Phát triển loại hình du lịch homestay ở huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh hiện nay

Huyện đảo Cô Tô có những điều kiện phù hợp để phát triển loại hình DLCĐ homestay. Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền Cô Tô cũng xem DLCĐ là một sản phẩm chủ đạo trong chiến lược phát triển du lịch của địa phương. Tuy nhiên, khảo sát thực địa cho thấy, với tốc độ gia tăng số lượng nhà nghỉ, khách sạn như hiện nay, loại hình du lịch homestay đang bị cạnh tranh bởi nhiều loại hình lưu trú khác. Nếu không có sự định hướng phù hợp cùng với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, loại hình du lịch thân thiện với môi trường này khó có khả năng giữ vững được vị trí của nó như thời gian đầu ngành Du lịch manh nha phát triển trên huyện đảo, thay vào đó là các hoạt động du lịch khác có mức độ tiêu thụ tài nguyên tự nhiên lớn, ảnh hưởng đến môi trường xã hội nhân văn và có thể mang lại những hệ quả tiêu cực, rút ngắn chu kỳ vòng đời sản phẩm du lịch. Tóm lại, để đảm bảo sự phát triển bền vững, phù hợp với nhiều mục tiêu khác nhau: an ninh quốc phòng, nâng cao thu nhập cho người có điều kiện kinh tế thấp trên đảo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đồng thời, bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái tự nhiên, nhân văn ở Cô Tô thì việc duy trì và tạo sự ưu tiên cho DLCĐ cần phải được xác định là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong quá trình thực hiện phát triển sản phẩm du lịch nơi đây.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển loại hình du lịch homestay ở huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 32 (Tháng 6 - 2020)104 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH HOMESTAY Ở HUYỆN ĐẢO CÔ TÔ, TỈNH QUẢNG NINH HIỆN NAY NGUYỄN ANH TUẤN* Tóm tắt Trong khoảng gần mười năm triển khai hoạt động du lịch đến nay, Cô Tô dần trở thành một điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Việc phát triển loại hình du lịch homestay ở Cô Tô bên cạnh những mặt thuận lợi còn có những khó khăn nhất định. Vấn đề đặt ra hiện nay là Cô Tô cần phải chú trọng đến việc quản lý và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh thái tự nhiên và nhân văn và dành sự ưu tiên đầu tư cho loại hình du lịch homestay nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững du lịch. Từ khóa: Du lịch cộng đồng, homestay, huyện đảo Cô Tô Abstract For nearly ten years of implementing tourist activities, Co To has gradually become an attractive destination for domestic and foreign tourists. There are lots of advantages as well as difficulties in the development of home-stay tourism of Co To. The current matter is that the management and rational use of natural ecological and human resources must be concerned and the type of homestay tourism in Co To needs to be given priority to achieve the aims of sustainable development tourism. Keywords: Community tourism, home-stay, Co To island district Huyện đảo Cô Tô thuộc tỉnh Quảng Ninh có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở khu vực biển đảo phía Bắc của Việt Nam. Trong những năm qua, lĩnh vực dịch vụ - du lịch của Cô Tô đang ngày càng được chú trọng đầu tư phát triển và từng bước khẳng định vai trò của mình trong cơ cấu kinh tế của huyện đảo. Tiềm năng và thế mạnh của du lịch Cô Tô được thể hiện rõ nét qua sức hấp dẫn của những bãi biển đẹp, cát trắng, nước trong, bờ thoải, gắn với cảnh quan của hệ sinh thái rừng đa dạng được bảo tồn gần như nguyên vẹn mang lại vẻ đẹp hoang sơ. Cô Tô cũng là vùng biển được coi là đa dạng sinh học hàng đầu Việt Nam với sự có mặt nhiều hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới, trong đó có hệ sinh thái rạn san hô tập trung. Là một nơi có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, người dân thân thiện, nhưng cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch còn yếu và thiếu, địa hình xa xôi cách trở vì nằm ngoài vịnh, giao thông không thuận lợi, Cô Tô khó thu hút các nhà đầu tư hơn so với các địa phương khác trong tỉnh Quảng Ninh. Với những điều kiện đặc thù như vậy, loại hình du lịch dựa vào cộng đồng homestay có lợi thế là chi phí đầu tư thấp, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ, là một sản phẩm du lịch phù hợp để huyện đảo Cô Tô chú trọng đầu tư phát triển. Vấn đề hiện nay là cần nhận diện được những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển loại hình du lịch dựa vào cộng đồng homestay ở * ThS., Viện Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội 105Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Cô Tô để từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để phát triển du lịch bền vững lâu dài. 1. Loại hình du lịch dựa vào cộng đồng homestay Từ lâu, khái niệm “du lịch cộng đồng” (DLCĐ) đã được đề cập rộng rãi tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy còn có sự khác biệt ít nhiều về mặt nội dung, nhưng về cơ bản, khái niệm DLCĐ chứa đựng các yếu tố chủ yếu sau: - Du khách là tác nhân bên ngoài, là tiền đề mang lại lợi ích kinh tế và sẽ có những tác động nhất định kèm theo việc thụ hưởng các giá trị về môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn khi đến với một cộng đồng địa phương cụ thể. - Cộng đồng địa phương là người kiểm soát các giá trị về mặt tài nguyên du lịch để hỗ trợ du khách có cơ hội tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình khi có cơ hội tiếp cận hệ thống tài nguyên du lịch tại không gian sinh sống của cộng đồng địa phương. - Cộng đồng địa phương sẽ nhận được lợi ích về mặt kinh tế, mở rộng tầm hiểu biết về đặc điểm tính cách của du khách cũng như có cơ hội nắm bắt các thông tin bên ngoài từ du khách. - Cộng đồng địa phương ngày càng được tăng cường về khả năng tổ chức, vận hành và thực hiện các hoạt động, xây dựng các sản phẩm du lịch phục vụ du khách. Từ đó, cộng đồng ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình. Homestay là một loại hình du lịch gắn với cộng đồng theo xu hướng tích cực khám phá, tìm hiểu văn hóa bản địa, cùng làm, cùng sống và trao đổi trực tiếp với người dân bản xứ. Loại hình du lịch homestay không chỉ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của du lịch mà còn đang có tác động sâu sắc đến xã hội như: Tăng cường giáo dục ý thức về bảo vệ môi trường, bảo tồn các di tích văn hóa, lịch sử của người dân bản địa và du khách; tạo ra sự giao lưu văn hóa, phong tục tập quán giữa các dân tộc và các quốc gia khác nhau; tăng cường các mối quan hệ trong cộng đồng người dân; sự gắn bó của chính quyền địa phương và người dân bản xứ; giáo dục ý thức về phong cách ứng xử trong cộng đồng người dân. Đồng thời, loại hình du lịch này cũng có tác động đến kinh tế, đó là: thu hút các nhà đầu tư vào du lịch và các lĩnh vực khác như hệ thống giao thông, trường học, mở rộng và nâng cấp các làng nghề truyền thống, trùng tu các di tích lịch sử; tạo ra nguồn thu nhập cho người dân, tạo cơ hội việc làm cho nhiều hộ gia đình nghèo; góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Nhìn rộng hơn ở tầm kinh tế vĩ mô, loại hình du lịch homestay cũng là cách thức tạo nên tính độc đáo trong bức tranh kinh tế du lịch của địa phương. Homestay hứa hẹn tạo nên diện mạo riêng để dần hình thành nên sản phẩm du lịch đặc thù. Trong bài viết này, tác giả sử dụng khái niệm homestay do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra và được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 88 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Homestay là nơi sinh sống của người sở hữu nhà hoặc sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú, có trang thiết bị tiện nghi cho khách cho thuê lưu trú, có thể có dịch vụ khác theo khả năng đáp ứng của chủ nhà [2]. Dịch vụ homestay phải đảm bảo được các tiêu chuẩn căn bản như sau: 1. Cơ sở lưu trú: Phải sạch sẽ và an toàn; phải thông gió, không ẩm mốc và không có mùi; có đủ ánh sáng tự nhiên vào phòng; có mái che chắn và không thấm nước; giường ngủ đạt tiêu chuẩn sạch sẽ; có phòng tắm và các tiện nghi vệ sinh; sử dụng phương pháp truyền thống để chống muỗi; tiêu chuẩn nhà ở thực hiện theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN 1800:2009. 2. Thực phẩm và dinh dưỡng: Thực phẩm chuẩn bị tốt; nhà bếp sạch sẽ, thông thoáng vệ sinh; có nước uống sạch; cộng đồng có một nhà hàng phục vụ ăn uống. 3. An toàn: Cộng đồng phải có người trực để đảm bảo an toàn, an ninh; có phương tiện Số 32 (Tháng 6 - 2020)106 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thông tin để báo động các nguy hiểm sắp xảy ra. Nếu khách bị đau ốm, bị thương tích có thể tiếp cận nhanh và thuận tiện với nơi cấp cứu; dự án hoặc người thực hiện Homestay phải khuyến cáo du khách bảo vệ tài sản của mình và nhắc nhở họ mang theo người các loại thuốc cần dùng; các ổ khóa trong nhà phải được duy trì thường xuyên. 