Kết luận
Từ cơ sở lý luận về HTX.NN, thực trạng phát triển mô hình HTX.NN
kiểu mới ở ĐBSCL, bài viết kết luận rằng những thành quả nổi bật được ghi
nhận, những hạn chế đồng thời kèm theo của các HTX.NN ở ĐBSCL thời gian
qua cho thấy dù là khâu đột phá trong phát triển nông thôn ĐBSCL nhưng dấu
ấn HTX.NN vẫn chưa thật sự nổi bật, để thiết thực chuyển mình theo đúng
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về HTX.NN kiểu mới ở
Kết luận
Từ cơ sở lý luận về HTX.NN, thực trạng phát triển mô hình HTX.NN
kiểu mới ở ĐBSCL, bài viết kết luận rằng những thành quả nổi bật được ghi
nhận, những hạn chế đồng thời kèm theo của các HTX.NN ở ĐBSCL thời gian
qua cho thấy dù là khâu đột phá trong phát triển nông thôn ĐBSCL nhưng dấu
ấn HTX.NN vẫn chưa thật sự nổi bật, để thiết thực chuyển mình theo đúng
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về HTX.NN kiểu mới ở
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 442 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
205
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
ThS.NCS Nguyễn Quang Trung
TÓM TẮT
Hoàn thiện, nhân rộng mô hình Hợp tác xã nông nghiệp (HTX.NN) kiểu
mới đang là nhiệm vụ trong tâm, cấp bách trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay. Từ cơ sở lý luận về
HTX.NN kiểu mới, tác giả bài viết phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các
giải pháp nhằm phát triển mô hình HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL, kỳ vọng bài
viết sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các cấp quản lý, quý học giả, nhà khoa
học quan tâm.
Từ khóa: hợp tác xã kiểu mới, nông nghiệp, Đồng bằng sông Cửu Long
ịnh vị vị trí và vai trò của mô hình HTX.NN kiểu mới, Nguyễn
Thiện Nhân (2015) cho rằng “với việc thực hiện Luật HTX
(2012) và các kết quả đáng ghi nhận từ tấm gương HTX kiểu
mới ở nhiều địa phương cho thấy, nếu chúng ta đẩy mạnh việc
hình thành và triển khai các HTX kiểu mới thì đây là yếu tố rất quan trọng, là
khâu đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nông
nghiệp”. Vương Đình Huệ (2017) khẳng định “chưa khi nào HTX kiểu mới
được nhìn nhận, coi trọng và phát triển thuận lợi như hiện nay để khoả lấp
khoảng trống nguồn cung sản phẩm, dịch vụ cho doanh nghiệp và liên kết sức
mạnh của sản xuất cá thể, hộ gia đình”. Quan điểm phát triển đã rõ, tuy nhiên
để HTX.NN kiểu mới thực sự tạo được bứt phá cho ĐBSCL thì vẫn rất cần
thêm nhiều giải pháp hữu hiệu.
1. Tổng quan lý luận về mô hình HTX.NN kiểu mới
1.1. Quan điểm Marx – Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX.NN
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Marx - Lenin đã có những phát kiến
đúng đắn về HTX.NN, Marx (1847) nhận định “người ta không thể sản xuất
được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó...”. Engels (1894) nhận
thức “phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn
được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản HTX và thành
những doanh nghiệp HTX”. Kế tục Marx và Engels, Lenin (1923) khẳng định
Giảng viên Trường Đại học Văn Hiến
Đ
206
“nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào HTX, tức là chúng ta đứng
vững được hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa”.
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Marx – Lenin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh (1946) cho rằng ở nước ta công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải bắt
đầu từ nông dân và lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, “Việt Nam là một nước
sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công
cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào
nông nghiệp phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần có
HTX”. Hồ Chí Minh (1958) chỉ rõ “phải đoàn kết, phải làm cho mọi người tự
nguyện tham gia, phải bàn bạc dân chủ và phải tính toán cho công bằng, hợp
lý”, đồng thời Hồ Chí Minh (1961) cũng nghiêm khắc chỉ ra những nguyên
nhân dẫn đến yếu kém của HTX “vì ban quản trị đã phạm những khuyết điểm
sau đây: (1) cán bộ không dân chủ, không đưa công việc bàn bạc với xã viên,
mà cứ dùng cách quan liêu, mệnh lệnh, gò ép, (2) phân phối không công bằng...
