Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank

Người ta vẫn nói, ngân hàng là một trung gian tài chính, vì thế có những dòng tiền chảy qua ngân hàng. Một đầu của dòng tiền vào đấy chính là tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. Tranh thủ được nguồn tiền nhàn rỗi, cũng như mong muốn thu lời khi hy sinh các khoản tiêu dùng trong hiện tại để mưu cầu lợi ích trong tương lai của dân chúng, ngân hàng đã mở dịch vụ nhận tiền gửi khách hàng. Khách hàng bất kể là cá nhân hay doanh nghiệp đều có thể sử dụng dịch vụ này ở mọi ngân hàng, và với mọi mức tiền gửi. Ngược lại ngân hàng phải trả cho họ cái gọi là chi phí huy động vốn đó là phần lợi nhuận có được sau thời gian ngân hàng tạm thời sủ dụng nguồn vốn của họ với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong nền kinh tế thị trường các ngân hàng ra sức cạnh tranh về lãi suất nhằm thu hút nhiều hơn nữa luồng tiền trong dân cư. Bởi vì đây là nghiệp vụ chủ yếu mang lại nguồn vốn không nhỏ cho ngân hàng trong hoạt động huy động vốn.

doc75 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 955 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
375.559 70 118.033 22 42.921 8 Nguồn: Annual Report 2004 Biểu đồ 2.3: Cơ cấu hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank Trong năm vừa qua, hoạt động cho vay mua, xây dựng và sửa chữa nhà, vẫn chiếm một tỷ lệ cao so với hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung. Hoạt động này tăng trưởng mạnh đã đóng góp đáng kể vào sự phục hồi và phát triển của VPbank trong giai đoạn này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc doanh số cho vay mua nhà của ngân hàng tăng mạnh trong những năm gần đây cụ thể là năm 2004, tuy nhiên có một nguyên nhân chính đó là ở Hà Nội và các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, cơn sốt đất đã đẩy giá đất tại các địa phương này không ngừng tăng nhanh. Nhiều người đã tham gia vào thị trường bất động sản với mục đích kinh doanh hoặc thử vận may hoặc chỉ đơn giản để giải quyết nhu cầu về nhà ở cho gia đình. Điều này cũng tạo thuận lợi cho ngân hàng mở rộng và phát triển dịch vụ của mình. Tuy nhiên tổng dư nợ đối với hoạt động cho vay mua nhà vẫn ở con số lớn. Nguyên nhân vì phần lớn những món vay mua hoặc sửa chữa nhà có giá trị lớn, thời gian vay tương đối dài (từ 12 tháng đến 3 năm) nên đẩy số dư nợ tăng cao cùng với doanh số cho vay. Hoạt động cho vay nhằm mục đích mua ô tô của ngân hàng đối với đối tượng là cá nhân hộ gia đình cũng tăng nhanh trong thời gian gần đây. So với những năm đầu của thời kỳ kinh tế thị trường, đời sống của đại bộ phận dân cư đã được cải thiện đáng kể. Nhiều người có thu nhập cao và nhu cầu sử dụng ô tô làm phương tiện đi lại đã trở nên phổ biến. Điều này khiến doanh số cho vay mua ô tô trong năm 2004 tăng lên 150% so với năm 2003. Bên cạnh hai hoạt động chủ yếu trên, cho vay nhằm hỗ trợ hoạt động du học không đạt được những con số đáng khích lệ. Đây là một dịch vụ mới không chỉ đối với VPbank mà đối với nhiều ngân hàng khác nữa. So với năm 2003 nhu cầu vay loại này cũng tăng hơn 20%. Ngân hàng cần phải hỗ trợ đầu tư nhiều hơn nữa cho những sản phẩm dịch vụ mới này. 2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank 2.3.1. Kết quả đạt được Hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank trong năm 2004 vừa qua đã đạt được những thành công nhất định Về mặt doanh số cho vay và lợi nhuận thu được Trong năm vừa qua doanh số cho vay từ hoạt động cho vay tiêu dùng đạt được 549 tỷ đồng chiếm 25,48% so với hoạt động tín dụng nói chung. So với năm 2003 doanh số này chỉ tăng 6,5%, nhưng doanh thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong hoạt động tín dụng nói chung. Tính đến thời điểm 32/12/2004 thu từ lãi cho vay của ngân hàng là 40.193 triệu VNĐ trong dó hoạt động cho vay tiêu dùng mang về cho ngân hàng khoản lãi là 13.263 triệu VNĐ. Để có cái nhìn cụ thể chúng ta cùng xem xét biểu đồ sau: Biểu đồ 2.4: Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng năm 2004 33% 67% Thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng Thu lãi từ hoạt động tín dụng khác Có được những con số đáng ghi nhận như thế này trong năm vừa qua, cán bộ tín dụng VPbank đã phải rất nỗ lực trong việc phát triển hoạt động. So với các hoạt động tín dụng khác, cho vay tiêu dùng chưa tạo ra nguồn thu lớn cho ngân hàng như mong muốn, tuy nhiên con số này cũng cao hơn so với doanh số cho vay cũng như doanh số thu nợ của tín dụng tiêu dùng. Sở dĩ có được như vậy đó là vì trong thời gian vừa qua, VPbank đã áp dụng một biểu lãi suất tương đối hợp lý, vừa có lợi cho ngân hàng vừa tạo điều kiện rất nhiều cho khách hàng. “Đối với khoản tiền vay giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc tương đương: - Cho vay cầm cố thẻ tiết kiệm VPbank lãi suất là 0.86%/tháng - Cho vay cầm cố chứng từ có giá do Chính phủ hoặc ngân hàng quốc doanh phát hành lãi suất là 0,88%/tháng - Cho vay ngắn hạn đối với cá nhân lãi suất áp dụng từ 0,95% đến 0,99%/tháng tuỳ từng đối tượng khách hàng - Cho vay trả góp, sửa chữa nhà mua ô tô lãi suất áp dụng tử 0,97% đến 1%/tháng Đối với khoản vay có giá trị dưới 100 triệu đồng: lãi suất cộng thêm 0,05%/tháng. Lãi suất cho vay khác địa bàn (trụ sở khách hàng hoặc địa chỉ tài sản thế chấp, cầm cố cách trụ sở VPbank từ 30km trở lên): lãi suất cộng thêm 1%/tháng.” trích “Biểu lãi suất” của VPbank áp dụng từ ngày 13/01/2005 Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm được chuyển nợ quá hạn. - Phạt chậm trả lãi: nếu khách hàng không trả lãi hàng tháng đúng hạn đã quy định thì sẽ phải trả cho VPbank khoản tiền phạt chậm trả lãi theo mức 0,05%/ngày, tính trên số tiền chậm trả và số ngày chậm trả thực tế. - Trường hợp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi: bên vay vốn phải chịu lãi suất tối thiều bằng 120% lãi suất trong hạn tính trên toàn bộ dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi. - Trường hợp gia hạn nợ gốc và/ hoặc lãi: bên vay vốn phải chịu lãi suất tối thiều bằng 130% lãi suất trong hạn tính trên toàn bộ dư nợ của hợp đồng tín dụng được gia hạn trả nợ gốc hoặc nợ lãi. Lãi suất cho vay theo ngày là 0,05%/ngày áp dụng cho các trường hợp sau: - Các khoản vay có thời hạn vay theo thoả thuận ban đầu dưới 10 ngày, hoặc thời hạn vay thoả thuận không dưới 10 ngày nhưng thời gian vay thực tế dưới 10 ngày. - Các khoản tạm ứng ngoại tệ để thanh toán với nước ngoài theo quy định về tạm ứng ngoại tệ của VPbank. Bên cạnh đó trong trường hợp giữa