2. Những thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong khai thác loại hình du lịch homestay ở Cô Tô 2.1. Thuận lợi Về tài nguyên thiên nhiên, Cô Tô có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên độc đáo: bãi biển đẹp nguyên sơ, đa dạng sinh vật biển, có hệ sinh thái rạn san hô (là tài nguyên du lịch biển rất quan trọng); cảnh quan đa dạng có cánh đồng, núi đồi, hồ nước ngọt tự nhiên và đặc biệt khí hậu cực kỳ trong lành phù hợp cho du lịch dã ngoại, nghỉ dưỡng. Cô Tô còn là một trong những khu vực có đa dạng sinh học cao của tỉnh Quảng Ninh. Ngoài tài nguyên biển, huyện đảo còn có diện tích rừng tương đối lớn (2.767ha), độ che phủ của rừng đạt 58,2% trên tổng diện tích huyện đảo [5, tr.11]. Rừng trên đảo đa số là rừng phục hồi, đặc biệt có rừng trâm bầu (rừng chõi) là một tài nguyên quý, phân bố chủ yếu ở đảo Cô Tô lớn, ngoài tác dụng là rừng phòng hộ còn tạo cảnh quan đẹp, là tài nguyên sinh thái tự nhiên có thể khai thác du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn cũng có một số điểm mang tính bổ trợ cho du lịch về với tự nhiên như đền thờ Bác Hồ, lễ hội truyền thống hàng năm và nhà thờ đạo. Một thuận lợi nữa tạo tiền đề cho du lịch Cô Tô phát triển là vị trí của đảo nằm trong tỉnh Quảng Ninh, một tỉnh có bề dày kinh nghiệm, có nhiều thành tựu trong phát triển du lịch ở phía Bắc. Vị trí địa lý gần di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long cũng là một trong những lợi thế sẵn có của Cô Tô để phát triển du lịch. Về phía chính quyền địa phương, những năm gần đây, chính quyền huyện đảo Cô Tô đã phát huy được tiềm năng du lịch: lợi thế đảo xa, thiên nhiên ưu đãi, vùng biển còn hoang sơ, môi trường trong lành, con người thân thiện và xác định được hướng phát triển phù hợp: du lịch xanh, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, xây dựng văn hóa du lịch Du lịch đã trở thành một ngành mũi nhọn với lượng du khách tăng nhanh chóng và là nguồn thu quan trọng cho ngân sách huyện: “Được sự quan tâm của tỉnh, huyện đang tích cực kết hợp với tỉnh Quảng Ninh về phát triển du lịch với định hướng xen kẽ phát triển kinh tế chuyển hướng du lịch. Đó là một chuỗi kết nối của các điểm du lịch trọng điểm của tỉnh Quảng Ninh: Vân Đồn, Cô Tô, Móng Cái, Uông Bí, Đông Triều. Đây là kết nối quan trọng, cùng với việc kết nối với các tỉnh lân cận cũng được sự quan tâm của tỉnh. Chính quyền địa phương vào cuộc rất mạnh về vấn đề du lịch” (PVS, Th., nam, Trưởng phòng VH&TT). Cụ thể: Về thủy lợi, huyện Cô Tô đã lập quy hoạch và tiến hành xây dựng, cải tạo nhiều hồ nước ngọt (hồ nước ngọt thị trấn Cô Tô, hồ Trường Xuân, hồ Chiến Thắng I, Chiến Thắng II, và 10 hồ nước ngọt khác) để đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương và nâng cao khả năng sẵn sàng đón tiếp khách du lịch vào mùa cao điểm. Về giao thông vận tải, huyện đã tập trung phát triển các đội tàu cao tốc có chất lượng cao để phục vụ khách du lịch. So với tàu gỗ - phương tiện vận chuyển truyền thống của người dân địa phương, tàu cao tốc rút ngắn thời gian di chuyển từ cảng Cái Rồng ra đảo xuống còn ¼ thời gian, chỉ còn hơn 70 phút. Các tuyến đường nội bộ trong đảo cũng được nâng cấp, làm mới gồm hơn 30km nối liền trung tâm thị trấn đến các bãi biển, đảo nhỏ khác nhằm thuận tiện hóa quá trình di chuyển đến các điểm du lịch nhỏ trong đảo. Về chính sách hỗ trợ nhân dân và doanh nghiệp trong hoạt động phục vụ khách du lịch, huyện đã hỗ trợ các hộ dân số tiền 15 - 30 triệu đồng/hộ để tu sửa, chuyển mục đích sử dụng tàu thuyền từ đánh bắt cá sang phục vụ khách du lịch; hỗ trợ các cơ sở sản xuất đặc sản địa phương 100 triệu 107Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đồng mỗi cơ sở để phát triển thương hiệu, sản xuất sản phẩm địa phương đặc thù phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch [4, tr.71]. Từ năm 2010 đến nay, huyện đã tích cực tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhân dân tham gia phát triển du lịch với việc ban hành và triển khai thực hiện 30 nghị quyết về các cơ chế chính sách hỗ trợ cho nhân dân phát triển kinh tế, trong đó có những nghị quyết đã hoàn thành và đã đóng góp vào việc phát triển kinh tế du lịch, nâng cao đời sống của nhân dân như: - Một số cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí để mời Đoàn viên Thanh niên trong Chương trình Hành trình biển đảo 2012; - Đối với du lịch, hỗ trợ lãi suất cho các hộ dân vay vốn 200.000.000 đồng trong 5 năm sẽ được hỗ trợ 50% lãi suất; - Cơ chế hỗ trợ hộ dân mua xe điện, hỗ trợ đóng tàu cao