tài chính đã gần một năm chưa thanh toán. Xã viên nghi ngờ ban quản trị tham
ô; (3) lãnh đạo không chặt chẽ; (4) không làm đúng chính sách của Đảng và
Chính phủ; (5) không đi đúng đường lối quần chúng – đối với những xã viên
thật thà nêu ý kiến hoặc phê bình, cán bộ không chịu lắng nghe, không chịu sửa
chữa, mà còn dùng cách chụp mũ, đàn áp...”.
1.2. Quan điểm của Đảng về HTX.NN
Nhận thức luận về HTX.NN của Đảng không ngừng hoàn thiện qua từng
thời kỳ Cách mạng. Khởi phát của HTX.NN ở nước ta được tính từ Hội nghị
Ban Chấp hành (BCH) Trung ương 8 (khóa II) tháng 8/1955 xác định chủ
trương xây dựng thí điểm một số HTX.NN. Về sau: ngày 13/01/1981, Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa V) ra Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động trong HTX.NN, Nghị quyết 10/NQ/TW
của Bộ Chính trị (khoá VI) ngày 05/04/1988 ghi nhận “HTX, tập đoàn sản xuất
là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, được lập ra dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự hướng dẫn giúp đỡ của Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc tự quản
lý, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh; có tư cách pháp nhân,
bình đẳng trước pháp luật với các đơn vị kinh tế khác; có trách nhiệm phát huy
tính ưu việt của quan hệ sản xuất XHCN”.
Hội nghị BCH Trung ương 5 (khoá VII) tháng 06/1993 tiếp tục đổi mới
HTX, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên, thực hiện đúng nguyên tắc
“tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi”. Hội nghị BCH Trung ương 5 (khoá IX) tháng
5/2002 Đảng ta đã đưa ra hệ thống các quan điểm phát triển kinh tế tập thể
trong tình hình mới, đến Hội nghị BCH Trung ương 6 (khóa X) với Nghị quyết
số 21-NQ/TƯ ngày 30/01/2008 thì đặt vấn đề “tiếp tục đổi mới, phát triển HTX
và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc: tự nguyện,
dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng”.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tháng 01/2016 chỉ rõ “tiếp tục đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của kinh tế HTX; đẩy mạnh liên kết và hợp tác
207
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ
chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn,
đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị
trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế HTX trên cơ sở phát triển và phát huy
vai trò của kinh tế hộ”. Với tinh thần đó, đến nay đã có ba Luật Hợp tác xã
(1996, 2003 và 2012) cùng rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
khác ra đời nhằm thể chế hoá quan điểm, đưa đường lối của Đảng vào cuộc
sống.
1.3. Mô hình HTX.NN kiểu mới
Đồ hình phát triển HTX.NN ở nước ta luôn phức tạp, lúc thăng, lúc trầm,
thậm chí có khi đỗ vỡ hệ thống (1986 đến 1996 số lượng HTX.NN cả nước
giảm đến ¾), theo Nguyễn Minh Ngọc và các cộng sự (2011) thì sự hưng thịnh
(1955-1986), suy thoái (1986-2003) và phục hưng (2004-2010) của HTX phản
ánh tính bất ổn trong sự phát triển cũng như tính tất yếu khách quan của việc
phát triển HTX.NN trong điều kiện kinh tế thị trường. Theo Luật HTX (2012),
HTX.NN là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít
nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản
lý.
Nhóm chuyên gia Socencoop (2015) nhận diện HTX.NN có những đặc
điểm chính: (1) Là một tổ chức kinh tế tập thể hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp được thành lập để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ nông nghiệp; (2) Là tổ chức kinh tế tập thể mang tính xã hội cao: HTX.NN
trước hết là để đáp ứng các nhu cầu chung của nông dân về sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ nông nghiệp, nông dân gia nhập HTX.NN là vì họ cần được
HTX.NN cung cấp dịch vụ, sản phẩm mà từng hộ không thể tự làm hoặc làm
một mình không có hiệu quả; (3) Hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nông
nghiệp của HTX.NN chỉ là công cụ nhằm thúc đẩy tăng thêm lợi ích, hiệu quả
sản xuất kinh doanh của hộ nông dân; (4) Đối tượng tham gia HTX.NN gồm tất
cả những người nông dân, hộ nông dân và pháp nhân. Khi tham gia, thành viên
HTX.NN bắt buộc phải góp vốn để xác định tư cách thành viên; (5) Việc thành
lập HTX.NN dựa trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chung để
phát huy sức mạnh tập thể...