ngân hàng và khách hàng có ký hợp đồng hạn mức tài sản, ngân hàng còn thu một khoản phí sử dụng tín dụng theo hạn mức tài sản là 0,005%/tháng/Tổng số tiền được ký hạn mức bằng tài sản (tối đa: 5.000.000). Trên cơ sở mức lãi suất như vậy, nguồn thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng cho ngân hàng không phải là nhỏ. Điều đó cũng chứng tỏ vị trí của hoạt động cho vay tiêu dùng trong chiến lược xây dựng ngân hàng bán lẻ của VPbank ngày càng được khẳng định. Về rủi ro hoạt động Cho vay tiêu dùng vẫn là lĩnh vực tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Từ những rủi ro khách quan như thiên tại địch hoạ, suy thoái khủng hoảng kinh tế, đến những rủi ro chủ quan như sự thiếu tinh thần thái độ hợp tác của khách hàng dẫn đến việc “chây ì” không thanh toán nợ gốc lãi cho ngân hàng. Khi rủi ro phát sinh, chi phí hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhằm hạn chế những tổn thất lớn hơn có thể xảy ra với ngân hàng. Trong năm vừa qua, chi dự phòng rủi ro tín dụng tăng từ 22.264 triệu VNĐ lên tới 37.455 triệu VNĐ. Điều này thể hiện sự quan tâm của ngân hàng hơn nữa trong việc phòng ngừa rủi ro cho hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh đó việc ngân hàng cho ra đời quy chế cho vay sửa đổi bổ sung đã hạn chế rất nhiều việc gia hạn nợ, cũng như thắt chặt hơn việc chuyển nợ quá hạn của ngân hàng. Mặc dù quyết định mới này ít nhiều sẽ gây tâm lý không thoải mái cho khách hàng nhưng sẽ giúp ngân hàng hạn chế một cách tối đa những rủi ro có thể xảy ra do sự không thiện trí của khách hàng. 2.3.2. Điều kiện thuận lợi Đạt được những con số như trên trong năm 2004 vừa qua, mặc dù chưa phải là rất xuất sắc, và phù hợp với sự phát triển chung của ngân hàng phải kể đến những điều kiện thuận lợi nhất định đối với VPbank trong việc phát triển, mở rộng dịch vụ của mình. “Việc chính thức được chấm dứt chế độ Kiểm soát đặc biệt của NHNN vào ngày 06/07/2004 theo Quyết định số 835/QĐ-NHNN đã có tác dụng khuyến khích rất nhiều đối với hoạt động của VPbank nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Quyết định của NHNN được thực hiện dựa trên cơ sở đánh giá một sự tiến triển vượt bậc và toàn diện của VPbank từ hiệu quả của cơ chế điều hành, quản lý; từ nỗ lực và kết quả công tác thu hồi nợ khó đòi; từ chất lượng của việc phát tiển hoạt động mới, lành mạnh, hạn chế đến thấp nhất các rủi ro; đến việc nâng cao chất lượng nhân sự cũng như cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động Một “trang sử” mới đã mở ra tạo thuận lợi cho VPbank vững bước tiến vào tương lai.” trích “Tin VPbank” tháng 01/2005 Sự sáng suốt lãnh đạo của Ban Giám đốc, Hội đồng Quản trị đã tạo điều kiện rất nhiều cho hoạt động tín dụng. Cùng với mục tiêu chiến lược đưa VPbank trở thành ngân hàng bán lẻ, Hội đồng Quản trị trong phạm vi quyền hạn của mình đã tiến hành những bước đầu tiên của quá trình cải tổ. Từ năm 2003, Phòng phục vụ khách hàng cá nhân đã được tách ra khỏi Phòng tín dụng đầu tư, đồng thời thành lập nên phòng Thẩm định tài sản đảm bảo hoàn toàn tách biệt với phòng phục vụ khách hàng đã tạo điều kiện rất lớn cho hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng phát triển. Các cán bộ được tập trung vào chuyên môn của mình và công việc đã được chuyên môn hoá một phần góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Để hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra được thuận lợi, huy động vốn cũng là một khâu quan trọng. Trong năm 2004 vừa qua, thành công trong việc huy động vốn có được thông qua ba chương trình khuyến mại huy động có xổ số trúng thưởng (chương trình “vui xuân năm mới cùng VPbank” vào tháng 01/2004, chương trình “quà tặng Vàng từ VPbank” thực hiện vào tháng 06/2004 và chương trình “VPbank gửi tài - lộc đầu Xuân” diễn ra vào tháng 11/2004). Bên cạnh đó năm 2004 cũng là một năm đáng nhớ của không chỉ Vpbanh mà còn cả khách hàng giao dịch với ngân hàng. Vào đầu tháng 12/2004, VPbank đã đưa ra sản phẩm huy động vốn được nhiều người dân tán thưởng đó là “Huy động tiết kiệm bù trượt giá USD”. Sau hơn 1 tháng, số dư huy động tiết kiệm bù trượt giá lên tới gần 80 tỷ đồng. Đây là một con số không nhỏ đối với một ngân hàng khi đưa ra một sản phẩm mới. Những sự thay đổi trong quy trình và quy chế cho vay cũng là một điểm thuận lợi tạo điều kiện cho ngân hàng tăng doanh số cho vay của mình. Như chúng ta đã biết, bất cứ một hoạt động tín dụng thông thường nào, khách hàng muốn vay được tiền của ngân hàng, ngoài những điều kiện về nhân thân, khả năng trả nợ v.v đòi hỏi khách hàng phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay của mình. Đây không phải là yếu tố được đặt lên hàng đầu khi ngân hàng quyết định có cho khách hàng vay hay không, nhưng nó là một phần không thể thiếu để ngân hàng xem xét đánh giá khách hàng. Có nhiều trường hợp, khách hàng đến với VPbank với nhu cầu vay là rất nhỏ so với giá trị tài sản đảm bảo mà họ mang đi thế chấp. Trong trường hợp này, VPbank yêu cầu khách hàng ký một hợp đồng tín dụng khung, trong đó quy định số tiền tối đa mà khách hàng có thể vay tại ngân hàng. Thông thường với mỗi Hợp đồng tín dụng có tài sản đảm bảo, ngân hàng cũng yêu cầu khách hàng tiến hành đăng ký giao dịch đảm bảo cho tài sản mang đi thế chấp hoặc cầm cố đó để tránh xảy ra tranh chấp. Sau khi đã hoàn thành hợp đồng tín dụng này, nếu khách hàng lại có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng với tài sản đảm bảo là tài sản cũ của hợp đồng trước, khách hàng có thể đến vay vốn tại VPbank nhưng trong trường hợp này thay vì phải ký một Hợp đồng tín dụng mới, khách hàng chỉ phải ký một khế ước nhận nợ. Khế ước nhận nợ là một văn bản trong đó cũng thể hiện những yếu tố về khách hàng như nhân thân, tư cách, nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ v.v nhưng đơn giản hơn so với Hợp đồng tín dụng. Việc này là một sự sáng tạo của VPBank nhằm giảm bớt thủ tục rườm rà cho khách hàng, tạo sự thuận tiện và tâm lý thoải mái cho khách hàng, và tiết kiệm thời gian cho ngân hàng. Ngoài ra để góp phần nâng cao chất lượng thẩm định và phê duyệt tín dụng, VPbank đã nghiên cứu và từ 28/10/2003 đưa ra một phương pháp xếp hạng tín dụng đối với mỗi khoản tín dụng của khách hàng. Kết quả xếp hạng sẽ là một trong những căn cứ để ngân hàng phê duyệt tín dụng và áp dụng những chính sách phù hợp đối với từng khách hàng đồng thời tạo sự công minh sáng suốt cho cán bộ tín dụng trong việc đưa ra quyết định ban đầu đối với khách hàng. Dựa vào hồ sơ khách hàng cung