đẩy mạnh
hơn nữa hiệu quả hoạt động Logistics [6],
[7]. Một điều cốt yếu trong phát triển hệ
thống cảng biển Việt Nam là đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của công tác.
Nguồn nhân lực hiện nay đang đảm nhiệm
khá tốt vai trò trong tất cả các hoạt động vận
hành cảng biển, nhưng nếu chúng ta phát
triển mới các cảng biển và nâng cấp trang
thiết bị hiện có, lực lượng lao động này cần
đào tạo và đào tạo lại nhưng vẫn không đủ,
đạt yêu cầu. Một thực trạng là có sự chênh
lệch giữa chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
của các cơ sở đào tạo vào nhu cầu tuyển
dụng của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh
nghiệp phải đào tạo lại nguồn nhân lực tốt
nghiệp từ các cơ sở đào tạo. Chính vì vậy,
phát triển nguồn nhân lực vận hành, khai thác
cảng và các hoạt động Logistics sẽ là một
trong những nhiệm vụ trung tâm trong phát
triển cảng biển Việt Nam.
3. Giải pháp phát triển hệ thống cảng
biển Việt Nam
Hạ tầng cơ sở về giao thông vận tải luôn
được coi là huyết mạch của các hoạt động
Logistics. Không có cơ sở đồng bộ, tiên tiến
thì khó có thể mang lại hiệu quả cho hoạt
động Logistics. Bên cạnh đó, việc phát triển
tốt hệ thống giao thông sẽ tạo điều kiện cho
vận tải đa phương thức phát triển. Tuy nhiên,
có thể nhìn nhận một điều rằng cơ sở hạ tầng
ở Việt Nam vẫn còn chưa phát triển kịp cùng
với sự phát triển của nền kinh tế cũng như xu
hướng của Logistics toàn cầu. Đây sẽ là một
cản trở rất lớn cho sự lớn mạnh và phát triển
của các hoạt động Logistics khi mà nền kinh
tế Việt Nam đã và đang hòa nhập với kinh tế
toàn cầu. Một kết cấu hạ tầng giao thông vận
tải hiện đại và đồng bộ bao gồm: Hệ thống
đường sông, đường bộ, đường biển, đường
sắt, hệ thống các cảng biển, các nhà ga, cảng
hàng không, kho tàng bến bãi cũng như các
trang thiết bị xếp dỡ hàng hóa, container ở
các điểm giao nhận. Nói tóm lại đó phải là sự
kết nối hài hòa giữa vận tải bằng đường bộ -
hàng không - đường sắt - đường biển và cả
đường ống. Từ những phân tích ở trên, chúng
ta có thể áp dụng một số giải pháp phát triển
cảng biển Việt Nam như sau:
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
99
• Đối với hạ tầng cơ sở vận tải đường
biển vận tải biển chiếm tỷ trọng lớn trong
trong vận tải và giao nhận hàng hóa xuất
nhập khẩu của Việt Nam (chiếm đến 90% giá
trị hàng hóa). Hơn thế nữa, Việt Nam là quốc
gia có vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho sự
phát triển của ngành Hàng hải. Nếu biết cách
tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ sở đường
biển, bao gồm các hệ thống cảng biển, bến
bãi thì các hoạt động Logistics ở Việt Nam sẽ
có điều kiện phát triển hơn nữa, đúng với
tiềm năng của mình. Chú trọng xây dựng,
nâng cao và cải thiện hơn nữa hệ thống cảng
biển: Việt Nam có khá nhiều hệ thống cảng
biển nhưng sự phát triển của các cảng này
vẫn chưa đủ sức để đáp ứng được nhu cầu
của ngành Hàng hải hiện nay. Quy mô của
các cảng biển Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều
điểm hạn chế, chưa thực sự đủ cho sự phát
triển của các hoạt động Logistics đúng theo
định hướng đã nêu ra. Vận tải biển được xem
là một trong những hoạt động cơ bản của
Logistics, còn cảng biển lại là tiền đề, là nền
móng cho vận tải biển phát triển. Do đó, tầm
quan trọng của việc phát triển mở rộng hệ
thống cảng biển ở Việt Nam là vô cùng quan
trọng và cần thiết. Hiện tại, hệ thống cảng
của Việt Nam còn nhiều bất cập như quy mô
còn nhỏ, quản lý và khai thác chưa đạt hiệu
quả. Vì vậy, cần phải tập trung xây dựng và
phát triển hệ thống cảng biển bao gồm việc
phát triển hệ thống cầu cảng, kho bãi, cảng
thông quan nội địa (ICD), chú trọng đầu tư
xây dựng cảng nước sâu trung chuyển khu
vực. Các cảng này chính là điểm kết nối trực
tiếp Việt Nam đến châu Âu và Mỹ, do đó,
phải đảm bảo có thể đón tàu trọng tải lớn.