tốc...; - Các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất, đi kèm là tạo nguồn thực phẩm cũng như các dịch vụ để phục vụ du lịch [4, tr.72]. Đó là những cơ chế chính sách góp phần cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân và phát huy tiềm năng du lịch của huyện đảo. Bên cạnh đó, được sự đầu tư và giúp đỡ của tỉnh, của các tổ chức có liên quan, huyện đảo luôn duy trì và mở rộng các lớp đào tạo nguồn nhân lực về DLCĐ và đều được nhân dân hưởng ứng và tham gia đông đảo. Đây là những hoạt động thiết thực để đưa DLCĐ huyện đảo bắt kịp với xu thế chung của cả nước. Về phía người dân địa phương tham gia phát triển du lịch homestay, qua khảo sát thực tế tại đảo Cô Tô, chúng tôi nhận thấy thái độ của người dân địa phương có thể được xếp vào nhóm thân thiện. Cư dân địa phương ở đây vốn là những người đến từ 14 tỉnh thành khác nhau, chủ yếu là các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Thái Bình, Nam Định, Hà Nam Với đặc điểm văn hóa nông nghiệp là hiếu khách, họ rất cởi mở và tích cực giao tiếp với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nội địa. Những vấn đề thường gặp ở khách du lịch là ăn uống, đi lại, lưu trú thường được người dân địa phương giúp đỡ đầy thiện ý, không vụ lợi. Giá cả dành cho khách du lịch được tính theo giá địa phương, nghĩa là không có sự chênh lệch giá khi bán cho người bản địa và khách du lịch. Điều này tạo nên một đặc tính hấp dẫn du lịch rất riêng của đảo Cô Tô khi so sánh với các điểm du lịch lân cận như Cát Bà, Hạ Long và Đồ Sơn. Đây chính là lợi thế lớn tác động đến chính sách và mục tiêu phát triển du lịch của các cấp chính quyền và nhân dân ở huyện đảo Cô Tô. Để phát triển kinh tế gia đình, mọi người dân địa phương có điều kiện và mong muốn tham gia kinh doanh du lịch đều có thể được cấp phép kinh doanh homestay. Vì vậy, nếu như năm 2010 mới chỉ có vài ba hộ ở xã Đồng Tiến (một xã nghèo của huyện, người dân chủ yếu làm nghề đánh bắt hải sản) tham gia loại hình này, thì hiện nay, trên toàn huyện đảo đã có hơn 60 hộ gia đình đăng ký kinh doanh du lịch homestay. Bên cạnh đó, Chương trình “Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” năm 2012 của Đoàn Thanh niên đã tập trung được hơn 1.000 hộ dân, trong đó có nhiều hộ nghèo tham gia, tạo điều kiện cho nhân dân tăng nguồn thu nhập và làm quen với hoạt động dịch vụ du lịch. “Đoàn Thanh niên đã đứng ra thế chấp cho các hộ dân để mỗi nhà dân xây dựng từ 1- 2 phòng, hoặc từ một cơ sở vật chất sửa chữa thành 1 phòng có thể đảm bảo được đón khách. Đoàn Thanh niên tham mưu cho huyện phát hành 500 thư mời đi các địa phương trong cả nước theo kênh của Đoàn Thanh niên. Đến cuối mùa hè năm 2012, có 40 đoàn với khoảng 2.000 đoàn viên thanh niên đến Cô Tô. Đây là những thuận lợi bước đầu cho du lịch Cô Tô, là lượng khách nhất định xuất phát từ chương trình đó theo chủ trương của huyện” (PVS, H., nam, Phó bí thư Huyện đoàn Cô Tô). Về phía khách du lịch, qua khảo sát các diễn đàn du lịch trên mạng internet cho thấy, Số 32 (Tháng 6 - 2020)108 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Cô Tô ngày nay được khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch thuộc nhóm trẻ đánh giá là một điểm đến hấp dẫn, chi phí hợp lý và là điểm cần phải đến trong mùa vụ du lịch kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Thông tin chi tiết về xe, tàu, giá nhà nghỉ, khách sạn và các điểm cần phải đến trên đảo được giới trẻ chia sẻ rất đầy đủ trên các diễn đàn internet, facebook, twitter và các blog cá nhân. Ý kiến phản hồi sau mỗi chuyến du lịch đi đến Cô Tô thường tích cực. Các dịch vụ du lịch thường được đánh giá cao là: ẩm thực, thái độ thân thiện của người dân địa phương, môi trường tự nhiên. Những bất cập thường được nhắc đến là: thời gian di chuyển, phương tiện vận chuyển và giá cả trong mùa cao điểm, những ngày nghỉ cuối tuần. Cô Tô có lợi thế so sánh với những điểm du lịch biển trong đất liền là có môi trường tự nhiên trong lành, môi trường xã hội chưa bị tác động mạnh bởi hoạt động du lịch và nguồn tài nguyên biển vô cùng phong phú có thể đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khách du lịch ở mức độ cao. 2.2. Khó khăn và hạn chế Về tài nguyên du lịch nhân văn, việc tổ chức lễ hội dân gian, các hình thức biểu diễn dân gian, các sự kiện hiện đại và xây dựng những điểm tham quan thắng cảnh chưa thực hiện thường xuyên và quy mô còn nhỏ hẹp, chưa khai thác hết được đặc điểm đa dân tộc của cư dân huyện đảo Cô Tô. Huyện vẫn đang xây