cấp, cùng những thẩm định ban đầu về khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ chấm điểm những yếu tố sau: Yếu tố nhân thân lai lịch Tiền án, tiền sự - Tuổi Trình độ học vấn Nghề nghiệp Thời gian công tác Thời gian làm việc hiện tại Tình trạng cư trú Số người ăn theo Thu nhập hàng năm của cá nhân Thu nhập hàng năm của gia đình Yếu tố tài chính Tỷ trọng vốn vay trên tổng phương án xin vay Tình hình trả nợ với ngân hàng (VPbank và ngân hàng khác) Tình hình trả lãi Tổng nợ (kể cả khoản vay đang xét) trên giá trị bất động sản, dộng sản khác có thể chứng minh được quyền sở hữu hợp pháp của người vay Các dịch vụ sử dụng của VPbank Loại tài sản đảm bảo Mức biến động về giá tài sản đảm bảo có thể xảy ra trong thời gian vay Giá trị tài sản đảm bảo so với vốn vay. Với mỗi yếu tố trên, VPbank đánh giá và xác định được số điểm mà khách hàng đạt được. Kết quả chấm điểm được ghi trên mẫu “Phiếu xếp hạng tín dụng”. Tuỳ theo kết quả chấm điểm tín dụng, khách hàng sẽ được chia ra làm 6 mức độ rủi ro tín dụng khác nhau: Điểm Xếp loại Đánh giá Nhóm rủi ro 87-100 A+ Xuất sắc Thấp 74-86 A Tốt Thấp 61-73 B+ Trung bình Trung bình 48-60 B Dới trung bình Trung bình 35-47 C+ Rủi ro không thu hồi cao Cao 0-34 C Rủi ro không thu hồi cao Cao Tuy nhiên đây chưa phải là kết luận cuối cùng về chất lượng của khoản tín dụng cụ thể đang xét. Muốn xác định chất lượng của khoản tín dụng để làm căn cứ đề xuất ý kiến lên Ban tín dụng/ Hội đồng tín dụng, cán bộ tín dụng còn phải đánh giá tài sản đảm bảo. Hệ thống chấm điểm này đã loại bỏ được những tiêu cực bất cập có thể xảy ra đối với cán bộ tín dụng đồng thời giảm thời gian xét duyệt cho vay xuống mức tối thiểu, tạo sự thuận tiện cho khách hàng và tiết kiệm cho ngân hàng. 2.3.3. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.3.1. Hạn chế Xét một cách toàn diện, hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng VPbank khá phát triển, tuy nhiên do mới hình thành và mới tách ra từ Phòng tín dụng đầu tư, hoạt động này còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Quy mô cho vay còn hạn chế: Như số liệu thống kê đã đưa ra ở phần trên, chúng ta thấy rằng cho vay tiêu dùng mới chỉ chiếm một phần khiêm tốn trong hoạt động tín dụng nói chung. Cụ thể trong năm 2004 tổng doanh số từ hoạt động tín dụng toàn hệ thống đạt 2.154.458 triệu đồng, trong đó cho vay tiêu dùng chiếm 25% đạt 548.926 triệu đồng. Phần còn lại là các hoạt động tín dụng khác. Có thể nói năm 2004 cũng là một năm có nhiều biến động xã hội tuy không phải lớn nhưng cũng có thể coi có nhiều thuận lợi rất lớn để hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Trong năm 2004, hoạt động buôn bán bất động sản, chủ yếu là nhà và đất ở tỏ ra khá sôi động, một mặt do nhu cầu nhà ở trong dân cư tăng lên, mặt khác do nhà nước đã có những chính sách thông thoáng hơn đối với hoạt động này. Nhiều nhà chung cư cao tầng được xây dựng nhằm thoả mãn nhu cầu của dân cư. Từ đó khiến cho hoạt động cho vay mua nhà trả góp có nhiều điều kiện phát triển. Bên cạnh đó nhu cầu du học trong giới học sinh, sinh viên cũng là một thuận lợi đáng kể cho VPbank nói riêng và các ngân hàng thương mại khác nói chung. Trước tình hình như vậy, kết quả doanh số cho vay của hoạt động tín dụng cá nhân của VPbank tỏ ra chưa hiệu quả. Mặt khác. tỷ lệ dư nợ vẫn ở mức cao 28,65% trong tổng dư nợ hoạt động tín dụng toàn hệ thống là 1.872.400 triệu đồng trong đó nợ quá hạn là 2200 triệu đồng chiếm 38.6%. Mặc dù hoạt động cho vay tiêu dùng là những khoản tín dụng có thời gian vay vốn khá lâu (từ 12 tháng đến 36 tháng đối với mua ô tô và mua nhà trả góp, từ 12 tháng đến hết thời gian du học nhưng tối đa không quá 10 năm đối với cho vay hỗ trợ du học) nhưng trên thực tế tỷ lệ nợ quá hạn như vậy là rất cao, thể hiện sự hạn chế thiếu xót của cán bộ tín dụng trong việc đốc thúc thu hồi nợ. Bên cạnh đó, mức độ phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng còn thấp chưa phù hợp với tốc độ phát triển chung của hoạt động tín dụng. Nếu như năm 2004 tốc độ tăng trưởng của hoạt động tín dụng VPbank là 122,96% so với năm 2003, thì hoạt động cho vay tiêu dùng chỉ đạt 106,49%. Đây là điều còn hạn chế mà ngân hàng cần phải khắc phục. Hiện tại đối tượng cho vay của VPbank đặc biệt trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng còn hạn chế. Đối với cho vay hỗ trợ tài chính du học sinh, phạm vi cho vay là công dân Việt Nam có con em, người thân đang du học hoặc sắp có kế hoạch đi du học nước ngoài. Đối với cho vay mua nhà, xây dựng và sửa chữa nhà cũng như cho vay mua ô tô, phạm vi cho vay là cá nhân hộ gia đình phải có hộ khẩu thường trú cùng địa bàn nơi VPbank đóng trụ sở. Các trường hợp đặc biệt khác do Ban tín dụng/ Hội đồng tín dụng quyết định. Mặc dù đây là một biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay tiêu dùng của VPbank nhưng việc thu hẹp phạm vi cho vay trong địa bàn nơi VPbank có đóng trụ sở sẽ hạn chế rất nhiều số lượng khách hàng có nhu cầu đến giao dịch với VPbank đặc biệt trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Phương thức cho vay tại VPbank còn ít. Hiện tại vẫn chỉ có hai hình thức cho vay phổ biến là cho vay trả góp và cho vay trả gốc cuối kỳ, lãi trả đều hàng tháng. Tuy nhiên với phương thức cho vay trả một lần, ngân hàng cũng quy định trong trường hợp khách hàng trả toàn bộ số tiền gốc trước quá 50% thời hạn vay thì toàn bộ số tiền vay của khách hàng sẽ bị tính lãi theo dư nợ thực tế theo quy định trong Hợp đồng tín dụng đồng thời khách hàng còn phải chịu một khoản tiền phạt tùy từng trường hợp nhưng không vượt quá 2 triệu trên mỗi hợp đồng. Chất lượng cho vay tiêu dùng tại VPbank bị đánh giá là chưa phù hợp với tình hình phát triển chung của toàn ngân hàng. Điều đó thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn còn cao, trung bình trên 25% trong tổng số nợ quá hạn của hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó số các món vay bị chuyển thu hồi nợ cũng chiếm một tỷ lệ lớn, mặc dù những khoản vay này không phải tất cả mọi trường hợp đều bị đưa ra toà án kinh tế để phát mại tài sản. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần phải sát sao hơn nữa trong việc theo dõi khách hàng và thu hồi nợ 2.3.3.2. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Về quy chế cho vay: Quy chế cho vay của VPbank đối với khách hàng được ban hành theo quyết định số 461 ngày 06/06/2002 của Chủ tịch HĐQT VPbank và được dựa trên Quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trên thực tế trong quy định này chỉ rõ: “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của VPbank, trừ trường hợp đối với những khoản vay từ các nguồn uỷ thác của Chính Phủ, các tổ chức và cá nhân.” Trích “Quy chế cho vay của VPbank đối với khách hàng” Điều này có nghĩa nếu tính đến 31/12/2004 VPbank chỉ được phép cho vay tối đa 6 khách hàng với số vốn tối đa là 26 tỷ. Đây là con số lớn, tuy nhiên trong quy định này nếu ngân hàng cho khách hàng vay dưới 15% thì không hạn chế về số khách hàng vay với nhu cầu vốn trên. Quy định này của Ngân hàng Nhà nước dường như không hạn chế được khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại. Từ 21/03/2005 VPbank đã ban hành Quyết định của Hội đồng Quản trị về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế cho vay của VPbank đối với khách hàng trong đó có nhiều điểm khác biệt ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Về việc chuyển nợ quá hạn - một trong những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân hàng, quy chế cũ quy định: Khi đến hạn trả nợ gốc hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc không được gia hạn nợ, thì toàn bộ dư nợ của hợp đồng tín dụng đó bị chuyển sang nợ quá hạn và xử lý như sau: Khi bắt đầu chuyển nợ quá hạn chỉ áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với phần dư nợ gốc của kỳ hạn mà khách hàng không trả nợ đúng hạn. Đối với phần dư nợ gốc chưa đến kỳ hạn trả nợ nhưng phải chuyển nợ quá hạn ngân hàng vẫn áp dụng mức lãi suất cho vay trong hạn như đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng. Trong thời gian khoản vay đã bị chuyển nợ quá hạn, nếu đến hạn trả nợ gốc của các kỳ tiếp theo mà khách hàng không trả được thì ngân hàng sẽ áp dụng lãi suất quá hạn đối với số tiền đã đến hạn của các kỳ hạn đó. Đối với dư nợ gốc vào thời điểm cuối cùng của thời hạn cho vay, nếu khách hàng không trả hết nợ gốc hoặc nợ lãi và không được VPbank chấp thuận gia hạn nợ thì áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối với toàn bộ dư nợ đã chuyển nợ quá hạn. Khi đến hạn trả nợ lãi, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ lãi đúng hạn và không được điều chỉnh kỳ hạn nợ lãi hoặc không được gia hạn nợ lãi, thì toàn bộ số dư nợ của hợp đồng tín dụng đó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn và xử lý như sau: Nợ lãi chịu lãi suất phạt chậm trả theo quy định của ngân hàng Nợ gốc còn trong hạn áp dụng mức lãi suất cho vay trong hạn Sau khi chuyển nợ quá hạn, nếu đến kỳ hạn trả nợ gốc mà khách hàng không trả được thì số dư nợ gốc của các kỳ hạn đã đến hạn đó sẽ bị tính lãi suất nợ quá hạn. Theo như quy định mới của VPbank vấn đề chuyển nợ quá hạn được quy định như sau: Khi đến hạn trả nợ gốc mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được VPbank chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và VPbank sẽ xử lý: Hạch toán toàn bộ dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó sang tài khoản nợ quá hạn Khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng quá hạn, kể từ ngày phát sinh nợ quá hạn VPbank sẽ áp dụng các chế tài theo quy định của Nhà nước và VPbank để xử lý thu hồi nợ. Khi đến hạn trả nợ lãi mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và cũng không được ngân hàng chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ lãi, VPbank xử lý như sau: Trường hợp chậm trả lãi dưới 5 ngày so với kỳ hạn quy định: chưa thuộc đối tượng xử lý Trường hợp nợ lãi từ 5 ngày trở lên nhưng chưa quá 1 kỳ trả lãi: VPbank sẽ phạt chậm trả lãi theo quy định của ngân hàng tuỳ từng thời kỳ Trường hợp nợ lãi từ 2 kỳ trở lên: VPbank kiên quyết yêu cầu khách hàng phải trả nợ lãi ngay, nếu khách hàng không trả thì VPbank sẽ chuyển toàn bộ dư nợ của hợp đồng tín dụng liên quan sang nợ quá hạn và xử lý theo các chế tài quy định đối với nợ quá hạn. Việc áp dụng hình thức chuyển nợ quá hạn như vậy sẽ tăng nguồn thu cho ngân hàng, tuy nhiên lại tạo nên áp lực đối với các cán bộ tín dụng. Họ phải theo sát khách hàng của mình hơn nữa đồng thời phải thường xuyên cố gắng để mở rộng quan hệ, nâng tỷ lệ cho vay lên cùng với tỷ lệ dư nợ. Đồng thời quy định này cũng gây tâm lý ức chế cho khách hàng khi bị chịu lãi phạt cao hơn khi toàn bộ dư nợ bị chuyển nợ quá hạn và phải chịu lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Quy chế cho vay của VPbank cũng quy định, trong trường hợp khách hàng vay trả góp muốn thanh lý hợp đồng trước quá 50% thời hạn vay họ cũng phải chịu một khoản tiền phạt. Số tiền phạt đó được tính bằng 0,05%/tháng x với số tiền dư nợ thực tế x thời gian còn lại của hợp đồng Nhưng không vượt quá 2 triệu đồng. Đây là một quy định của VPbank gây tâm lý không thoải mái đối với khách hàng vay vốn tại VPbank đặc biệt với khách vay trả góp. Vì nhiều người cho rằng việc mang tiền đến trả nợ trước hạn cho ngân hàng nhẽ ra phải được thưởng chứ không thể phạt họ được. Điều này đỏi hỏi cán bộ tín dụng phải tư vấn kỹ cho khách hàng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng để tránh xảy ra hiểu nhầm giữa ngân hàng và khách hàng. Về mặt đội ngũ cán bộ Hệ thống cán bộ tín dụng VPBank phần lớn là những người trẻ tuổi năng động, nhiệt tình với công việc và ham mê học hỏi. Tuy nhiên phần lớn họ từ những đơn vị khác hoặc ngân hàng khác chuyển đến nên kinh nghiệm cũng như sự lâu năm trong nghề còn ít nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, phòng Phục vụ khách hàng cá nhân tại chi nhánh Hà Nội là một trong những nơi đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ tín dụng. Phần lớn họ chỉ làm việc và học tập ở đây trong khoảng thời gian 1 năm sau đó được điều chuyển đến các chi nhánh khác hoặc phòng giao dịch. Việc này vừa gây nên sự thiếu người tại Chi nhánh Hà Nội, vừa tạo tâm lý bất ổn về chỗ làm cho cán bộ tín dụng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng làm việc của họ. Về mặt công nghệ của ngân hàng Mặc dù VPbank đã thực hiện công nghệ hoá, hiện đại hoá ở nhiều bộ phận lĩnh vực của ngân hàng, nhưng tại bộ phận tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, hệ thống công nghệ của ngân hàng còn tỏ ra chưa hoàn thiện và hiệu quả. Hiện tại ngân hàng đang sử dụng hệ thống mạng Loan có tên “bank 2000”. Nhưng chất lượng của hệ thống tỏ ra chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động tín dụng. Trong nhiều trường hợp, khách hàng đến thanh toán tiền lãi vay hoặc thanh lý hợp đồng, hệ thống mạng nội bộ tỏ ra quá tải, không tính toán kịp thời và chính xác số tiền mà khách hàng cần thanh