Việt Nam cần tiến hành mở rộng nạo vét
lòng sông, đảm bảo mức nước sâu tối thiểu
14 mét. Theo nhiều chuyên gia thì Việt Nam
cần phải tập trung đầu tư vào một vài cảng
biển lớn trọng tâm hơn là đầu tư một cách
nhỏ giọt vào các cảng bé, chưa đủ tiềm năng
để phát triển. Các cảng biển có vị trí chiến
lược lớn của Việt Nam như cảng Hải Phòng
và cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây
dựng hệ thống cảng biển cần tuân thủ theo
các quy hoạch phát triển cảng đã được Chính
phủ phê duyệt, tránh đầu tư một cách dàn trải
theo kiểu "xin - cho" không đem lại hiệu quả
kinh tế khi đưa vào sử dụng. Còn nếu như
Việt Nam không đủ tiềm lực để xây dựng các
cảng nước sâu hiện đại như trong kế hoạch
phát triển cảng biển thì vẫn có thể thực hiện
theo cách liên doanh với công ty nước ngoài
hoặc đấu thầu trực tiếp, mời gọi các nhà thầu
nước ngoài. Một khi đã xây dựng được hệ
thống cảng biển hiện đại thì rất có thể Việt
Nam sẽ là một trạm trung chuyển lớn (HUB)
của thế giới.
• Bên cạnh các tuyến vận tải biển hiện
có, rất cần mở thêm các tuyến vận tải mới,
đặc biệt là các tuyến vận tải quốc tế như là
các tuyến vận tải thủy nội địa từ khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long đi quốc tế và các
tuyến vận tải mới từ các cảng biển quốc tế
hiện có. Với sự phát triển ngày càng sâu
rộng, mạnh mẽ của thương mại quốc tế giữa
Việt Nam và các nước khác nhau trên thế
giới thì vận tải biển Việt Nam hiện nay vẫn
chưa thể đáp ứng được nhu cầu chuyên chở
hàng hóa của các doanh nghiệp. Việt Nam
cần có sự đầu tư nghiên cứu để khai thác
thêm các tuyến vận chuyển khác tới các nơi
trên thế giới. Đồng thời khai thác tốt hơn
nữa, hiệu quả hơn nữa các tuyến vận tải biển
quốc tế hiện nay để cho ngành vận tải biển
quốc tế thực sự phát triển cùng với tốc độ
tăng trưởng về kim ngạch xuất nhập khẩu.
• Để phát triển cảng biển, chúng ta cần
phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng giao thông
kết nối với cảng như đường sắt, đường thủy
nội địa, đường bộ để không bị tắc trong lưu
thông từ cảng đến các khu công nghiệp và
các doanh nghiệp. Ngoài ra, hệ thống kho bãi
và thiết bị xếp dỡ cần đầu tư đồng bộ để phục
vụ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
• Mạnh dạn ứng dụng triệt để công
nghệ thông tin và thành tựu của cách mạng
công nghiệp 4.0 trong quản lý và khai thác
các cảng biển. Các hệ thống công nghệ thông
tin quản lý tàu, lịch xếp dỡ, containers cũng
như các hệ thống chia sẻ dữ liệu như TPS
(transaction process system), hệ thống quản
lý toàn diện ERP quản lý theo các mô đun
(modules) cũng cần được xem xét áp dụng.