HTX.NN kiểu mới phân biệt với mô hình HTX.NN kiểu cũ bỡi:
- Thành lập trên cơ sở tự nguyện chứ không phải áp đặt, “từ trên xuống”;
- HTX.NN kiểu mới là tổ chức kinh tế tập thể, vì sự phát triển của kinh tế
hộ xã viên trong khi HTX.NN kiểu củ vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã
hội;
- Xã viên của HTX.NN kiểu mới là thể nhân và pháp nhân (HTX.NN kiểu
củ có xã viên chỉ là thể nhân;
- Hình thức sở hữu của HTX.NN kiểu mới là sở hữu chung trên cơ sở góp
vốn, đan xen giữa sở hữu tập thể và sở hữu cá thể của xã viên khác với
HTX.NN kiểu củ là sở hữu tập thể trên cơ sở tập thể hóa tư liệu sản xuất;
208
- HTX.NN kiểu mới hoạt động theo cơ chế quan hệ kinh tế đa phương, tự
nguyện. HTX phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự bù đắp, bảo toàn và phát triển
vốn, phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế nhiều thành
phần, giao lưu kinh tế, từng bước phát triển trên cơ sở luật pháp của Nhà nước
(HTX kiểu cũ là cơ chế mệnh lệnh, hành chính, tập trung. Các quan hệ giải
quyết đầu vào, đầu ra trong hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua các tổ chức
kinh tế Nhà nước (công ty vật tư nông nghiệp, công ty lương thực, công ty
giống), hành chính hoá;
- Ở HTX.NN kiểu mới chức năng quản lý và điều hành được tách biệt, rõ
ràng. Bộ máy quản lý gồm: Ban quản trị, Ban kiểm soát, Ban chủ nhiệm. Chủ
nhiệm có thể do Trưởng ban quản trị kiêm nhiệm hoặc là người do HTX thuê.
HTX được quyền tự chủ trong công tác cán bộ của mình, các chức danh chủ
chốt không nhất thiết phải do đảng viên hay người trong nội bộ HTX nắm giữ
(HTX kiểu cũ thì chức năng quản lý và điều hành được lồng ghép, bộ máy gồm
Ban Quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng ban quản trị kiêm chủ nhiệm HTX.
Công tác cán bộ HTX được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ và chính
quyền địa phương, các chức danh chủ chốt của HTX do Đảng uỷ chỉ định và
người trong nội bộ HTX nắm giữ);
- HTX.NN kiểu mới có thể làm dịch vụ, hoặc vừa làm dịch vụ vừa sản
xuất kinh doanh đa ngành nghề chứ không chỉ là trực tiếp tổ chức sản xuất, lao
động tập trung, thủ tiêu sự độc lập của kinh tế hộ như HTX.NN kiểu cũ;
- HTX.NN kiểu mới phân phối theo vốn, lao động và mức độ sử dụng dịch
vụ của HTX còn HTX.NN kiểu cũ là phân phố bình quân, bao cấp.