dựng những điểm tham quan thắng cảnh tâm linh như chùa, nhà thờ, và nâng cấp đền thờ Bác Hồ nên văn hóa tâm linh chưa được phát huy. “Tới đây, chúng tôi cần phải lựa chọn và gây dựng một số điểm nhấn về hoạt động vui chơi giải trí có tính hấp dẫn cao để phục vụ nhu cầu giải trí của du khách, chứ hiện giờ Cô Tô vẫn chưa có lễ hội truyền thống hay hiện đại nào đặc sắc, hoạt động văn hóa giải trí trên đảo còn nghèo nàn” (PVS, Th., nam, Trưởng phòng VH&TT). Chính sách phát triển du lịch của huyện đảo Cô Tô đã được hình thành và duy trì ổn định từ năm 2012 đến nay. Hệ thống chính sách này phù hợp với định hướng phát triển du lịch chung của đất nước, của tỉnh và thỏa mãn các điều kiện đặc thù khác của huyện. Tuy nhiên, một số chính sách khác lại mâu thuẫn với chính sách phát triển du lịch ở đây, điển hình là việc huyện không khuyến khích các doanh nghiệp ngoài đảo, ngoài tỉnh tham gia vào hoạt động đầu tư, xây dựng cơ sở du lịch do vấn đề đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực biển đảo và do chính sách bảo trợ cho người dân bản địa hưởng quyền ưu đãi trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Với chính sách ưu tiên cấp phép kinh doanh du lịch cho doanh nghiệp địa phương và người dân địa phương, sự góp mặt của các doanh nghiệp mạnh ở ngoài huyện Cô Tô bị hạn chế đáng kể, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc tế. Đây là một trong những nét đặc thù, cũng là vấn đề đặt ra trong chiến lược phát triển du lịch biển đảo ở Cô Tô. Ngoài mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng khu biên giới biển, chính quyền Cô Tô cần nghiên cứu một cơ chế phù hợp với thực tiễn, cơ chế đó cần đảm bảo sự tham gia của các doanh nghiệp lớn bên ngoài đồng thời vẫn đáp ứng được những yêu cầu về an ninh quốc phòng của huyện đảo. Cô Tô là một hải đảo nằm ngoài vịnh Hạ Long, nên thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi sóng to gió lớn hơn so với các điểm du lịch nằm sâu trong vịnh. Vấn đề thời tiết luôn có tác động mạnh, đôi khi mang yếu tố quyết định đến chính sách phát triển du lịch ở đây. Thời tiết và những tác động của môi trường tự nhiên mang tính bất khả kháng ở Cô Tô dẫn đến hoạt động du lịch phải dựa trên những đặc thù khí hậu, thời tiết để điều chỉnh theo, từ đó, chúng quy định mùa vụ du lịch diễn ra tại đây. Tác động thời tiết ở Cô Tô có thể gây nên ảnh hưởng trên một số phương diện sau: + Hạn chế khả năng di chuyển, đi lại, vận chuyển khách du lịch: Khi có bão, hoặc đơn giản có gió lớn trên biển; sóng biển cấp 5, cấp 6 thì mọi chuyến tàu ra đảo, dù là tàu gỗ hay tàu 109Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA cao tốc đều bị cấm di chuyển. Khách du lịch đi trong thời điểm này đều phải nghỉ và chờ đợi ở cảng Cái Rồng hoặc những cảng khác làm gia tăng chí phí cho chuyến đi và tạo tâm lý không tốt đối với du khách. Thời gian cấm di chuyển cũng ảnh hưởng lớn đến hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác trên đảo do không bán được sản phẩm gây lãng phí nguồn lực, đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ. + Các bãi biển không thể đón tiếp khách du lịch: Đặc thù của du lịch biển là phụ thuộc lớn vào thời tiết, khi thời tiết đẹp, có nắng, nhiệt độ phù hợp, khách du lịch sẽ đi tắm biển và tham quan nhiều; ngược lại, khi trời âm u, nhiệt độ quá lạnh (mùa đông) các bãi biển là nơi không phù hợp cho các hoạt động tắm biển, ngắm cảnh, thưởng thức ẩm thực biển và chụp ảnh. Tác giả đã tiến hành một chuyến đi khảo sát điền dã vào tháng 1 và nhận thấy các bãi biển Vàn Chải, Hồng Vàn, ở đảo Cô Tô hầu như không có khách. Các dịch vụ du lịch trong thời điểm này ngưng hoạt động; trên biển và bãi biển chỉ có các hoạt động lao động sản xuất của người dân địa phương. Đây là một sự lãng phí rất lớn, tuy nhiên là điều không tránh khỏi đối với các điểm du lịch biển khi thời tiết miền Bắc không thuận lợi cho phát triển du lịch biển như các vùng biển ở miền Nam. Yếu tố thời tiết gây nên những tác động không nhỏ đến hoạt động du lịch, đặc biệt chúng tạo nên tính thời vụ trong du lịch tại huyện đảo Cô Tô. Thời điểm cho hoạt động du lịch nhộn nhịp chủ yếu tập trung vào khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Như vậy trong một năm, Cô Tô chỉ có thể đón tiếp khách du lịch trong 5 tháng; 7 tháng còn lại, lượng khách đến rất ít gây nên sự lãng phí lớn cho các cơ sở kinh doanh du lịch như nhà nghỉ, khách sạn, trong đó có loại hình kinh doanh du lịch