Thứ ba, chính sách hỗ trợ về nhân lực: Để
dần nâng cao chất lượng nhân lực cho sản
xuất công nghiệp nói chung, và ngành CNHT
nói riêng, một mặt, cần có chính sách thu hút
đội ngũ chuyên gia từ các nước công nghiệp
phát triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc
hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng ngành
CNHT, đào tạo nhân lực và hướng dẫn tiếp
cận công nghệ hiện đại; mặt khác, chúng ta
cũng cần có những cơ chế, chính sách tác
động để nâng cao hiệu quả trong đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong
nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát
triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho
các nhà lắp ráp trong nước và tham gia chuỗi
sản xuất toàn cầu. Việc đào tạo, nâng cao
chất lượng nhân lực ngành Công nghiệp có
thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên
kết giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp sản xuất
CNHT với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như
Samsung; cần nâng cao hơn nữa tính liên kết
giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản xuất,
giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong
nước và các doanh nghiệp lắp ráp, các tập
đoàn đa quốc gia, .
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ với nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối với việc tăng năng suất, hiệu quả các ngành và cả nền kinh tế của Việt Nam thông
qua việc nâng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính, thu hút và định hướng có hiệu
quả các dòng vốn FDI, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức, thúc đẩy sự liên kết, ...Từ đó, kết luận
của bài viết cho thấy rằng, ngành CNHT có vai trò quan trọng với năng suất hiệu quả trong nền
kinh tế.
Từ khóa: công nghiệp hỗ trợ, năng suất, hiệu quả.
ABSTRACT
The paper examines the role of supporting industry (SI) in productivity growth in the Vietnamese
economy. Based on qualitative methods such as descriptive statistics, comparative analysis, the
paper will go into the analysis of the contributions of developing SI in the country to increasing
productivity and efficiency of industries and also the economy of Vietnam through enhancing the
competitiveness of key industrial products, attracting and effectively orienting FDI inflows,
innovating technology, renovating the organization, promoting the linkage, etc. From that, the
conclusions of the paper show that the SI plays an important role in the productivity of the
economy.
Keywords: supporting industry, productivity, effective.
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, tăng trưởng
kinh tế Việt Nam có nhiều biến động phức
tạp, tốc độ tăng không ổn định. Nền kinh tế
tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn trong khi
năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn
thấp, đã khiến chất lượng tăng trưởng thấp và
thiếu tính bền vững . Phát triển các ngành
công nghiệp hỗ trợ được coi là biện pháp
được ưu tiên trong giai đoạn hiện nay nhằm
nâng cao sức cạnh tranh cho ngành công
nghiệp chế biến chế tạo nói riêng và tạo lợi
thế cạnh tranh cho cả nền kinh tế nói chung.
Việc đưa ra những phân tích về ảnh hưởng
của phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đến
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam
sẽ là những cơ sở cần thiết cho việc nhận
thức đúng về tầm quan trọng của ngành
CNHT và từ đó, đề xuất những biện pháp
phù hợp để phát triển CNHT đồng thời thúc
đẩy tăng năng suất, hiệu quả, tăng trưởng của
nền kinh tế.
2. Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu về vai trò của ngành CNHT
đối với năng suất và hiệu quả của nền kinh tế
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Các nghiên cứu đều khẳng định vai trò
tích cực của phát triển CNHT đến nền kinh tế
tại mỗi quốc gia. Mô hình kim cương của
Michael Porter (Michael Porter, 2012) đã xác
Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương
Mại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
62
định, một trong bốn yếu tố hình thành nên lợi
thế cạnh tranh quốc gia là Các ngành công
nghiệp hỗ trợ và liên quan. Theo ông, thông
qua việc tiếp cận hầu hết các yếu tố đầu vào
sẵn có từ ngành CNHT, ngành công nghiệp
sẽ sinh lời một cách hiệu quả, sớm, nhanh
chóng. Đồng thời, ngành CNHT có khả năng
tạo ra mối liên kết, tạo ra quá trình đổi mới
và cải tiến, từ đó góp phần tăng năng suất của
các ngành CN nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Junichi Mori (Junichi Mori, 2005) thì
lập luận rằng, CNHT góp phần giúp nền kinh
tế tăng trưởng trong dài hạn vì nó là điều
kiện cần thiết để duy trì nguồn vốn FDI cho
ngành lắp ráp cuối cùng tương đối lâu hơn so
với một quốc gia không có ngành CNHT
cạnh tranh, sự phát triển của ngành CNHT sẽ
tạo nên ảnh hưởng tích cực trong việc thúc
đẩy đổi mới công nghệ, .... Còn theo Ha-Joon
Chang, Antonio Andreoni và Ming Leong
Kuan (Ha-Joon Chang et al., 2013), có một
sự công nhận rộng rãi rằng công nghiệp chế
biến chế tạo nói chung và CNHT nói riêng là
nguồn gốc chính của tăng trưởng năng suất
theo định hướng công nghệ trong nền kinh tế
hiện đại, đồng thời, những kết quả trong
ngành CNHT đã và đang trở nên vô cùng
quan trọng trong sự tăng trưởng năng suất
các ngành khác Như vậy, các nghiên cứu
đã đưa ra một số luận cứ lý thuyết để khẳng
định vai trò của ngành CNHT đối với năng
suất và hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên,
hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào xem xét
một cách độc lập, phân tích rõ sự ảnh hưởng
của ngành CNHT đến năng suất, hiệu quả tại
các quốc gia.
3. Một số lý thuyết về công nghiệp hỗ trợ
3.1. Khái niệm:
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) theo nghĩa
rộng được hiểu là việc sản xuất ra các sản
phẩm trung gian cho quá trình sản xuất chính
như sơ chế các nguyên liệu thô hoặc chế tạo
một phần những sản phẩm chính tương tự
theo tiêu chuẩn kỹ thuật và giấy phép của
chính hãng. Hoặc theo nghĩa hẹp “Công
nghiệp hỗ trợ gồm một nhóm các hoạt động
công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian
(gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản
xuất ra các linh kiện phụ tùng) cho các ngành
công nghiệp lắp ráp và chế biến”. (Nguyễn
Thị Xuân Thúy, 2007)
Trong phạm vi của bài viết này, tác giả
tiếp cận CNHT theo nghĩa tương đối hẹp,
theo đó, Công nghiệp hỗ trợ là các ngành
công nghiệp sản xuất các linh kiện, phụ tùng,
bán thành phẩm để cung cấp cho các ngành
công nghiệp lắp ráp như ngành ô tô, xe máy,
điện tử,...