2. Thực trạng phát triển mô hình HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL
2.1. Thực trạng phát triển mô hình HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL
Gồm 13 tỉnh, thành phố (An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng
Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh,
Vĩnh Long và Thành phố Cần Thơ), diện tích tự nhiên khoảng 40.604,7 km2,
chiếm khoảng 12% tổng diện tích cả nước, trong đó đất nông nghiệp chiếm
27,4%, đất canh tác lúa chiếm 45,8%, đất cây ăn quả chiếm 36,4%, đất nuôi
trồng thủy sản chiếm 71,6% cả nước. Nguyễn Thế Bình (2015) nhận xét tiềm
năng, lợi thế lớn nhất của vùng là sản xuất lúa, cây ăn quả và nuôi trồng thuỷ
sản, trong đó cây lúa vừa là cung cấp lương thực, đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia vừa cung cấp lúa gạo cho xuất khẩu. Vùng chiếm hơn 90% lượng gạo,
65% lượng trái cây, và 62% lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Trần Hoàng
Hiểu (2015) nhận định sản xuất nông nghiệp ĐBSCL còn nhiều bất cập (sản
xuất còn mang tính cá thể, nhỏ lẻ, manh mún; liên kết bốn nhà theo chuỗi giá
trị còn yếu; đầu ra cho nông sản còn nhiều khó khăn, tình trạng trúng mùa mất
giá), khi có nhu cầu thu mua lớn, người dân không đáp ứng được, gây trở
ngại cho việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại vào
sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất nông nghiệp phát triển.
Số liệu của Liên minh HTX Việt Nam (2018) trên lĩnh vực nông nghiệp
(gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và diêm nghiệp) cho biết năm 2017 cả
nước có 11.756 HTX, thu nhập bình quân khoảng 1,76 triệu đồng/người/tháng;
209
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
có 33% số HTX.NN được phân loại khá, tốt, cao nhất là ĐBSCL (41,5%).
ĐBSCL hiện có 1.119 HTX.NN, trong đó 399 HTX hoạt động trong lĩnh vực
lúa gạo (38,3% tổng số HTX của vùng), 102 HTX chuyên về trái cây (9,8%) và
100 HTX nuôi thủy sản (9,6%). Phần lớn các HTX.NN cung cấp dịch vụ cơ
bản.
Phát triển HTX.NN hiện nay tạo điều kiện để xây dựng nông thôn mới vì
tiêu chí xã nông thôn mới là phải có HTX (hoặc tổ hợp tác) hoạt động có hiệu
quả.
Phương Nguyễn (2009) nhận xét phần lớn các HTX.NN ở ĐBSCL hiện
nay chưa mang lại hiệu quả cao như mong đợi cho người dân, các HTX hoạt
động còn mang tính phong trào và hình thức. Trình độ và năng lực quản lý của
Ban Chủ nhiệm yếu kém, HTX không huy động được nguồn vốn từ xã viên,
phương tiện phục vục cho hoạt động của các HTX hầu như không có gì. Đồng
tình với nhận xét vừa nêu, nhóm Trần Quốc Nhân, Lê Duy, Đỗ Văn Hoàng và
Nguyễn Duy Cần (2012) nhận thấy xã viên vẫn mạnh ai nấy làm và sản xuất
theo cách của riêng mình mà không theo kế hoạch của HTX đề ra, bên cạnh đó
cũng có một vài trường hợp HTX đã mang lại nhiều lợi ích như giúp nâng cao
trình độ sản xuất, tìm đầu ra nông sản ổn định cho xã viên. Tác giả bài viết dẫn
nguyên văn kết luận của Trần Quốc Nhân và cộng sự khi phân tích lợi ích do
HTX.NN kiểu mới mang lại cho người dân trường hợp HTX Long Tuyền, Quận
Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ: “Thời gian đầu mới thành lập HTX Long
Tuyền đã tổ chức liên kết được với các siêu thị trên địa bàn thành phố để bao
tiêu nông sản cho xã viên và hoạt động kinh doanh này đã mang lại lợi ích kinh
tế cao cho HTX và cho xã viên. Tuy nhiên càng về sau thì xã viên không tham
gia nhiệt tình, BCN không có phương hướng cho hoạt động của HTX nên từ
đầu năm 2008 đến nay HTX hầu như không còn hoạt động, tại vì tổ chức sản
xuất không đáp ứng được yêu cầu của thị trường. HTX Long Tuyền đã có vai
trò chính trong việc nâng cao trình độ sản xuất cho xã viên và cho những người
nông dân ở xung quanh. HTX Long Tuyền cũng có vai trò tích cực trong việc
liên kết tìm đầu ra ổn định cho xã viên. Tuy nhiên HTX chưa có vai trò rõ ràng
trong việc nâng cao thu nhập của nông hộ. HTX Long Tuyền còn thiếu vốn và
phương tiện để tổ chức các hoạt động sản xuất cho xã viên. Giữa xã viên và
Ban chủ nhiệm chưa có sự gắn bó đoàn kết và tin tưởng lẫn nhau” tác giả cho
rằng những đánh giá này đúng với đa số HTX.NN ở ĐBSCL hiện nay.