toán, làm tốn rất nhiều thời gian của khách hàng đồng thời làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra hiện nay các cán bộ tín dụng vẫn phải lưu trữ hồ sơ một cách thủ công dễ dẫn đến tình trạng thất lạc giấy tờ. Hệ thống máy tính của ngân hàng chỉ cho phép quản lý hồ sơ về các yếu tố nhất định như số tiền vay, thời hạn trả nợ, giao dịch khế ước v.v Điều này sẽ rất khó khăn cho cán bộ tín dụng trong trường bị thất lạc hồ sơ, đồng thời cũng tốn thời gian của cán bộ tín dụng, tăng chi phí quản lý của ngân hàng. Về hoạt động Marrketting Hiện tại, mặc dù VPbank đã có bộ phận phát triển thị trường với nhiệm vụ tìm kiếm các cộng tác viên và phát triển sản phẩm mới của ngân hàng tuy nhiên hoạt động này tỏ ra chưa hiệu quả. Hoạt động marketting của từng bộ phận vẫn do các bộ phận đấy tự đảm trách. Đặc biệt với cán bộ tín dụng, song song với việc theo dõi quản lý hồ sơ cho vay, họ còn phải tiếp thị mở rộng thị trường. Công việc này đòi hỏi sự chuyên tâm và năng lực marketting của từng người do đó dễ làm loãng chất lượng làm việc của cán bộ tín dụng, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Cũng chính vì thế có thể nhận thấy rõ, khách hàng đến vay tại ngân hàng là những khách hàng truyền thống gắn bó lâu năm với ngân hàng hoặc được sự giới thiệu qua người thân, bạn bè. Nếu hoạt động marketting của ngân hàng được đẩy mạnh hoạt động sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng trong việc tăng doanh số cho vay của mình đặc biệt trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Nguyên nhân khách quan Những chính sách của nhà nước Mặc dù đã có nhiều chính sách khuyến khích hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng riêng của các ngân hàng thương mại nhưng hoạt động này tỏ ra vẫn chưa hiệu quả. Vì song song với việc nới lỏng cho vay, nhà nước còn ban hành những luật định chế tài khác có ảnh hưởng hạn chế rất nhiều đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Như theo quy định mới nhất của Nghị định 181 về việc sửa đổi bổ sung luật đất đai, khách hàng có nhu cầu vay tiền tại các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp hoặc cầm cố là giấy chứng nhận quyền sở hữu và sử dụng đất (căn hộ, nhà) sau khi ký kết hợp đồng cầm cố, thế chấp tại cơ quan công chứng nhà nước, và tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm tại Sở tài nguyên môi trường hoặc phòng đăng ký giao dịch bảo đảm của cơ quan cấp quận, các cơ quan này sẽ xác nhận vào mặt sau của quyển Sổ đỏ về việc quyền sử dụng đất ở này đã bị mang đi thế chấp tại ngân hàng tính từ một thời điểm nào đó. Quy định mới này của nhà nước đã gây nên tâm lý e ngại cho khách hàng trong việc đến vay vốn tại ngân hàng và dùng bất động sản làm tài sản đảm bảo cho khoản vay của mình. Mặc dù sau khi thanh lý hợp đồng và giải toả thế chấp, cơ quan nhà nước sẽ xác nhận một lần nữa vào quyển sổ đỏ về việc chấm dứt việc thế chấp, cầm cố tại ngân hàng hoặc cấp một quyển sổ đỏ mới tuỳ theo yêu cầu của khách hàng nhưng cũng sẽ tốn rất nhiều thời gian của khách hàng. Quy định này thắt chặt hơn nữa việc quản lý nhà, đất ở của thành phố, tuy nhiên tâm lý e ngại của khách hàng là một trong những nguyên nhân làm mất cơ hội vay vốn của khách hàng và giảm thu nhập của ngân hàng. Những các cơ quan có liên quan Trên thực tế hiện tại hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Để hoàn tất một hợp đồng tín dụng đòi hỏi phải có sự tham gia hợp tác của rất nhiều các cơ quan chức năng khác. Trong nhiều trường hợp khách hàng phải ra cơ quan phường, xã nơI mình thường trú để xác nhận những vấn đề thuộc về nhân thân, gia cảnh hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm v.v Nhưng do sự hạn chế về hiểu biết, cũng như thói quan liêu trong việc phục vụ dân, tình trạng sách nhiễu của các cán bộ nơi này đã ảnh hưởng rất nhiều đến công việc của khách hàng cũng như cán bộ tín dụng. Đây là vấn đề thường gặp ở Việt Nam đặc biệt tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, tuy nhiên nó ảnh hưởng đến sự hoạt động của các ngân hàng nói riêng và sự phát triển nói chung của nền kinh tế. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của hoạt động tín dụng và cho vay tiêu dùng nói riêng. Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng Thương mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người viết xin đưa ra một số kiến nghị giải pháp trong chương tiếp theo. Chương 3 Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – VPbank 3.1. Định hướng phát triển của VPbank Trong những bước đi đầu tiên của quá trình cải tổ, ngày 02/02/2001 Hội đồng Quản trị đã lựa chọn một hướng đi chiến lược phù hợp với thế và lực của mình đó là “Xây dựng VPbank thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam”. Trong chiến lược này ngân hàng đã xác định thị trường mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể. Tại sao ngân hàng lại đưa ra mục tiêu này? Từ trước đến nay, người dân vẫn có quan niệm, chỉ có vay những khoản tiền lớn, nhằm kinh doanh buôn bán làm an to tát người ta mới tìm đến ngân hàng. Còn với những khoản tiền nhỏ phục vụ cho mục đích sinh hoạt hàng ngày hoặc mục đích tiêu dùng, một là người ta có tâm lý ngại những thủ tục rườm rà phức tạp của ngân hàng, hai là người ta cho rằng ngân hàng sẽ không giải quyết cho họ những nhu cầu vay vốn đó. Để thay đổi những suy nghĩ này cũng như cung cấp những sản phẩm tốt nhất, phục vụ tối đa nhu cầu của dân cư, VPbank cũng như nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác như TechcomBank, SacomBank, EAB đã thực hiện hoạt động bán lẻ bằng chiến lược hết sức rõ ràng trong những sản phẩm cụ thể như: thẻ, cho vay mua nhà, dịch vụ thị trường bất động sản, cho vay du học, cho vay mua ô tô Trong những năm vừa qua, VPbank đã cố gắng và nỗ lực rất nhiều trong việc xây dựng thương hiệu của mình trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong năm 2005 này VPbank đã đề ra một số biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài xây dựng ngân hàng bán lẻ của mình như sau: Về huy động vốn Duy trì chính sách huy động vốn hợp lý, điều tiết lượng vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng, bảo đảm hiệu suất sử dụng vốn tốt nhất. Cải tiến các sản phẩm huy động vốn theo hướng linh hoạt, nhiều tiện ích kèm theo cho khách hàng. Thực hiện một số chương trình khuyến mại đặc biệt để tăng nguồn vốn huy động. Đẩy mạnh huy động vốn, cho vay và các hoạt động lành mạnh khác nhằm củng cố và gia tăng thị phần, tăng lợi nhuận. Về hoạt động tín dụng Tiếp tục mở rộng thị phần tín dụng bán lẻ phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực dân doanh và nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Duy trì chính sách tín dụng “bảo thủ”, tăng cường chất lượng công tác xếp hạng tín dụng và thẩm định trước, trong và sau khi cho vay. Giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 2%. Ngoài hai hoạt động cơ bản trên, VPbank cũng sẽ chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ khác, các hoạt động khác để có thể thực hiện tốt và nhanh chóng mục tiêu chiến lược của mình “trở thành ngân hàng bán lẻ số 1”. 