3.2. Các giai đoạn phát triển của CNHT:
CNHT thường phát triển theo các giai đoạn
khác nhau, với chất lượng và sức cạnh tranh
của sản phẩm CNHT sản xuất trong nước
ngày càng tăng. (Lê Xuân Sang and Nguyễn
Thị Thu Huyền, 2011). Sơ đồ về các giai đoạn
phát triển CNHT được thể hiện như sau
Hình 1. Các giai đoạn phát triển cnht
Nguồn: (Lê Xuân Sang and Nguyễn Thị Thu
Huyền, 2011)
3.3. Về đặc điểm CNHT:
Theo (Hoàng Văn Châu, 2010), ngành
CNHT có 5 đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, tính đa cấp của công nghiệp hỗ
trợ. Các doanh nghiệp tham gia CNHT nằm ở
các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
63
xuất ra sản phẩm cuối cùng. Mỗi sản phẩm
bất kỳ đều trải qua một quá trình sản xuất,
bắt đầu từ nguyên liệu thô, qua các giai đoạn
khác nhau cho tới khi giá trị được tích lũy
vào thành phẩm cuối cùng. Trong chuỗi sản
xuất này, các nhà cung cấp được phân loại
theo cấp độ, vị trí họ tham gia vào hệ thống.
Ngoài ra, tính đa cấp trong sản xuất CNHT
còn thể hiện ở chỗ, các nhà cung cấp sản
phẩm CNHT có thể rất khác nhau về quy mô
vốn, quy mô sản xuất, sở hữu, công nghệ, ...
Thứ hai, tính hệ thống liên kết theo quy
trình sản xuất, theo khu vực và phụ thuộc vào
ngành công nghiệp chính. Do cùng nằm
trong chuỗi giá trị của sản xuất, các doanh
nghiệp CNHT có mối quan hệ liên kết chặt
chẽ với nhau. Từ mối quan hệ này cũng dẫn
đến yêu cầu cần phát triển CNHT một cách
có hệ thống và tập trung theo các cụm, khu
công nghiệp. Các cụm liên kết ngành
(CLKN) được hình thành từ sự tập trung cao
độ các DN trong một số ngành, lĩnh vực có
liên quan chặt chẽ với nhau, do đó, sự lớn
mạnh của một CLKN thường kéo theo sự gia
tăng và phát triển bền vững của các DN trong
ngành CNHT.
Thứ ba, tính đa dạng về công nghệ và
trình độ sản xuất. Sự đa dạng về công nghệ
trong sản xuất CNHT xuất phát từ việc có
nhiều loại linh kiện, phụ tùng được cung ứng
trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối
cùng; có những sản phẩm linh kiện đòi hỏi
sản xuất với trình độ công nghệ cao như
những bộ phận điều khiển, điện tử, ...; ngược
lại, có những chi tiết không đòi hỏi kỹ thuật
quá khó như các linh kiện cao su, nhựa, ...
Thứ tư, thu hút một số lượng lớn doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do đặc tính đa cấp, đa dạng về công nghệ; do
sự tham gia vào nhiều công đoạn của sản
xuất nên ngành CNHT thu hút một số lượng
lớn các doanh nghiệp, với các quy mô, trình
độ đa dạng, trong đó, số lượng doanh nghiệp
ở cấp thấp rất lớn. Đa phần các doanh nghiệp
ở cấp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.4. Vai trò của ngành CNHT đến năng
suất, hiệu quả kinh tế
Một là, các lĩnh vực sản xuất CNHT là
nguồn cung cấp chính cho nhu cầu của các
hoạt động năng suất cao trong các ngành
công nghiệp khác bởi vì nó có khả năng sản
xuất đầu vào sản xuất (ví dụ như máy móc,
hóa chất, sản xuất các linh phụ kiện và công
cụ, ). Do đó, những kết quả trong ngành
CNHT đã và đang trở nên vô cùng quan
trọng trong sự tăng trưởng năng suất của các
ngành khác. (Ha-Joon Chang, Antonio
Andreoni and Ming Leong Kuan, 2013).
Thông qua việc đáp ứng kịp thời hầu hết các
yếu tố đầu vào sẵn có từ ngành CNHT, các
ngành công nghiệp sẽ sinh lời một cách hiệu
quả, nhanh chóng và đôi khi được ưu đãi
(Michael Porter, 2012).
Hai là, CNHT phát triển thúc đẩy sự đổi
mới tổ chức, nâng cao năng suất lao động.
Năng suất tăng trưởng trong hai thế kỷ qua
đã được thúc đẩy không chỉ bằng cách thay
đổi công nghệ mà còn thay đổi tổ chức, hầu
hết có nguồn gốc từ khu vực sản xuất công
nghiệp nói chung và CNHT nói riêng (Ha-
Joon Chang, Antonio Andreoni and Ming
Leong Kuan, 2013). Để có thể tham gia vào
chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị của các tập đoàn
đa quốc gia và xuyên quốc gia, các DN sản
xuất CNHT cần phải tiến hành đổi mới tổ
chức, cơ cấu lại các bộ phận trong DN và
đảm bảo các quy trình sản xuất, các tiêu
chuẩn chất lượng theo quy định của quốc tế,
Ngành CNHT cũng tạo ra lợi thế nhờ việc
phối hợp liên tục trong sử dụng máy móc và
các yếu tố đầu vào khác (Michael Porter,
2012). Các hoạt động này sẽ làm giảm chi
phí sản xuất, giảm giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm cho các doanh nghiệp, đồng
thời, giúp cho hoạt động sản xuất của DN
diễn ra ổn định hơn, từ đó, sẽ thúc đẩy năng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
64
suất và hiệu quả của DN nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
CNHT tạo ra quá trình đổi mới và cải tiến
thông qua mối quan hệ công việc gần gũi
giữa các nhà cung cấp hàng phụ trợ và nhà
sản xuất (Michael Porter, 2012). Người cung
cấp giúp các công ty nắm được các phương
pháp mới và có cơ hội áp dụng công nghệ
mới. Các công ty được phép truy cập nhanh
chóng thông tin, những ý tưởng và kiến thức
mới và những sáng chế của nhà cung cấp. Họ
có sức ảnh hưởng đến nỗ lực kỹ thuật của
nhà cung cấp cũng như trở thành người kiểm
tra cho việc phát triển các sản phẩm. Việc
trao đổi công tác R&D và cùng tham gia giải
quyết các vấn đề đưa đến các giải pháp
nhanh và hiệu quả hơn. Các nhà cung cấp
cũng có xu hướng là một kênh truyền thông
tin và sáng chế từ công ty sang công ty.