Ngày 21/3/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 445/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới
tại vùng ĐBSCL giai đoạn 2016 - 2020” với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển bền
vững, đúng bản chất các HTX, liên hiệp HTX tại vùng ĐBSCL, đặc biệt là
HTX.NN; giúp hộ nông dân khắc phục cơ bản thua thiệt của nông dân trên thị
trường, gia tăng lợi ích cho số đông nông dân thông qua liên kết hữu cơ trong
chuỗi giá trị nông sản nhằm tăng cường sức mạnh tập thể của các thành viên, từ
đó cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao tinh thần hợp tác của
cộng đồng lớn thành viên nông dân và cư dân địa phương. Cách thức thí điểm
hoàn thiện mô hình là từng bước, gối đầu nhau, xuất phát trước hết từ thí điểm
hoàn thiện mô hình HTX lúa gạo, trái cây, thủy sản, sau đó đến mô hình liên
210
hiệp HTX. Đối với mỗi loại hình mô hình thí điểm cần thực hiện cách đi theo 3
giai đoạn: giai đoạn 1 (từ năm 2016 đến năm 2017) thí điểm hoàn thiện mô
hình HTX. Giai đoạn 2 (từ năm 2017 trở đi): thí điểm hoàn thiện mô hình liên
hiệp HTX lúa gạo quy mô tỉnh. Giai đoạn 2015-2016 khảo sát tái cấu trúc các
HTX.NN không hiệu quả, lựa chọn và xây dựng 5 mô hình HTX kiểu mới cho
mỗi tỉnh/thành; giai đoạn 2017-2020 mỗi tỉnh/thành xây dựng và nhân rộng 30
HTX.NN kiểu mới hoạt động thật sự có hiệu quả. Thực hiện Quyết định số
445/QĐ-TTg, hiện 13/13 tỉnh, thành của vùng đã xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện và đã lựa chọn 175 HTX tham gia mô hình thí điểm, trong đó có 155
HTX đang hoạt động và 20 HTX sẽ được thành lập mới. Tỉnh có nhiều HTX
tham gia nhất là Vĩnh Long (17 HTX), tiếp đó là Bến Tre (16 HTX), Long An
(15 HTX), Sóc Trăng (15 HTX), Bạc Liêu (15 HTX), Cà Mau (15 HTX), Cần
Thơ (15 HTX), Kiên Giang (14 HTX), Trà Vinh (12 HTX).
2.2. Đánh giá thực trạng phát triển HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy tiến trình phát triển HTX.NN kiểu mới
ở ĐBSCL có những thuận lợi và một số tồn tại, hạn chế:
Những thuận lợi:
Một là, Phát triển HTX.NN là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lâu dài
của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân các tỉnh/thành vùng ĐBSCL trong giai
đoạn hiện nay. HTX.NN đã, đang và sẽ là một thành phần kinh tế quan trọng ở
địa phương nhất là từ sau khi Luật HTX (2012) đi vào cuộc sống;
Hai là, Nhiều chính sách ưu tiên hỗ trợ các HTX.NN như đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn, giống; hỗ trợ chế biến sản phẩm; hỗ trợ liên
kết sản xuất và tiêu thụ nông sản bên cạnh nhưng chính sách chung cho HTX
(như bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến quảng bá, ứng dụng khoa học - công
nghệ mới...);
Ba là: Liên kết giữa doanh nghiệp với nông hộ bằng mô hình HTX kiểu
mơi để tổ chức sản xuất, tiêu thụ nông sản đang là lựa chọn tốt trong việc tổ
chức sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở ĐBSCL hiện nay;
Bốn là: Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp bước
đầu đem lại hiệu quả tích cực, nông nghiệp công nghệ cao giúp tiết kiệm chi
phí sản xuất, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, năng suất, chất lượng cao và giá
trị nổi trội. Một số HTX.NN đã tham gia vào các chương trình khuyến nông,
đầu tư sản xuất sạch theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, đăng ký thương
hiệu sản phẩm, từ đó HTX hoạt động tiếp tục ổn định và phát triển, thu nhập,
đời sống thành viên và lao động ổn định, nâng lên.