3.2. Giải pháp Để có thể phát triển và mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, thực hiện tốt chiến lược ngân hàng bán lẻ có một số giải pháp được đặt ra với VPbank như sau: 3.2.1. Tăng quy mô Hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank tỏ ra còn nhiều hạn chế về doanh số cho vay doanh số thu nợ Việc tăng quy mô trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ riêng VPbank. Việc tăng quy mô cho vay bắt đầu từ những hoạt động chủ yếu như sau: Xây dựng quảng bá thương hiệu của ngân hàng Trên thực tế hiện nay, nhu cầu vay vốn trong dân cư nhằm mục đích tiêu dùng là rất lớn. Đời sống xã hội ngày càng phát triển và nhu cầu của con người cũng từng bước nâng cao. Tuy nhiên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng vay vốn nhằm phục vụ mục đích này còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là vì còn một bộ phận không nhỏ dân cư chưa biết đến VPbank đặc biệt là sản phẩm mà VPbank cung cấp. Hiện nay, nguồn thông tin gián tiếp chủ yếu giúp khách hàng biết và hiểu dịch vụ này là thông qua báo chí truyền hình. Nhưng số người tiếp xúc với ngân hàng thông qua kênh này còn hạn chế, và đặc biệt nếu tiếp xúc việc hiểu cặn kẽ những lợi ích có được khi sử dụng sản phẩm dịch vụ không phải là vấn đề đơn giản. Ngay cả khi nhận thức được loại hình cho vay này của VPbank không ít người không có đủ dũng khí để vượt qua tâm lý e ngại khi gánh trên vai một món nợ ngân hàng. Điều này cũng là điều dễ hiểu. Vấn đề đặt ra với ngân hàng là phải quảng bá hình ảnh của mình, mang sản phẩm đến với từng hộ gia đình và phá bỏ được sự cản trở đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong thời gian vừa qua, VPbank đã xuất hiện nhiều trong các chương trình giải trí của Đài truyền hình Việt Nam với vai trò là người tài trợ như chương trình “Khởi nghiệp”, “Doanh nhân Việt Nam”. Hơn thế nữa cán bộ ngân hàng cũng như thành viên của Hội đồng Quản trị cùng tham gia vào chương trình tạo nên sự phong phú và giúp người xem có cái nhìn mới mẻ về ngân hàng. Tuy nhiên đấy mới chỉ là kênh tiếp xúc gián tiếp. VPbank cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tiếp thị quảng cáo đặc biệt với những sản phẩm mới. Hình thức có thể qua thư ngỏ, tờ rơi, hay việc tổ chức các buổi hội thảo gặp gỡ đối với những khách hàng đã đang có nhu cầu vay vốn, muốn tìm hiểu về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Với hình thức này, ngân hàng có thể tiếp thị trực tiếp sản phẩm cho mình, giúp khách hàng hiểu được lợi ích từ việc sử dụng những sản phẩm của VPbank. Việc đẩy mạnh hình thức khuyếch trương như vậy phần nào tháo gỡ được thói quen cố hữu và tâm lý e ngại gây cản trở đến sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng, từng bước đưa VPbank trở thành người bạn của mọi nhà trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế. Đẩy mạnh hoạt động Marketing Như đã đề cập ở trên, hiện tại VPbank chưa có bộ phận chuyên trách về hoạt động marketting mở rộng thị trường. Việc phát triển hoạt động và mở rộng thị trường đều do mỗi bộ phận tự đảm trách. Trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng không ngừng cạnh tranh về lãi suất và chất lượng dịch vụ, do đó việc mở rộng và phát triển các hoạt động đặt ra cho các ngân hàng những thách thức rất lớn. Đối với VPbank công việc đó đặt lên vai mỗi cán bộ tín dụng những trọng trách nặng nề. Điều này đã gây áp lực đối với không nhỏ cán bộ ngân hàng làm ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình công tác và cống hiến của họ. Do đó ngân hàng nên có một phòng marketting riêng chuyên đảm nhận hoạt động này. Phòng maketting được thành lập trên cơ sở định hướng và mục tiêu phát triển của ngân hàng. Các cán bộ phòng maketting phải được tuyển dụng kỹ lưỡng là những người có chuyên môn và kinh nghiệm trong công việc đồng thời phải hiểu rất rõ các sản phẩm của ngân hàng. Do đó song song với việc hoạt động mở rộng thị trường VPbank phải mở những lớp đào tạo nghiệp vụ cho phòng maketting thường xuyên mỗi khi ngân hàng có những sản phẩm mới. Có như vậy hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng mới có thể phát triển hơn mức độ phát triển hiện tại của ngân hàng. Đổi mới công nghệ Hiện tại VPbank có hệ thống công nghệ còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống mạng nội bộ của VPbank tỏ ra chưa hiệu quả khi khách hàng có đôi lần thấy phiền toái khi mình đã thanh toán gốc hoặc lãi rồi nhưng máy tính vẫn chưa cập nhật gây không ít hiểu lầm giữa ngân hàng với khách hàng. Để hoạt động cho vay tiêu dùng được hiệu quả, một trong những nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là phải thường xuyên theo dõi giám sát mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng, theo dõi tình hình trả nợ gốc lãi của khách hàng v.v Mỗi cán bộ tín dụng phụ trách không ít khách hàng nên có đôi lúc không thể kiểm soát được hoạt động sau khi vay của khách hàng, cũng như không thể nhớ hết những khách hàng nào đến hạn trả nợ gốc hay chưa. Hiện tại, tại các phòng phục vụ khách hàng đều có một cán bộ chuyên thực hiện việc làm báo cáo hàng tháng. Theo quy định của VPbank khách hàng thanh toán lãi vào ba ngày 5, 15,25 hàng tháng. Trên cơ sở đó, vào các ngày 1,10,20 hàng tháng cán bộ tín dụng này sẽ in sao kê, gửi thông báo cho các cán bộ tín dụng còn lại danh sách khách hàng đến hạn thanh toán lãi (gốc) cho ngân hàng. Tuy nhiên không phải khách hàng nào cũng thanh toán gốc, lãi vào những ngày trên. Nhiều người cứ nghĩ đơn giản, khi nào có tiền họ mang đến ngân hàng trả. Có những trường hợp khách hàng thanh toán trước hạn, cán bộ tín dụng không kiểm soát được. Trong trường hợp này nếu không được cập nhật thông tin, dễ dẫn đến hiểu lầm giữa ngân hàng với khách hàng. Do vậy để khắc phục tình trạng này, giữa bộ phận phục vụ khách hàng, giao dịch nên có sự liên kết chặt chẽ. Hiện nay nhân viên ngân hàng nào cũng sử dụng điện thoại di