Thông qua quá trình này, tốc độ phát minh
trong toàn bộ ngành công nghiệp trong nước
được đẩy nhanh, nâng cao năng suất và hiệu
quả của toàn ngành.
Ba là, phát triển CNHT giúp cho một nền
kinh tế có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn FDI. Sự tập trung của CN linh
phụ kiện sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà lắp
ráp nước ngoài đầu tư vào, do đó, sẽ tạo điều
kiện để tăng cường vốn – một trong những
yếu tố đầu vào cơ bản cho sản xuất trong nền
kinh tế. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của FDI đối
với nước chủ nhà có thể theo hai hướng tác
động trái ngược nhau. Một mặt, sự gia nhập
thị trường của các công ty đa quốc gia có thể
gây ra tiêu cực cho đối thủ cạnh tranh trong
nước trong cùng lĩnh vực bởi vì sau khi tập
đoàn đa quốc gia (MNCs) gia nhập thị
trường, mức sản lượng của các doanh nghiệp
trong nước trong cùng một ngành có thể bị
thu hẹp do năng suất của họ thấp hơn các
MNCs. Mặt khác, FDI có thể cải thiện năng
suất của các nhà cung cấp trong nước thông
qua các liên kết ngược. Sản lượng và năng
suất của các ngành CNHT trong nước có thể
tăng lên do sự bổ sung nhu cầu công nghệ và
chuyển giao công nghệ từ MNCs. Vì vậy,
một đất nước sẽ có nhiều cơ hội để khai thác
các tác động tích cực từ FDI nếu nó có các
ngành công nghiệp hỗ trợ cạnh tranh mà có
thể mở rộng các giao dịch kinh doanh với các
nhà lắp ráp đa quốc gia (Junichi Mori, 2005).
Các tác động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng
năng suất, hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, CNHT giúp tiếp thu chuyển giao
công nghệ, kỹ thuật tiến bộ, từ đó, thúc đẩy
tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Một
trong các đặc điểm của sản xuất CNHT là
phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển khoa học
công nghệ, đặc biệt là các lĩnh vực sản xuất
linh kiện, phụ tùng, do đó, ngành CNHT phát
triển sẽ thúc đẩy quá trình chuyển giao và
khả năng ứng dụng nhanh chóng của công
nghệ, kỹ thuật hiện đại vào hoạt động sản
xuất . Ngoài ra, các kinh nghiệm về quản lý
sản xuất, đào tạo về nhân lực, ... cũng có thể
được truyền đạt thông qua sự hợp tác sản
xuất, kinh doanh với các tập đoàn kinh tế lớn,
các nhà đầu tư nước ngoài (Viện Nghiên cứu
quản lý kinh tế Trung Ương, 2009). Đây
chính là những nhân tố góp phần tăng Tổng
năng suất các nhân tố (TFP) của nền kinh tế.
Năm là, CNHT thúc đẩy tính liên kết giữa
các ngành sản xuất CN trong nền kinh tế, từ
đó thúc đẩy năng suất, hiệu quả cho nền kinh
tế. Ngành CNHT có khả năng tạo ra mối liên
kết giữa các công ty trong chuỗi giá trị và các
nhà cung cấp của họ (Michael Porter, 2012).
Do cùng nằm trong chuỗi giá trị, chuỗi cung
ứng của sản xuất, các doanh nghiệp CNHT
có mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau và
có mối liên kết chặt chẽ với các nhà sản xuất,
lắp ráp cuối cùng. Như vậy, thông qua mối
liên hệ chặt chẽ giữa các DN trong chuỗi
cung ứng, các chi phí trong hoạt động sản
xuất chung sẽ được tối thiểu hóa, từ đó, thúc
đẩy sự tăng năng suất và hiệu quả trong toàn
chuỗi sản xuất trong nền kinh tế.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
65
Tóm lại, phát triển CNHT có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với tăng năng suất, hiệu
quả của các ngành công nghiệp nói riêng và
cả nền kinh tế nói chung. Đóng góp của
CNHT đến năng suất và hiệu quả trong nền
kinh tế được thể hiện thông qua nhiều kênh
khác nhau. Một số kênh tác động chủ yếu của
CNHT đến năng suất và hiệu quả là: (1) tác
động trực tiếp đến năng suất, hiệu quả của
các ngành công nghiệp sản xuất thông qua
vai trò cung ứng các đầu vào cho sản xuất
trong nền kinh tế; (2) đổi mới tổ chức; (3) thu
hút và định hướng sử dụng hiệu quả nguồn
vốn FDI; (4) đổi mới công nghệ và (5) thúc
đẩy sự liên kết giữa các DN ...
4. Nguồn số liệu và phương pháp tiến
hành phân tích
Nguồn số liệu: để xem xét, đánh giá tình
hình phát triển ngành CNHT Việt Nam, cũng
như đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của
phát triển CNHT đối với năng suất và hiệu
quả trong nền kinh tế, bài viết chủ yếu sử
dụng nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ Tổng
cục Thống kê, Trung tâm phát triển Doanh
nghiệp CNHT (SIDEC), các số liệu về XNK
từ nguồn UNComtrade, các số liệu về FDI từ
nguồn Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư),...