Năm là: HTX.NN kiểu mới là một yếu tố và động lực cơ bản góp phần
tạo nền tảng đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL. Xây dựng
và phát triển HTX.NN kiểu mới gắn chặt với chương trình xây dựng nông thôn
mới và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Một số tồn tại, hạn chế:
Thứ nhất: Hạn chế lớn nhất ở các HTX.NN tham gia chương trình
211
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL hiện nay là trình độ quản trị của đội ngũ cán bộ
HTX.NN nhất là kiến thức về pháp luật, kiến thức quản trị kinh doanh HTX.NN
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Thứ hai: Nhận thức về bản chất, nguyên tắc và giá trị của mô hình
HTX.NN kiểu mới và Luật HTX (2012) chưa đầy đủ và thấu đáo trong khi tư
duy về HTX kiểu cũ còn thường trực kéo theo sự hoài nghi về hiệu quả của
HTX.NN kiểu mới và tâm lý trông chờ sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương,
các tổ chức kinh tế khác;
Thứ ba: Năng lực tài chính của HTX.NN còn hạn hẹp trong khi việc tiếp
cận với chính sách tín dụng còn hạn chế, nguồn vốn góp bằng tiền không nhiều
mà thường là vốn tự quản của gia đình xã viên như đất đai, tài sản trên đất
không thể mang ra thế chấp hoặc sử dụng để tăng quy mô, cơ cấu vốn lưu động
của HTX.NN thấp, việc sử dụng vốn điều lệ chưa hiệu quả và thặng dư HTX
còn thấp;
Thứ tư: Một số HTX.NN đã được tổ chức lại theo Luật HTX (2012)
nhưng chưa có bức phá trong hoạt động. Lượng sản phẩm cung ứng chưa nhiều,
ít chú ý đăng ký nhãn hiệu, quyền bảo hộ, chất lượng chưa đồng đều...vì vậy
khó tiếp cận được những thị trường lớn, khó tính;
Thứ năm: Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước và hỗ trợ phát triển
HTX.NN ở cơ sở chưa hoàn chỉnh, năng lực quản lý tổ chức hoạt động còn
nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và các chuyên gia tư vấn hỗ
trợ phát triển mô hình HTX.NN kiểu mới vừa thiếu, vừa yếu.
3. Một số giải pháp nhằm phát triển mô hình HTX.NN kiểu mới ở
ĐBSCL đến năm 2020
3.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về HTX.NN kiểu mới của cán bộ,
Đảng viên, cán bộ, quản lý, xã viên HTX.NN và Nhân dân
Nhận thức về mô hình HTX.NN kiểu mới là một quá trình phức tạp, nó
bắt đầu từ việc xem xét một cách trực tiếp, tích cực dựa trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức đúng sẽ cho hành động đúng. Để phát triển, nhân rộng mô hình
HTX.NN kiểu mới ở ĐBSCL đúng hướng trước tiên cần tiếp tục nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên, cán bộ, quản lý, xã viên HTX.NN và Nhân dân về
kinh tế tập thể nói chung và HTX.NN kiễu mới nói riêng thông qua các hoạt
động tuyên truyền liên tục trên nhiều phương tiện, bằng nhiều hình thức nhằm
phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về Luật HTX (2012), về
vai trò, vị trí của kinh tế tập thể, cũng như HTX.NN kiểu mới. Thường xuyên tổ
chức các hội thi, hội diễn, chuyến khảo sát học tập các mô hình HTX.NN hoạt
động có hiệu quả, kiên quyết chấn chỉnh, củng cố các HTX.NN theo đúng bản
chất, nguyên tắc và Luật HTX (2012).