động. Nếu chúng ta kết hợp giữa ngân hàng và công ty cung cấp dịch vụ mạng điện thoại di động, mỗi khi khách hàng đến thanh toán cho ngân hàng cán bộ tín dụng phụ trách khách hàng đó nhận được hồi âm thông qua hệ thống tin nhắn SMS thì sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian của cán bộ tín dụng đồng thời nâng cao sự chuyên nghiệp, tiện lợi trong việc phục vụ khách hàng của ngân hàng. Công việc này đòi hỏi thời gian và chi phí rất lớn. Hiện tại ở Việt Nam mới có ngân hàng thương mại kỹ thương sử dụng dịch vụ này và nó tỏ ra khá hiệu quả đối với ngân hàng trong việc quản lý khách hàng sau khi vay. Công nghệ hiện đại là một trong những tiêu thức để khách hàng đánh giá uy tín và hiệu quả của mỗi ngân hàng, vì vậy việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là việc cần thiết và có ý nghĩa. Trên cơ sở đổi mới công nghệ, ngân hàng sẽ tăng được năng suất lao động, rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình nghiệp vụ, xử l‏‎ý được khối lượng lớn công việc trong một ngày và phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng đồng thời trợ giúp hoạt động quản l‏‎ý, hạn chế rủi ro trong ngân hàng. Tăng chất lượng nguồn nhân lực Đối với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, tài sản quý nhất là đội ngũ cán bộ. Trong hoạt động tín dụng, cán bộ tín dụng được xem là bộ mặt của ngân hàng khi khách hàng lần đầu tiên đến giao dịch. Chất lượng của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh những chăm lo về đời sống vật chất tinh thần của nhân viên, là động lực giúp họ an tâm công tác, gắn bó lâu dài với ngân hàng, sẵn sàng vì sự phát triển bền vững của ngân hàng, ngân hàng cần chú tâm hơn nữa vấn đề đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng hoạt động. Đối với những nhân viên mới trước đây, họ hoàn toàn phải tự tìm hiểu công việc trong quá trình tập nghề và thử việc. Đấy là một thách thức rất lớn đối với họ. Nếu không có sự ham mê, học hỏi đặc biệt nếu không có người tận tình hướng dẫn chỉ bảo thì sẽ rất khó thành công, vì tín dụng là một công việc rất khó, áp lực công việc cao nên đòi hỏi tố chất làm tín dụng của mỗi người. Điều này là rất hạn chế đối với nhân viên mới cũng như những cán bộ lâu năm. Do đó VPbank nên có những khoá đào tạo ngắn hạn thường xuyên đối với những nhân viên mới và cũ về tất cả các lĩnh vực của ngân hàng do chính những cán bộ có kinh nghiệm trong công việc đảm nhận để các nhân viên ngân hàng có thể bán chéo sản phẩm của VPbank cho khách hàng. Đấy cũng là mục tiêu chiến lược của ngân hàng trong thời gian tới. Bên cạnh đó ngân hàng nên có chính sách cử cán bộ nhân viên tham gia các khoá học đào tạo về chuyên ngành ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức hoặc tham dự các chương trình đào tạo ở nước ngoài như khảo sát về sản phẩm dịch vụ tại nước ngoài đặc biệt là các nước phát triển để học hỏi sự đi trước của những nước này. Vì trên thực tế những kinh nghiệm thu được ở các nước phát triển sẽ là nền tảng vững chắc cho VPbank nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của mình. Việc tạo hình ảnh đẹp cho ngân hàng thông qua đội ngũ cán bộ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của VPbank. Ngoài việc xây dựng “chiến lược nụ cười của nhân viên” ngân hàng nên có những bộ đồng phục riêng mang đậm bản sắc của ngân hàng gây ấn tượng tốt và thiện cảm cho khách hàng nhất là với lần đầu tiên đến giao dịch. Việc mặc đồng phục có thể thay đổi 1 tuần 3 bộ, thay đổi theo mùa cho phù hợp với thời tiết khí hậu ở Việt Nam, vừa tạo cảm giác mới mẻ ấn tượng cho khách hàng vừa tạo sự thuận tiện thoải mái cho nhân viên, góp phần nâng cao hiệu suất làm việc. Điều chỉnh cơ cấu phát triển đối tượng cho vay Như đã đề cập ở trên tỷ lệ cho vay tiêu dùng ở VPbank vẫn tập trung chủ yếu ở cho vay mua nhà và mua ô tô. Trong khi đó thị trường du học là tiềm năng và vô cùng rộng lớn. Ngân hàng nên có những chính sách thay đổi để hoạt động cho vay hỗ trợ tài chính du học phát triển hơn. Ví dụ ngân hàng nên áp dụng những chế độ ưu đãi nhất định đối với khách hàng có nhu cầu vay tiền VPbank nhằm mục đích chứng minh tài chính du học hoặc chi trả học phí cho con em. Điều đó thể hiện ở chế độ lãi suất thấp, thủ tục cho vay đơn giản hơn. và quy chế cho vay được nới lỏng hơn. Việc này không đồng nghĩa với việc giảm quy mô cho vay đối với hai hoạt động còn lại mà có tác dụng kích thích tăng tỷ lệ cho vay đối với cho vay du học từ đó tăng tổng quy mô cho vay tiêu dùng tại VPbank. Bên cạnh đó đối tượng cho vay ở VPbank hiện nay là còn rất hạn chế. Đặc biệt chỉ áp dụng đối với những khách hàng có hộ khẩu Hà Nội (cùng trụ sở làm việc của VPbank). Điều này đã hạn chế rất nhiều việc mở rộng quy mô cho vay của ngân hàng. Nếu trong thời gian tới, VPbank nghiên cứu xem xét để mở rộng đối tượng cho vay của mình đến các vùng lân cận xa nội thành thì quy mô cho vay tiêu dùng nói riêng và tín dụng nói chung sẽ tăng đáng kể. Đó là những vần đề mà ngân hàng cần phải xem xét trong quá trình phát triển và cạnh tranh khốc liệt trên thị trường các ngân hàng với nhau. Đổi mới chính sách của ngân hàng Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng phụ thuộc rất lớn đến hiệu quả làm việc của các cán bộ tín dụng. Vì thế chính sách của ngân hàng khuyến khích tinh thần làm việc và cống hiến của cán bộ tín dụng có vai trò tích cực đối với sự phát triển mở rộng của ngân hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Đối với Chính Phủ Cho vay tiêu dùng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội có tác dụng kích thích tiêu dùng và sản xuất. Do đó Chính phủ cần có những quan tâm hơn nữa đến sự phát triển của lĩnh vực này. Đây không phải chỉ là nhiệm vụ của mỗi ngân hàng thương mại mà để tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển các cơ quan cấp cao như Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể khuyến khích hoạt động này phát triển. Như chúng ta đã biết, nhu cầu tiêu dùng nảy sinh không chỉ ở thành phố mà tại các vùng nông thôn, miền núi nhu cầu của dân cư cũng rất lớn. Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp xúc với nguồn hỗ trợ tiêu dùng của ngân hàng. Sự chênh lệch mức sống tại các khu vực đã hạn chế rất nhiều việc các ngân hàng mở rộng đối tượng cho vay nhằm mục đích tiêu dùng của mình. Do đó trước hết để một bộ phận dân cư ở nông thôn có thể tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng, Chính phủ nên có những biện pháp nhanh chóng kịp thời khuyến khích sự phát triển kinh tế tại các khu vực này, xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho những ngành nghề truyền thống phát triển. Công việc này vừa giúp nền kinh tế địa phương phát triển, vừa tạo công ăn việc làm cho bộ phận dân cư trong khu vực. Bên cạnh đó, việc Chính phủ khuyến khích cho các ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành nghề cung cấp sản phẩm dịch vụ tiêu dùng cho người dân như giảm thuế, tạo điều kiện về thủ tục hành chính v.v sẽ góp phần làm giảm chi phí hoạt động cho các doanh nghiệp làm giảm giá đầu ra tạo điều kiện cho dân cư có cơ hội tiêu dùng với giá rẻ. Bên cạnh đó, việc Chính phủ xây dựng hành lang pháp lý phù hợp cho hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ có tác dụng rất nhiều đến hoạt động của lĩnh vực này. Trên thực tế hiện nay, hoạt động tín dụng tiêu dùng ở các ngân hàng thương mại vẫn hoạt động theo cơ chế riêng của từng ngân hàng trong đó có dựa trên những văn bản quy định về tín dụng nói chung của Ngân hàng Nhà nước. Điều này đã hạn chế ít nhiều đến sự phát triển của hoạt động. Trong thời gian tới Chính phủ nên ban hành Luật tín dụng tiêu dùng nói riêng để hoạt động cho vay tiêu dùng đi vào đời sống dân cư một cách nhanh chóng và chính xác. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Hiện tại hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại vẫn hoạt động trên cơ sở những quy định của Quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Những quy định trong văn bản này hạn chế rất nhiều hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Do đó Ngân hàng Nhà nước nên có những văn bản cụ thể hướng dẫn hoạt động cho vay tiêu dùng quy định về sản phẩm, hạn mức hoặc khung về tài sản. Hiện nay các ngân hàng vẫn hoạt động theo những quy chế riêng của mình, mà mỗi ngân hàng lại có những quy định khác nhau có lợi cho ngân hàng của mình và khách hàng nhất. Điều này đã không ít lần gây thắc mắc với khách hàng khi họ đã từng tham gia hoạt động này tại nhiều ngân hàng. Những chế tài chung do Ngân hàng Nhà nước ban hành sẽ hạn chế được những sự hiểu nhầm này. Hiện tại mỗi cán bộ tín dụng có thể kiểm tra tư cách của khách hàng thông qua việc kiểm tra thông tin tín dụng trên trang web của Ngân hàng Nhà nước. Mỗi lần kiểm tra như vậy đối với mỗi khách hàng ngân hàng đều phải mất phí. Và phí này do ngân hàng phải hách toán vào chi phí quản lý của mình trong trường hợp khách hàng không có đủ tư cách vay. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động của trung tâm này tỏ ra chưa hiệu quả, còn nhiều sai xót. Ngân hàng nhà nước nên đầu tư hơn nữa vào trung tâm này đồng thời cập nhật thông tin thường xuyên theo hình thức online để cán bộ tín dụng có được những thông tin chính xác trong quá trình thẩm định tư cách khách hàng. 3.3.3. Kiến nghị đối với khách hàng Sự thành công của mỗi ngân hàng không thể không kể đến vai trò đóng góp của các khách hàng đặc biệt là các khách hàng truyền thống. Do đó việc khách hàng thiện trí hợp tác với ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, điều này thể hiện qua tinh thần và thái độ hợp tác của khách hàng trong việc hoàn thành tư cách trả nợ của mình. Có những trường hợp khách hàng có tiền nhưng nhất quyết không thanh toán cho ngân hàng. Tất nhiên đây chỉ là con số nhỏ nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, gây mất thời gian và tạo tâm lý ức chế cho cán bộ tín dụng. Trong trường hợp này khách hàng vẫn phải thanh toán khoản nợ lãi hoặc gốc của mình và đôi khi còn phải chịu thêm mức lãi phạt do chậm trả lãi. Xét về thực tế, khách hàng vẫn là người phải chịu thiệt đầu tiên. Do đó khách hàng khi đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì nên có tinh thần thái độ hợp tác hết sức thiện trí, vì mối quan hệ này dựa trên mục đích đôi bên cùng có lợi. Những mối quan hệ hợp tác lâu dài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng cho những lần giao dịch sau. Kết luận Hoạt động cho vay tiêu dùng là một hoạt động tương đối mới mẻ đối với hầu hết các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính Việt Nam. Đây là một hình thức kinh doanh dịch vụ tài chính quan trọng và không còn xa lạ với ngân hàng ở các nước phát triển. Tuy nhiên việc cung cấp loại hình dịch vụ này mới chỉ bắt đầu ở nước ta chưa lâu. Với các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank nói riêng, kinh doanh dịch vụ cho vay tiêu dùng còn nhiều khó khăn vướng mắc với những hạn chế nhất định. Vì thế ngân hàng còn phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa chuẩn bị về mọi mặt nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân sự để hoạt động thực sự trở thành một kênh phân phối vốn hiệu quả, cho vay tiêu dùng đi vào đời sống người dân như một phần tất yếu của nền kinh tế thị trường. Qua quá trình thực tập và được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo - TS Trần Đăng Khâm cũng như sự giúp đỡ của cán bộ phòng A/O cá nhân Chi nhánh Hà Nội ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank, em đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh -VPbank”. Bài viết của em gồm những nội dung chủ yếu như sau: Chương 1: Bài viết đã đưa ra những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Chương 2: Bài viết đã đề cập đến thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank cùng những đánh giá về kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của nó. Chương 3: Bài viết xin nêu ra một số giải pháp và những kiến nghị đối với những cơ quan hữu quan nhằm mục đích phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do thời gian nghiên cứu có hạn và sự hạn chế về hiểu biết cũng như khả năng phân tích, chuyên đề tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến và giúp của các thầy cô, phía ngân hàng và tất cả các bạn có quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Peter Rose – Quản Trị ngân hàng thương mại. Frederic S Mishkin - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. TS Phan Thị Thu Hà - Nguyễn Thị Thu Thảo – Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ. Học viện ngân hàng – Tín dụng ngân hàng. Học viện ngân hàng – Quản trị ngân hàng. Edward W.Reed Ph.D – Edward K.Gill Ph.D – Ngân hàng thương mại. Luật các tổ chức tín dụng. Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Phương lớp KT52 trường Học viện Ngân hàng. Các văn bản pháp quy của NHNN và qui chế của VP bank. Annual Report 2002, 2003, 2004 của VPbank. Bản tin hoạt động của VPbank

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7657.doc
Tài liệu liên quan