Về phương pháp nghiên cứu: Bài viết chủ
yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính
như thống kê, mô tả; so sánh, đối chiếu; sử
dụng các đồ thị, hình vẽ, bảng biểu, ... để làm
rõ thực trạng tình hình phát triển CNHT, cũng
như đóng góp của phát triển CNHT đến năng
suất, hiệu quả trong nền kinh tế Việt Nam.
5. Kết quả và đánh giá
5.1. Khái quát về tình hình phát triển
ngành CNHT Việt Nam
Sau 30 năm đổi mới, lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng đóng góp khoảng
33,21% trong tổng sản phẩm trong nước
(GDP), tốc độ tăng trưởng từ năm 2005 đến
nay luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Tuy vậy,
các ngành công nghiệp chế tạo Việt Nam sản
xuất chủ yếu dựa trên nguồn đầu vào nhập
khẩu. Nguyên nhân chính là sự yếu kém của
các ngành CNHT. Những năm gần đây,
CNHT đã trở thành vấn đề trọng tâm, được
chính phủ Việt Nam quan tâm phát triển với
nhiều chuyển biến trong nhận thức và chính
sách. Dù vậy, nhìn chung, CNHT mới chỉ
đáp ứng ở mức thấp nhu cầu tối đa sản xuất
tại nội địa.
Về Giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN)
lĩnh vực linh kiện phụ tùng: Năm 2016,
GTSXCN lĩnh vực linh kiện phụ tùng ước đạt
382 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), tăng 20,9%
so với năm 2015; chiếm tỷ trọng khoảng 4,4%
GTSXCN toàn ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo (SIDEC, 2015). Trong đó, sản xuất linh
kiện kim loại có GTSXCN cao nhất, đạt 172
nghìn tỷ đồng; GTSXCN linh kiện điện – điện
tử đạt 152 nghìn tỷ đồng và phát triển rất mạnh
trong 5 năm trở lại đây. Như vậy, giá trị sản
xuất ngành CNHT chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
GTSX toàn ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo; do đó, mức độ đáp ứng được nhu cầu cho
ngành sản xuất trong nước còn vô cùng hạn
chế.
Bảng 1. Giá trị sản xuất công nghiệp ngành cnht việt nam
Đơn vị: tỷ đồng, giá hiện hành
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Linh kiện kim loại 79812 92030 105120 124900 150000 172000
Linh kiện điện – điện tử 35320 49990 65019 90500 117000 152000
Linh kiện nhựa – cao su 21200 26360 33044 41400 49000 58000
Nguồn: Niên giám thống kê về CNHT các ngành chế tạo Việt Nam 2017-2018 (Trung tâm phát triển
doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp, 2017)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
66
Về số lượng doanh nghiệp:
Ước tính đến hết năm 2016, có khoảng
1800 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất linh kiện, phụ tùng, tăng trưởng bình
quân về số lượng doanh nghiệp giai đoạn
2012 – 2016 đạt 10%/ năm. Trong đó, sản
xuất linh kiện phụ tùng kim loại phát triển
nhất với 770 doanh nghiệp, chiếm 42,8%.
Sản xuất linh kiện điện – điện tử có 610
doanh nghiệp, phát triển rất nhanh, chủ yếu
tập trung chủ yếu ở khu vực FDI. Sản xuất
linh kiện nhựa – cao su có 420 doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu so sánh giữa số lượng doanh
nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng và với số
lượng doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
chính, có thể thấy một sự chênh lệch bất hợp
lý. Năm 2015, tổng số doanh nghiệp ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo là 67490, trong
khi đó, số lượng doanh nghiệp sản xuất linh
kiện, phụ tùng là khoảng 1800 doanh nghiệp
(số liệu năm 2016), chiếm 2,67% là một tỷ lệ
quá thấp và thể hiện một ngành công nghiệp
hỗ trợ kém phát triển, do đó, ảnh hưởng xấu
đến sự tăng năng suất, hiệu quả cho ngành
CN chế biến chế tạo nói riêng và nền kinh tế
Việt Nam nói chung.
Hình 2. Số lượng dn và lao động lĩnh vực linh kiện phụ tùng
Nguồn: Niêm giám thống kê về CNHT các ngành chế tạo Việt Nam, 2017-2018(Trung tâm phát triển
doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp, 2017)
Về số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực:
Năm 2016, sản xuất linh kiện và phụ tùng
cũng thu hút trên 242 nghìn lao động, tập
trung chủ yếu ở khu vực sản xuất linh kiện
kim loại và sản xuất linh kiện điện – điện tử..
Đa số doanh nghiệp tham gia sản xuất CNHT
thuộc đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa
dưới 300 lao động. Đặc trưng của nhóm
doanh nghiệp này là họ rất năng động và linh
hoạt trong biến động thị trường, đây là điểm
mạnh cần phát huy trong bối cảnh hội nhập,
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó,
đây là nhóm doanh nghiệp bị nhiều hạn chế
bởi vốn, công nghệ, và đặc biệt, là sự thiếu
hụt về lao động có trình độ cao, được đào tạo
cơ bản. Nhìn chung, chất lượng nguồn lao
động của Việt Nam nói chung và ngành
CNHT nói riêng là yếu và thiếu. Theo báo
cáo “Năng suất lao động của Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp” (Tổng cục Thống
kê, 2016), cả nước hiện có 80,1% tổng số lao
động chưa được đào tạo để đạt trình độ
chuyên môn kỹ thuật nào đó. Cơ cấu nguồn
nhân lực chưa phù hợp với nhu cầu thực tế,
nhân lực được đào tạo trong các ngành kỹ
thuật – công nghệ còn chiếm tỷ trọng thấp,
lao động có trình độ kỹ thuật cao, công nhân
lành nghề, đặc biệt là các ngành trọng điểm
như cơ khí, điện tử, kỹ thuật điện, còn
thiếu hụt trong khi đây chính là các ngành
sản xuất chủ đạo trong ngành CNHT. Thêm
vào đó, nhân lực trình độ cao làm việc trong
các ngành, các lĩnh vực tác động mạnh đến
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế còn thiếu hụt
như: các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ
thông tin, điều khiển và tự động hóa,
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
67
khiến cho CNHT khó thể phát triển và thúc
đẩy được năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
Về công nghệ, các doanh nghiệp chủ yếu
sử dụng công nghệ, máy móc của Nhật Bản,
Đài Loan, Trung Quốc, EU và một số máy
móc được chế tạo hoặc được nâng cấp trong
nước. Các tiêu chuẩn, công cụ quản lý tiên
tiến cũng đã được các doanh nghiệp quan
tâm và ứng dụng. Tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO 9000, ISO 9001, các công cụ quản
lý 5S, Kaizen được khá nhiều doanh nghiệp
áp dụng. Đây cũng là một yêu cầu quan trọng
khi doanh nghiệp muốn cung cấp linh kiện
cho doanh nghiệp FDI trong nội địa. Khi xây
dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ
quản lý, doanh nghiệp đã nhận được sự hỗ
trợ tích cực từ phía các khách hàng FDI, các
tổ chức trong và ngoài nước. Tuy nhiên, về
cơ bản, nhìn chung công nghệ trong sản xuất
CNHT của Việt Nam còn lạc hậu, do vấn đề
thiếu vốn, chất lượng nhân lực thấp, chúng ta
khó có thể tiếp cận nhanh với công nghệ sản
xuất hiện đại. Hầu hết doanh nghiệp CNHT
lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên quá trình
đổi mới công nghệ càng kéo dài, mất nhiều
thời gian hơn, điều này cũng khiến năng suất,
hiệu quả của ngành khó tăng nhanh trong
thời gian qua.