3.2.Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ HTX.NN, kết nối đề án tái cơ
cấu ngành nông nghiệp, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới với việc thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX.NN kiểu
212
mới
Sớm rà soát, hoàn thiện các chính sách về (1) hỗ trợ, khuyến khích thành
lập mới HTX.NN, (2) đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, (3) đất đai, (4) tài
chính, tín dụng, thuế... trong đó đặc biệt chú ý chính sách hỗ trợ vốn cho
HTX.NN, tác giả bài viết quan niệm hỗ trợ vốn ở đây hơn hết là bằng chủ
trương, chính sách, các chương trình hạ tầng nông thôn mới có thu nên chuyển
về cho HTX.NN quản lý, sử dụng chứ không chỉ nhất thiết bằng tiền trợ cấp
hay cho vay không lãi suất như hiện nay, (5) hỗ trợ ứng dụng khoa học, công
nghệ, xúc tiến thương mại, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật với
HTX.NN. Các sở, ngành địa phương cần chủ động rà soát, hướng dẫn các
HTX.NN hoạt động kém hiệu quả và đến nay chưa thực hiện chuyển đổi, sắp
xếp lại theo mô hình HTX kiểu mới tự thực hiện các thủ tục giải thể và thành
lập mới theo Luật HTX (2012). Bổ sung, sửa đổi các quy phạm pháp luật có
liên quan theo hướng tinh giản những thủ tục hành chính trong chuyển đổi mô
hình, thành lập mới và giải thể HTX.NN cũng như khuyến khích nông dân góp
vốn hình thành HTX.NN để ứng dụng khoa học kỹ thuật phát triển các mô hình
sản xuất thích hợp với quy mô lớn cho từng vùng theo hướng ổn định lâu dài,
từng bước hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại có mối liên kết chặt chẽ với
các lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ và liên kết giữa các lĩnh vực nông
nghiệp trong một vùng, tạo đà xây dựng nông thôn mới.
3.3. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành HTX.NN
Năng lực quản lý, điều hành HTX.NN cần được phổ cập liên tục thông
qua các chương trình đào tạo tập huấn về kỹ năng quản lý, nghiệp vụ, kỹ năng
xây dựng dự án, kế hoạch và các kỹ năng mềm cho cán bộ, thành viên
HTX.NN. Bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên đề về kỹ thuật sản xuất, kỹ năng
quản lý (quản trị nhân sự, quản trị dự án, quản trị thương hiệu và Marketing sản
phẩm, thương mại điện tử, kỹ năng xây dựng chương trình quảng bá thương
hiệu, sản phẩm, dịch vụ của các HTX.NN) nhất là với Giám đốc điều hành. Đào
tạo, tập huấn về kế toán HTX, quản trị tài chính, kế toán quản trị với Trưởng
ban kiểm soát (kiểm soát viên) và Kế toán viên của HTX.NN. Tăng cường cán
bộ nông nghiệp có trình độ chuyên môn giỏi đến hỗ trợ kỹ thuật tại các
HTX.NN thí điểm. Tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ, tham quan học tập
kinh nghiệm thiết thực và tham gia chuyên đề, chuyên sâu nhằm tăng cường
năng lực của đội ngũ cán bộ tư vấn hỗ trợ HTX.NN. Chú trọng phát triển quan
hệ hợp tác, đối ngoại để thu hút sự hỗ trợ về kinh nghiệm phát triển, tổ chức
vận hành HTX.NN trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
4. Kết luận
Từ cơ sở lý luận về HTX.NN, thực trạng phát triển mô hình HTX.NN
kiểu mới ở ĐBSCL, bài viết kết luận rằng những thành quả nổi bật được ghi
nhận, những hạn chế đồng thời kèm theo của các HTX.NN ở ĐBSCL thời gian
qua cho thấy dù là khâu đột phá trong phát triển nông thôn ĐBSCL nhưng dấu
ấn HTX.NN vẫn chưa thật sự nổi bật, để thiết thực chuyển mình theo đúng
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về HTX.NN kiểu mới ở
213
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
ĐBSCL đến năm 2020, tác bài viết cho rằng cần phải (1) tiếp tục nâng cao nhận
thức về HTX.NN kiểu mới của cán bộ, Đảng viên, cán bộ, quản lý, xã viên
HTX.NN và Nhân dân, (2) hoàn thiện chính sách về HTX.NN, kết nối đề án tái
cơ cấu ngành nông nghiệp, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới với việc thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX.NN kiểu mới, (3)
nâng cao năng lực quản lý, điều hành HTX.NN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2016), Quyết định số 445/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại
vùng ĐBSCL giai đoạn 2016 - 2020”.