• Nguồn nhân lực luôn đóng vai trò là
tác nhân chủ quan chi phối lớn nhất đến hoạt
động của mọi ngành nghề. Điều kiện vật
100
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
chất, cơ sở hạ tầng có tốt và hiện đại đến đâu
nhưng nếu không có được một đội ngũ nhân
viên tốt, có kiến thức chuyên sâu và dày dạn
kinh nghiệm thì ngành đó cũng khó có thể
phát triển được như mong muốn. Để phát
triển chất lượng nguồn nhân lực tham gia
trong các hoạt động Logistics thì rất cần đến
một chiến lược phát triển lâu dài và bền bỉ.
Một khi các kiến thức về Logistics được
giảng dạy một cách có bài bản và hệ thống từ
bậc Đại học, như vậy Việt Nam hy vọng có
được một đội ngũ chuyên viên lành nghề, đủ
kiến thức và khả năng để tham gia một cách
có hiệu quả trong quy trình của chuỗi
Logistics. Còn đối với đội ngũ nhân lực đã và
đang tham gia trong ngành thì cũng cần phải
được đào tạo nâng cao hơn nữa về kiến thức
nghiệp vụ và tay nghề chuyên môn.
4. Kết luận
Hệ thống cảng biển Việt Nam đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong hoạt động
Logistics phục vụ các hoạt động xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp. Việt Nam là một
quốc gia thu hút các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài (FDI), nhưng nếu chúng ta không
phát triển đồng bộ cảng biển thì dẫn đến tắc
nghẽn lưu thông hàng hóa làm giảm hiệu quả
kinh tế của các doanh nghiệp và lãng phí của
nền kinh tế. Chính vì vậy, phát triển hệ thống
cảng biển là không chỉ phát triển mỗi cảng
mà còn phải phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông phục vụ cảng, mạnh dạn áp dụng công
nghệ thông tin, đầu tư hạ tầng và đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao đang là đòi
hỏi cấp bách để phát triển kinh tế hàng hải
nước ta trong giai đoạn hội nhập hiện nay
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Công thương, Báo cáo Logistics Việt Nam
năm 2018;
[2] Đinh Thu Phương (2018), Logistics Việt Nam
trong cách mạng công nghiệp 4.0: cơ hội và
thách thức, Kỷ yếu hội nghị khoa học công nghệ
giao thông vận tải tháng 05/2018;
[3] Đỗ Xuân Quang (2019), Thực trạng và định
hướng phát triển ngành Logistics tại Việt Nam,
phattrien-nganh-Logistics-tai-viet-nam~34525,
truy cập ngày 7/3/2019;
[4] Mai Lê Lợi, Cơ hội và thách thức cho ngành
dịch vụ Logistics Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập sâu,
va-thach-thuc-cho-nganh-dich-vu-Logistics-viet-
nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-sau-d55882.html,
truy cập ngày 21/02/2018
[5] Mỹ Anh, 5 lĩnh vực Việt Nam có ưu thế trong
CMCN 4.0
https://viettimes.vn/5-linh-vuc-vietnam-co-loi-
the-trong-cmcn-40-137504.html, ngày 7/4/2019;
[6] PVTrans, 2019. Thị trường vận tải biển 2019,
https://www.pvtrans.com/blog/tin-hoat-ong-
pvtrans-11/post/pvtrans-on-au-thi-truong-van-tai-
bien-2019-4506, truy cập 9/3/2019;
[7] Tâm An, Chi phí Logistics Việt Nam tương
đương 16-17% GDP,
https://www.thesaigontimes.vn/281775/Chi-phi-
Logistics-Viet-Nam-tuong-duong-16---17-
GDP.html;
[8] Thủ tướng chính phủ, Quyết định 1037/QĐ-TTG
phê duyệt qui hoạch phát triển cảng biển Việt
Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Ngày nhận bài: 3/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 7/10/2019
Ngày hoàn thành sửa bài: 14/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 22/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_he_thong_cang_bien_viet_nam_dap_ung_phat_trien_ki.pdf