Về tình hình nội địa hóa: Sản phẩm chính
của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng là
các loại linh kiện, phụ tùng phục vụ cho các
ngành công nghiệp hạ nguồn trong nước như
xe máy, ô tô, máy nông nghiệp, máy động
lực, công nghiệp điện tử... Hiện mức độ đáp
ứng nhu cầu sản xuất trong nước còn rất hạn
chế. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản
xuất có chất lượng thấp, giá thành cao (công
nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế
nguồn lực, qui trình sản xuất kém) nên chỉ
tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp
nội địa. Thêm vào đó, trong số các ngành sản
xuất, ngoại trừ xe máy đang là ngành có tỷ lệ
% cung ứng trong nước cao, các ngành còn
lại có tỷ lệ % cung ứng trong nước tương đối
thấp, đặc biệt là ngành công nghiệp công
nghệ cao (tỷ lệ % cung ứng trong nước chỉ
đạt 10%).
Bảng 2. Năng lực cung ứng của lĩnh vực sx linh
kiện, phụ tùng
Lĩnh vực hạ nguồn
Khả năng cung ứng
trong nước (%)
Linh
kiện
cơ
khí
Linh
kiện
điện –
điện
tử
Linh
kiện
nhựa
– cao
su
Xe máy 85 –
95%
85 –
90%
85 –
95%
Ô tô 15 –
40%
15% 20%
Sản xuất thiết bị
đồng bộ
30 –
45%
40% -
Sản xuất máy nông
nghiệp, máy động
lực
50 –
60%
- -
Điện tử gia dụng 50% 30 –
35%
40%
Điện tử tin học,
viễn thông
30% 15% 15%
Công nghiệp công
nghệ cao
10% 5% 5%
Nguồn: (Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công
nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính
sách Công nghiệp, 2015)
Về tình hình liên kết trong ngành CNHT:
quá trình liên kết sản xuất giữa các DN bắt
đầu được manh nha hình thành thông qua sự
hình thành một số khu, cụm CN, cụm liên
kết. Ngày 27/4/2009, KCN hỗ trợ số 1 của
Việt Nam tại Bắc Ninh đã được khởi công
xây dựng với sự giúp đỡ của Nhật Bản. Đây
được coi là một bước quan trọng trong quá
trình phát triển CNHT của Việt Nam. Năm
2012, Công ty Cổ phần Đầu tư - Phát triển
N&G (N&G Corp) và Shimizu Corp của
Nhật Bản đã ký kết thỏa thuận về việc hợp
tác xây dựng và phát triển khu công nghiệp
hỗ trợ đầu tiên ở Hà Nội, với tổng số vốn đầu
tư dự kiến lên tới gần 1 tỷ USD, ... Đây là
những bước đi đầu tiên thể hiện nỗ lực của
Chính phủ và DN trong việc thúc đẩy sự hình
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
68
thành các chuỗi cung ứng, cụm liên kết
ngành để phát triển CNHT. Tuy nhiên, hoạt
động tại các khu CN này vẫn đang trong giai
đoạn triển khai, chưa thu hút được đông đảo
sự quan tâm của các nhà đầu tư và doanh
nghiệp CNHT trong nước.
Nhìn chung, sự liên kết kinh doanh, sản
xuất giữa các doanh nghiệp là rất yếu là một
trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự
kém phát triển của ngành CNHT trong nước.
Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn cạnh
tranh không lành mạnh, thiếu sự phối hợp
giữa nhà sản xuất chính với các nhà thầu phụ,
cũng như giữa các nhà thầu phụ với nhau,
hay giữa các doanh nghiệp FDI với doanh
nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp vẫn
chủ yếu là mạnh ai nấy làm, dẫn đến không
thúc đẩy được chuyên môn hóa sâu, hợp tác
rộng để đem lại hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, các cụm công nghiệp được
hình thành ít, thiếu quy hoạch tổng thể,
thường là chú trọng giải quyết về mặt bằng
sản xuất hơn là tạo nên chuỗi giá trị thông
qua liên kết giữa các doanh nghiệp (Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương,
2009), do đó, không tạo ra được những điều
kiện cần thiết để phát triển CNHT Việt Nam.
Tóm lại, trong hơn 10 năm hình thành và
phát triển, nhìn chung, ngành CNHT Việt
Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển,
điều này cũng dẫn đến hoạt động sản xuất
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phụ
thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Điều
này sẽ dẫn đến nhiều tác động xấu đến hoạt
động sản xuất ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo trong nước nói riêng, cũng như tác
động không tốt đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
5.2. Đóng góp của ngành CNHT đến năng
suất và hiệu quả trong kinh tế Việt Nam
Do thực trạng kém phát triển, trong hơn
10 năm qua, ngành CNHT Việt Nam vẫn
chưa có nhiều đóng góp đáng kể cho nền
kinh tế nói chung, và năng suất, hiệu quả
trong nền kinh tế nói riêng.