2. Engels, F. (1894), Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức, Marx, K. & Engels,
F - Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia,1993, tập 22, tr.738
3. Hồ Chí Minh (1946), Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11-4-
1946, Hồ Chí Minh - Toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, tập 4, tr.124.
4. Hồ Chí Minh (1958), Nói chuyện với nông dân HTX.NN Cầu Thành,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Hồ Chí Minh -Toàn tập (2000), Nxb Chính trị
quốc gia, tập 9, tr.139.
5. Hồ Chí Minh (1961), Một HTX không gương mẫu, Hồ Chí Minh -Toàn
tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, tập 10, tr.256-257.
6. Hồ Văn Vĩnh (2005), Phát triển HTX.NN trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 8-2005.
7. Liên minh HTX Việt Nam (2018), Thống kê HTX trong cả nước theo
lĩnh vực hoạt động năm 2017,
hop/17909-thong-ke-htx-trong-ca-nuoc-theo-linh-vuc-hoat-dong-nam-
2017.html [Ngày truy cập: 16/3/2018].
8. Lenin, V.I. (1923), Bàn về chế độ hợp tác, Lenin, V.I - Toàn tập, Nxb Sự
thật, 1970, tập 33, tr.697-700
9. Marx, K. (1847), Lao động làm thuê và tư bản - Bản chất và sự phát
triển của tư bản, https://www.marxists.org/vietnamese/marx-
engels/1840s/lao_dong_lam_thue_va_tu_ban/phan_6.htm, [Ngày truy cập:
15/3/2018]
10. Nguyễn Minh Ngọc, Đặng Đình Đào, Lê Quốc Hội, Phạm Ngọc Linh, Vũ
Minh Loan, Đặng Thu Hương, Phạm Minh Thảo, Lê Thu Hà, Đặng Hà Giang,
Lê Tất Phương (2011), Sự phát triển của HTX và vai trò của HTX đối với an
sinh xã hội, Văn phòng Quốc hội và UNDP, Hà Nội, 8/2011, tr.8.
11. Ngọc Ngân (2016), Phát triển HTX.NN theo tư duy mới, Tạp chí Con số
và Sự kiện số 12/2016 (515).
12. Nguyễn Thế Bình (2015), Nông nghiệp vùng ĐBSCL thực trạng, cơ hội
và thách thức trong bối cảnh hội nhập, cơ sở khoa học cho phát triển vùng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, Viện Việt Nam học và Khoa học
214
phát triển, tr.223.
13. Nguyễn Thiện Nhân (2015), Phát triển HTX.NN kiểu mới - khâu đột phá
để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập bền vững cho người nông dân,
trien-hop-tac-xa-nong-nghiep-kieu-moi-khau-dot.aspx [Ngày truy cập:
15/3/2018].
14. Nguyễn Trọng Đắc, Trần Mạnh Hải, Bạch Văn Thủy (2014), Hoạt động
của HTX.NN với kinh tế hộ nông dân ở tỉnh Thái Bình và Hòa Bình, Tạp chí
Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 6, tr.964.
15. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam (2012), Luật Hợp tác xã.
16. The International Cooperative Alliance – ICA (2010). International Co-
operative Alliance. Retrieved 120, October, 2010
17. Trần Quốc Nhân, Lê Duy, Đỗ Văn Hoàng và Nguyễn Duy Cần (2012),
Phân tích lợi ích do HTX.NN kiểu mới mang lại cho người dân: trường hợp
nghiên cứu HTX Long Tuyền, Quận Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ, Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 2012:22b, tr.284.
18. Vương Đình Huệ (2017), Phát biểu kết luận Hội nghị trực tuyến toàn
quốc của Chính phủ sơ kết 5 năm thực hiện Luật HTX năm 2012, Hà Nội, ngày
6/12/2017,
chinh-sach-de-phat-trien-HTX/323989.vgp [Ngày truy cập: 16/3/2018].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_mo_hinh_hop_tac_xa_nong_nghiep_kieu_moi_o_dong_ba.pdf