homestay. Trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, thời gian khách không đến lưu trú hay công xuất phòng không đạt ngưỡng 50% đã gây nên những khấu hao, khả năng thu hồi vốn và những chi phí phát sinh cho bảo dưỡng duy trì phòng phục vụ khách du lịch. Đối với người dân bản địa, thu nhập từ du lịch bị ngắt quãng tạo nên tính không ổn định trong nghề nghiệp và họ phải tự tìm những ngành nghề khác để kiếm sống. Đây chính là lý do mà Cô Tô nên chú trọng phát triển loại hình du lịch homestay như là một sản phẩm chủ lực trong chiến lược phát triển du lịch của mình. Cô Tô là một huyện đảo có khoảng cách tương đối xa tính từ đất liền, hoạt động phát triển du lịch mới chỉ thực sự bắt đầu chưa được 10 năm, một trong những khó khăn của huyện đảo là ít được khách du lịch biết đến, do đó, việc quảng bá sản phẩm du lịch cần phải được đẩy mạnh. Tuy nhiên, hiện nay việc quảng bá cho du lịch Cô Tô chưa được tiến hành một cách hệ thống và chuyên nghiệp. Công tác quảng cáo, giới thiệu về điểm du lịch chủ yếu chỉ tập trung vào các trang mạng internet tiếng Việt, chưa có những sự kiện lớn được tổ chức trên đảo và việc giới thiệu chưa đầy đủ, mới chỉ tập trung vào bãi biển, cảnh quan mà chưa chú trọng vào ẩm thực, sản phẩm địa phương, văn hóa biển, thái độ hiếu khách chân thành của người bản địa. Cùng với việc phát triển du lịch thì vấn đề vệ sinh môi trường hiện cũng đang trở thành vấn đề cần phải đặc biệt chú trọng giải quyết. “Trước đây trên địa bàn thị trấn Cô Tô, 1 ngày có khoảng 5 tấn rác, bây giờ có khi lên tới mười mấy tấn. Trước đây, đường đi lại sạch, không có cát như bây giờ. Nay giao thông đi lại quá tải, đường bị hỏng do xe công trình có trọng lớn đi qua. Bên cạnh đó, môi trường, không khí cũng bị ô nhiễm. Trước đây, từ người già ở Hà Nội ra đây rất thích không khí Cô Tô, mùa hè đi xe điện không có tý bụi nào, bây giờ, đi xe điện từ bãi tắm về có thể thấy đất đỏ cuộn lên, không còn sạch sẽ như trước nữa” (PVS, Th., nam, cán bộ hưu trí, chủ hộ kinh doanh du lịch homestay). Số 32 (Tháng 6 - 2020)110 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Như vậy, để giữ gìn cảnh quan môi trường trong sạch, đẹp là những giá trị cốt lõi của sản phẩm du lịch nói chung và homestay nói riêng trên đảo Cô Tô, cần phải giải quyết những vấn đề như xử lý rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường, bảo vệ tài nguyên rừng và tài nguyên biển (khôi phục lại hệ sinh thái rạn san hô do bị khai thác quá mức) để phát huy được hết thế mạnh riêng có của mình, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. 3. Quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên để phát triển bền vững loại hình du lịch homestay ở Cô Tô DLCĐ homestay trên huyện đảo Cô Tô có một quá trình phát triển tương đối khác biệt so với các điểm DLCĐ homestay khác trên toàn quốc: Thứ nhất, nếu như các điểm homestay khác chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên nhân văn, con người như các điểm dân tộc thiểu số, làng Việt cổ, thì Cô Tô lại chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên sinh thái tự nhiên như biển, rừng và vị trí địa lý để phát triển DLCĐ. Thứ hai, không giống các điểm homestay khác như suối Voi, Sapa, làng cổ Bắc Ninh, bản Lác được các tổ chức phi chính phủ định hướng phát triển (như SNV - tổ chức phát triển Hà Lan, UNDP - dự án phát triển Liên hợp quốc và JICA của Nhật), du lịch homestay ở Cô Tô được hình thành một cách tự phát. Do vậy, để phát triển loại hình DLCĐ homestay ở huyện đảo Cô Tô, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, học hỏi kinh nghiệm từ các địa phương đang phát triển loại hình du lịch này, đồng thời phải bám sát vào điều kiện, thế mạnh về tài nguyên môi trường sinh thái tự nhiên để xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với thực tế của huyện đảo Cô Tô. Nhìn chung, DLCĐ homestay được chính quyền huyện đảo và ngành Du lịch non trẻ tại đây xem là loại hình du lịch phù hợp với điều kiện hiện nay của Cô Tô. Bên cạnh việc mở rộng thêm các hình thức kinh doanh lưu trú khác như các khách sạn cao cấp, nhà nghỉ, khách sạn trung cấp thì việc phát triển và quy hoạch du lịch homestay một cách bài bản cũng được đặt ra như một mục tiêu để phát triển du lịch bền vững. Theo quan sát của tác giả, với tốc độ gia tăng số lượng nhà nghỉ, khách sạn như hiện nay, trong tương lai không xa, loại hình du lịch homestay có thể bị cạnh tranh từ nhiều phía trong ngành Du lịch. Nếu không có sự định hướng phù hợp