Về năng suất lao động xã hội:
Hình 3. Năng suất lao động xã hội ngành cn cbct
(triệu đ/người)
Nguồn: Số liệu thống kê Dân số và Lao động,
Tổng cục Thống kê, gso.gov.vn
Nhìn chung, trong giai đoạn 2005 đến
nay, năng suất lao động ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo có xu hướng tăng lên và
biến động xung quanh mức năng suất lao
động tổng thể của nền kinh tế. So với ngành
nông lâm nghiệp và thủy sản, ngành công
nghiệp chế biến chế tạo đạt năng suất cao
hơn, tuy nhiên, nếu so sánh với các ngành
dịch vụ, thương mại, thì năng suất ngành
công nghiệp chế biến chế tạo lại tương đối
thấp. Mặt khác, nếu như trong giai đoạn 2005
– 2010, năng suất lao động của ngành công
nghiệp chế biến chế tạo vượt mức và cao hơn
nhiều so với năng suất lao động của cả nền
kinh tế, thì đến giai đoạn 2011 – 2016, năng
suất lao động của toàn ngành có xu hướng
thấp hơn so với mức chung của nền kinh tế.
Trong khi một số ngành khai thác khoáng
sản; kinh doanh bất động sản; hoạt động tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm... có năng suất
lao động cao hơn nhiều so với mức chung
của cả nền kinh tế; thì ngành sản xuất công
nghiệp của Việt Nam lại chỉ đạt mức khiêm
tốn, là nhân tố cản trở lớn sự phát triển của
ngành.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
69
Bảng 3. Năng suất lao động một số ngành kinh tế của việt nam
Triệu đồng/ người
2011 2012 2013 2014 2015 2016
TỔNG SỐ
55,2 63,1 68,7 74,7 79,4 84,5
Nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản
22,3 25,6 26,4 28,6 30,6 32,9
Khai khoáng
982,8 1.298,6 1.474,3 1.683,3 1.695,6 1.548,5
Công nghiệp chế biến, chế tạo
53,2 60,7 65,8 70,0 71,0 72,4
Sản xuất và phân phối điện,
khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hòa không khí
580,4 751,3 862,2 1.024,7 1.146,6 1.190,5
Cung cấp nước; hoạt động
quản lý và xử lý rác thải, nước
thải
128,4 141,8 164,4 179,0 179,9 171,2
Xây dựng
48,5 53,4 55,6 60,7 66,5 66,5
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa
ô tô, mô tô, xe máy và xe có
động cơ khác
40,3 47,4 51,7 58,3 63,4 70,2
Vận tải, kho bãi
55,9 62,2 67,0 73,2 71,9 74,8
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
51,1 55,3 60,7 64,2 63,7 69,0
Thông tin và truyền thông
78,4 80,3 82,8 84,9 87,0 92,9
Hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm
493,0 547,7 581,9 588,2 631,1 660,7
Hoạt động kinh doanh bất
động sản
1.370,6 1.204,8 1.263,6 1.278,6 1.284,7 1.273,9
Nguồn: Số liệu thống kê về Dân số và lao động, Tổng cục Thống kê, gso.gov.vn
Xét về tỷ suất doanh thu theo lao động,
sản xuất kim loại, điện tử, sản xuất động cơ
là những ngành có doanh thu/ lao động tương
đối lớn và cao hơn mức trung bình của ngành
công nghiệp chế biến chế tạo, ngược lại, các
ngành sản xuất sản phẩm từ cao su, nhựa,
kim loại đúc sẵn, thiết bị điện lại có mức tỷ
suất doanh thu/ lao động tương đối thấp –
đây là những ngành sản xuất cung ứng đầu
vào, các sản phẩm CNHT cho nhiều ngành
lắp ráp điện -điện tử, xe máy – ô tô. Do năng
suất và hiệu quả trong ngành CNHT thấp đã
dẫn đến tỷ suất lợi nhuận/ lao động của các
ngành chế tạo hiện tương đối thấp.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
70
Bảng 4. Tỷ suất doanh thu và lợi nhuận theo lao động của một số ngành cn chế tạo vn (tỷ đồng/ người)
2011 2012 2013 2014 2015
Tỷ
suất
Doanh
thu/
lao
động
Tỷ
suất
lợi
nhuận
/lao
động
Tỷ
suất
Doanh
thu/
lao
động
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
lao
động
Tỷ
suất
Doanh
thu/
lao
động
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
lao
động
Tỷ
suất
Doanh
thu/
lao
động
Tỷ suất
lợi
nhuận/lao
động
Tỷ
suất
Doanh
thu/
lao
động
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
lao
động
Công nghiệp
chế biến, chế
tạo
0.671 0.023 0.752 0.024 0.828 0.039 0.871 0.039 0.936 0.046
Sản xuất sản
phẩm từ cao su
và plastic
0.770 0.022 0.808 0.037 0.826 0.029 0.870 0.035 0.892 0.038
Sản xuất kim
loại
2.950 0.009 2.886 -0.026 2.790 -0.007 3.035 -0.006 3.225 -0.064
Sản xuất sản
phẩm từ kim
loại đúc sẵn
0.809 0.014 0.901 0.012 0.958 0.018 1.031 0.021 1.058 0.024
Sản xuất sản
phẩm điện tử,
máy vi tính và
sản phẩm
quang học
1.125 0.083 1.641 0.081 2.373 0.218 2.227 0.156 2.552 0.1616
Sản xuất thiết
bị điện
0.943 0.018 1.015 0.023 1.123 0.044 1.214 0.037 1.273 0.046
Sản xuất xe có
động cơ, rơ
moóc
1.234 0.036 1.159 0.042 1.290 0.073 1.551 0.115 1.853 0.166
Nguồn: Niêm giám thống kê 2016 (Tổng cục Thống kê, 2017) và tính toán của tác giả
Về năng suất và hiệu quả sử dụng vốn:
Công nghiệp điện tử và sản xuất xe có
động cơ là những ngành có tỷ suất doanh thu/
vốn và lợi nhuận/ vốn tương đối cao, cao hơn
mức trung bình của toàn ngành chế biến, chế
tạo, thể hiện là những ngành có hiệu quả hơn
trong việc sử dụng vốn. Ngược lại, những
ngành sản xuất nguyên vật liệu cơ bản cho
sản xuất chế tạo như cao su, plastic, sản xuất
kim loại và kim loại đúc sẵn lại có tỷ suất
doanh thu và lợi nhuận trên vốn tương đối
thấp, là biểu hiện của năng suất, hiệu quả sản
xuất trong ngành còn tương đối thấp, phản
ánh sự kém phát triển của CNHT và ảnh
hưởng xấu đến sự tăng năng suất, hiệu quả
nói chung của toàn ngành CN CBCT.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
71
Bảng 5. Tỷ suất doanh thu và lợi nhuận theo vốn của một số ngành chế tạo vn (tỷ đồng)
2011 2012 2013 2014 2015
Tỷ
suất
Doanh
thu/
vốn
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
vốn
Tỷ
suất
Doanh
thu/
vốn
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
vốn
Tỷ
suất
Doanh
thu/
vốn
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
vốn
Tỷ
suất
Doanh
thu/
vốn
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
vốn
Tỷ
suất
Doanh
thu/
vốn
Tỷ
suất
lợi
nhuận/
vốn
Công nghiệp
chế biến, chế
tạo
1.336 0.046 1.313 0.041 1.332 0.063 1.327 0.059 1.280 0.063
Sản xuất sản
phẩm từ cao su
và plastic
1.275 0.036 1.199 0.055 1.090 0.039 1.086 0.043 0.969 0.042
Sản xuất kim
loại
1.487 0.004 1.193 -0.011 0.906 -0.002 0.732 -0.001 0.598 -0.012
Sản xuất sản
phẩm từ kim
loại đúc sẵn
1.076 0.019 1.002 0.014 1.096 0.021 1.093 0.022 1.067 0.024
Sản xuất sản
phẩm điện tử,
máy vi tính và
sản phẩm
quang học
2.159 0.160 2.651 0.132 3.139 0.288 2.480 0.174 2.481 0.157
Sản xuất thiết
bị điện
1.380 0.026 1.394 0.031 1.422 0.055 1.541 0.047 1.491 0.054
Sản xuất xe có
động cơ, rơ
moóc
1.436 0.041 1.356 0.050 1.497 0.085 1.655 0.123 1.556 0.139
Nguồn: Niêm giám thống kê 2016(Tổng cục Thống kê, 2017) và tính toán của tác giả
Về thu nhập bình quân đầu người của
lao động: Từ năm 2010 đến nay, công
nghiệp chế biến, chế tạo có mức thu nhập
bình quân đầu người trong các DN thấp hơn
so với mức bình quân của toàn nền kinh tế,
trong đó, tính đến năm 2013, các ngành sản
xuất các nguyên vật liệu cơ bản như cao su,
nhựa, kim loại có mức thu nhập bình quân
thấp hơn cả nền kinh tế và cả mức thu nhập
toàn ngành CN CBCT. Đến hết năm 2015,
một số ngành sản xuất chế tạo đã đạt mức thu
nhập bình quân cao hơn so với mức chung
của toàn nền kinh tế và của ngành CN CBCT
là sản xuất cao su và nhựa, sản xuất kim loại
và kim loại đúc sẵn, sản xuất sản phẩm điện
tử, thiết bị điện, sản xuất xe có động cơ rơ
moóc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
72
Bảng 6. Thu nhập bình quân đầu người của lao động trong các dn (triệu đồng/ người)
Thu nhập bình quân đầu người của
người lao động
2011 2012 2013 2014 2015
Công nghiệp chế biến, chế tạo 45.905 55.408 61.383 65.613 73.522
Sản xuất sản phẩm từ cao su và
plastic
50.366 60.100 66.071 70.487 80.763
Sản xuất kim loại 57.532 61.724 64.949 78.495 92.704
Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc
sẵn
49.035 59.671 64.220 74.276 84.442
Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học
44.976 57.217 71.999 66.286 83.125
Sản xuất thiết bị điện 60.463 64.662 74.009 80.904 85.879
Sản xuất xe có động cơ, rơ moóc 50.427 64.007 70.395 79.353 86.692
Tổng số 54.372 63.012 68.181 73.535 80.586
Nguồn: Niêm giám thống kê 2016(Tổng cục Thống kê, 2017) và tính toán của tác giả
Về thu hút và sử dụng đầu tư
Hiện CN CBCT đang là ngành thu hút
được nhiều vốn FDI nhất với số vốn đăng ký
lũy kế đến năm 2015 chiếm 57,74% tổng số
vốn FDI của toàn nền kinh tế (Theo số liệu
Thống kê, Tổng cục Thống Kê, 2017). Điều
này nhấn mạnh sức hút của ngành CN CBCT
nói chung. Tuy nhiên, phần lớn các dự án thu
hút FDI hiện nay lại chủ yếu tâp trung vào
các ngành lắp ráp, thâm dụng lao động (như
các dự án Samsung điện tử có vốn đăng ký
trên 1 tỷ USD) hay thâm dụng tài nguyên (sử
dụng nhiều đất đai và khai thác mặt nước như
cảng biển) (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2015),
trong khi doanh nghiệp FDI lại chủ yếu nhập
khẩu linh, phụ kiện để phục vụ hoạt động sản
xuất tại Việt Nam. Điều này cho thấy sự kém
hiệu quả trong sử dụng và định hướng dòng
vốn FDI trong nâng cao năng suất, hiệu quả
của nền kinh tế. Mặt khác, hiện đang phát
sinh nguy cơ rút vốn tại một số DN FDI
những năm gần đây do nguyên nhân là ngành
CNHT kém phát triển, trong khi lợi thế về
lao động giá rẻ tại Việt Nam đang mất dần.