cùng với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, loại hình du lịch thân thiện với môi trường này khó có khả năng giữ vững được vị trí của nó như thời gian đầu ngành Du lịch manh nha phát triển trên huyện đảo, thay vào đó là các hoạt động du lịch khác có mức độ tiêu thụ tài nguyên tự nhiên lớn, ảnh hưởng môi trường xã hội nhân văn trầm trọng và có thể mang lại những hệ quả tiêu cực, rút ngắn chu kỳ vòng đời sản phẩm du lịch. Với thực trạng đang diễn ra, cần có sự quản lý và sử dụng một cách hiệu quả các nguồn tài nguyên sinh thái tự nhiên, nhân văn, ưu tiên phát triển loại hình du lịch thân thiện với môi trường homestay ở Cô Tô. Hiện tại, trên huyện đảo đã xuất hiện hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ lớn khá chuyên nghiệp, tuy nhiên, việc đón tiếp khách du lịch vẫn một phần phải dựa vào loại hình du lịch homestay, bởi lượt khách đến huyện đảo quá đông trong mùa cao điểm (theo thống kê của UBND huyện Cô Tô, mùa du lịch 2018, có 240.000 lượt du khách, trong đó du khách quốc tế là 4.541 lượt, tăng 121% so với năm 2017) [3]. Du lịch phát triển nhanh chóng dẫn đến khó khăn trong việc quyết định phát triển các điểm đến du lịch, đó là, nên trao quyền quản lý nguồn tài nguyên, khai thác cho những đối tượng nào: chính quyền, doanh nghiệp, người dân địa phương hay là sự hợp tác giữa ba chủ thể cung ứng dịch vụ du lịch đó. Hiện nay, Cô Tô đang phải đối mặt với tình trạng tranh chấp lợi ích thu được từ việc khai thác nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất quy hoạch phục vụ du lịch, các bãi biển, các loại hình giải trí gắn với biển. Thêm nữa, 111Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA việc xác định dành nguồn tài nguyên du lịch để phát triển loại hình du lịch nào cũng đang là một vấn đề lớn cần lời giải của ngành Du lịch. Câu hỏi cho ngành Du lịch ở đây là nên duy trì hình thức homestay truyền thống hay là để các doanh nghiệp đầu tư hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng và dịch vụ du lịch phát triển một cách điển hình như những trung tâm du lịch biển khác ở khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng và những địa phương có biển khác? Du lịch homestay là một hình thức du lịch được phát triển dựa vào cộng đồng (Community - Based Tourism). Nguyên tắc phát triển loại hình du lịch này là lấy cộng đồng làm trung tâm; trao quyền cho họ trong công tác lập kế hoạch, làm chủ những sản phẩm du lịch từ đó họ kiểm soát phần lớn nguồn thu từ du lịch, nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống vật chất - tinh thần. Tuy nhiên, đối với Cô Tô, hiện tượng khách du lịch tăng đột biến và có xu hướng trở thành một điểm du lịch lớn lại tạo ra những tác động chưa thể dự báo trước và xuất hiện nhu cầu đầu tư du lịch mạnh mẽ chứ không chỉ đơn thuần là phát triển hình thức du lịch homestay như thời điểm ban đầu. Tín hiệu đáng mừng là loại hình du lịch homestay xuất hiện từ năm 2010 và được triển khai chính thức từ năm 2012 ở Cô Tô, sau gần 10 năm hoạt động đã phát triển từ vài hộ kinh doanh ban đầu lên con số trên 60 hộ đăng ký kinh doanh hiện nay với chất lượng dịch vụ ngày một ổn định. Việc gia tăng mạnh lượng khách du lịch tạo ra một mâu thuẫn là nên đặt việc khai thác tài nguyên du lịch vào các công ty du lịch (nhà nước, tư nhân) có nguồn vốn dồi dào hay vẫn duy trì việc khai thác chúng trong đối tượng người dân địa phương kinh doanh du lịch homestay? Nếu để cho các doanh nghiệp du lịch khai thác, vị thế và lợi ích của người dân địa phương có thể bị suy giảm và phụ thuộc; còn nếu chỉ để cho người dân khai thác, ngành Du lịch sẽ khó phát triển mạnh mẽ và phát huy tối đa tiềm năng du lịch tại đây. Để khai thác du lịch nói chung, DLCĐ nói riêng, cũng như giải quyết vấn đề quản lý, phát triển nguồn tài nguyên, cần phải hướng tới mục tiêu cân bằng lợi ích của các chủ thể cung ứng du lịch (chính quyền, doanh nghiệp, người dân địa phương). Các giải pháp cần tập trung vào những hướng sau: - Ngành Du lịch cần phối hợp với ngành Tài nguyên môi trường, địa chất, chính quyền địa phương xây dựng bản đồ chi tiết, trong đó nghiên cứu kỹ lưỡng khu vực nào có thể để doanh nghiệp đầu tư phát triển du lịch và khu vực nào dành cho phát triển du lịch homestay. Việc xây dựng bản đồ tài nguyên du lịch cần khách quan, tránh tình trạng phải di chuyển những khu dân cư có sẵn. Các khu vực dành cho doanh nghiệp cần phải xác định là ở những địa điểm đẹp, ít nhà dân cư trú và cần cải tạo (công việc cải tạo đất và mặt bằng nằm trong khả năng của doanh nghiệp trong khi đó rất khó khăn đối với các hộ gia đình). - Việc duy trì nghề cá và dịch vụ du lịch cần phải được cân đối và không làm ảnh hưởng lẫn nhau trong mùa cao điểm. Bãi biển là nơi người dân tập kết sản phẩm đánh bắt được, đồng thời cũng là ngư trường của họ. Tuy nhiên, khi hoạt động du lịch được ưu tiên, chính quyền địa phương cần xác định đâu là nơi đánh bắt và tập kết hải sản, đâu là nơi dành cho hoạt động du lịch. Để đạt được mục đích này, chính quyền nên quy định một khu vực cụ thể cho ngư dân và nghiên cứu khai thác du lịch ở những bãi biển có điều kiện thuận lợi. Nếu lợi ích giữa du lịch và ngư nghiệp cản trở lẫn nhau, chính quyền có thể đầu tư xây dựng cảng cá riêng ở vị trí tương đối xa so với những bãi tắm truyền thống. - Trong hoạt động cung cấp thông tin cho khách du lịch, ngành Du lịch địa phương có thể giới thiệu cả hai loại hình lưu trú là du lịch lưu trú homestay - nhấn mạnh đến trải nghiệm, tiếp xúc nhiều với người dân bản địa và du lịch “truyền thống” lưu trú tại khách sạn, nhà Số 32 (Tháng 6 - 2020)112 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nghỉ, ít tiếp xúc với người dân bản địa. Việc ưu tiên giới thiệu cho du khách đến các nhà nghỉ, khách sạn là hành động lấy đi quyền tham gia, công việc, thu nhập từ du lịch của người dân bản địa và đi ngược lại với mục đích phát triển DLCĐ ban đầu. - Ngành Du lịch có thể nghiên cứu thị trường mục tiêu khác nhau cho các loại hình du lịch khác nhau. Ví dụ, loại hình du lịch homestay có thể hướng vào thị trường khách du lịch nước ngoài, những người có mong muốn cao trong việc trải nghiệm văn hóa, lối sống người bản địa; loại hình du lịch hiện đại có thể lấy khách du lịch nội địa - những người có nhiều hiểu biết về văn hóa bản địa làm thị trường mục tiêu. Có nhiều giải pháp khác nhau trong việc khai thác nguồn tài nguyên, vấn đề tiên quyết đặt ra là các giải pháp cần phải đảm bảo tính công bằng trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên và mọi chủ thể cần phải được hưởng lợi ích từ du lịch mang lại cho địa phương. Kết luận Huyện đảo Cô Tô có những điều kiện phù hợp để phát triển loại hình DLCĐ homestay. Lãnh đạo cấp ủy, chính quyền Cô Tô cũng xem DLCĐ là một sản phẩm chủ đạo trong chiến lược phát triển du lịch của địa phương. Tuy nhiên, khảo sát thực địa cho thấy, với tốc độ gia tăng số lượng nhà nghỉ, khách sạn như hiện nay, loại hình du lịch homestay đang bị cạnh tranh bởi nhiều loại hình lưu trú khác. Nếu không có sự định hướng phù hợp cùng với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, loại hình du lịch thân thiện với môi trường này khó có khả năng giữ vững được vị trí của nó như thời gian đầu ngành Du lịch manh nha phát triển trên huyện đảo, thay vào đó là các hoạt động du lịch khác có mức độ tiêu thụ tài nguyên tự nhiên lớn, ảnh hưởng đến môi trường xã hội nhân văn và có thể mang lại những hệ quả tiêu cực, rút ngắn chu kỳ vòng đời sản phẩm du lịch. Tóm lại, để đảm bảo sự phát triển bền vững, phù hợp với nhiều mục tiêu khác nhau: an ninh quốc phòng, nâng cao thu nhập cho người có điều kiện kinh tế thấp trên đảo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đồng thời, bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái tự nhiên, nhân văn ở Cô Tô thì việc duy trì và tạo sự ưu tiên cho DLCĐ cần phải được xác định là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong quá trình thực hiện phát triển sản phẩm du lịch nơi đây. N.A.T Tài liệu tham khảo 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Quyết định số 457/QĐ-BKHĐT Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng biển đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020. 2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Thông tư số 88 Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch. 3. Phạm Học (2018), “Năm 2018: Cô Tô đón hơn 24 vạn lượt khách”, com.vn/du-lich/201812/nam-2018-co-to-don- hon-24-van-luot-khach-2414541/ 4. Nguyễn Anh Tuấn (2015), Phát triển du lịch homestay ở huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 5. UBND huyện Cô Tô (2014), Quy hoạch phát triển du lịch huyện Cô Tô tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ngày nhận bài: 02 - 6 - 2020 Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 6 - 2020 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphat_trien_loai_hinh_du_lich_homestay_o_huyen_dao_co_to_tinh.pdf
Tài liệu liên quan