Việc thiếu vốn đầu tư vào ngành CNHT
trong bối cảnh các DN CNHT chủ yếu tập
trung ở quy mô nhỏ và vừa, càng khiến
ngành CNHT có điều kiện phát triển trong
thời gian qua, ngược lại, CNHT kém phát
triển cũng sẽ là yếu tố bất lợi để thu hút và sử
dụng FDI có hiệu quả. Do đó, trong thời gian
tới, việc thúc đẩy thu hút FDI theo định
hướng tập trung vào ngành CNHT sẽ là cần
thiết để phát triển CNHT theo định hướng
tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
CNHT với đổi mới công nghệ: như đã
phân tích trong phần 5.1, từ khoảng năm
2015 trở lại đây, vấn đề đổi mới công nghệ
tại các DN CNHT đã bắt đầu được quan tâm,
chú trọng nhiều hơn. Về phía Nhà nước,
Nghị định 111 ra đời đã quy định cụ thể hơn
các chính sách hỗ trợ và ưu đãi cho ngành
CNHT, trong đó có chính sách khuyến khích
đổi mới về công nghệ. Về phía DN, một số
đã chủ động đổi mới công nghệ để đáp ứng
yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp FDI,
các tập đoàn đa quốc gia.(Trung tâm phát
triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện
nghiên cứu chiến lược chính sách Công
nghiệp, 2016)
Tuy nhiên, do đặc điểm của các DN
CNHT tại Việt Nam là có quy mô nhỏ và
vừa, thiếu vốn, lao động trình độ cao, cộng
với sự thiếu sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, quá
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
73
trình đổi mới và phát triển công nghệ tại các
DN sản xuất CNHT gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, trình độ khoa học công nghệ tại
các DN CNHT còn nhiều hạn chế, quá trình
đổi mới công nghệ diễn ra chậm. Từ đó, dẫn
đến ngành CNHT hiện vẫn chưa có đóng góp
đáng kể cho sự đổi mới và nâng cao trình độ
công nghệ cho toàn ngành sản xuất công
nghiệp, cũng như cho toàn nền kinh tế. Các
ngành CN CBCT của Việt Nam hiện nay vẫn
chủ yếu trong tình trạng lắp ráp, giá trị gia
tăng thấp là do sự kém phát triển của ngành
CNHT. Trong bối cảnh này, để thúc đẩy tăng
trưởng và nâng cao năng suất, hiệu quả kinh
tế, rất cần có sự hỗ trợ từ phía chính phủ để
đổi mới công nghệ trong ngành CNHT.
Về đổi mới tổ chức, đã bắt đầu có những
ảnh hưởng tích cực, đặc biệt với những DN
CNHT đã được tham gia vào các chuỗi cung
ứng với các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn
đa quốc gia, xuyên quốc gia, Chẳng hạn,
với một số DN cung ứng cho Samsung như
Công ty CP sản xuất điện tử Thành Long,
Công ty CP Hanel xốp nhựa, Công ty TNHH
cơ khí HTMP Việt Nam, là ba trong số
215 DN Việt tham gia chuỗi cung ứng của
Samsung. Để có thể trở thành nhà cung cấp
cho Samsung, các DN này đã phải tiến hành
rất nhiều các đổi mới, cải tiến về mặt tổ chức
sản xuất, nâng cao hiệu quả và năng suất;
đồng thời, các DN cũng nhận được sự tư vấn
cải tiến DN do chính các chuyên gia của
Samsung từ Hàn Quốc thực hiện. Thông qua
những hoạt động như vậy, năng suất và hiệu
quả hoạt động của các DN CNHT chắc chắn
sẽ được cải thiện, và ảnh hưởng tích cực đến
quá trình tăng năng suất, hiệu quả trong sản
xuất của nền kinh tế.
Tuy nhiên, phần lớn các DN CNHT thuần
Việt đều gặp khó khăn trong quá trình đổi
mới tổ chức, tổ chức, sắp xếp lại sản xuất do
những khó khăn trong chất lượng nguồn nhân
lực, thiếu vốn, Sự thiếu hụt về cả số lượng
và chất lượng nhân lực cũng là nguyên nhân
khiến các DN CNHT chậm đổi mới công
nghệ và tiếp cận với các DN trong chuỗi
cung ứng.
Tóm lại, có thể thấy rằng, trong thời gian
qua, do thực trạng chung kém phát triển,
ngành CNHT Việt Nam chưa có những đóng
góp đáng kể đối với tăng năng suất và hiệu
quả chung trong nền kinh tế. Tuy nhiên,
ngành CNHT cũng đã có những vai trò nhất
định trong việc gia tăng thu hút FDI vào lĩnh
vực CN CBCT, thúc đẩy sự đổi mới công
nghệ và đổi mới tổ chức. Thêm vào đó, quá
trình liên kết giữa các DN đã bắt đầu trong
quá trình hình thành, mặc dù chưa thực sự
hiệu quả, nhưng đã có những ảnh hưởng nhất
định đến sự phát triển ngành CNHT, và lâu
dài sẽ có ảnh hưởng tốt đến quá trình tăng
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Như vậy,
để thúc đẩy sự tăng năng suất, hiệu quả trong
sản xuất công nghiệp nói riêng và cả nền
kinh tế nói chung, giải pháp phát triển các
ngành CNHT vẫn là rất quan trọng và cần
thiết cho Việt Nam trong những năm tiếp
theo.
6. Một số gợi ý giải pháp và kiến nghị phát
triển ngành CNHT để nâng cao năng suất,
hiệu quả trong nền kinh tế giai đoạn hiện
nay
Dựa trên những phân tích, đánh giá thực
trạng phát triển ngành CNHT Việt Nam gắn
với nâng cao năng suất, hiệu quả của nền
kinh tế, có thể nhận định chung rằng sự kém
phát triển của các ngành CNHT khiến cho
ngành chưa có những tác động tích cực đáng
kể đến tăng năng suất, hiệu quả của nền
kinh tế. Đặc biệt, các vấn đề liên quan đến
thu hút đầu tư còn hạn chế, chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ cho ngành CNHT
hiện vẫn vô cùng yếu, ứng dụng tiến bộ
công nghệ diễn ra chậm và tính liên kết yếu,
là những tồn tại lớn trong quá trình phát
triển CNHT. Do đó, để thúc đẩy phát triển
CNHT, từ đó thúc đẩy năng suất và hiệu quả
trong nội bộ ngành nói riêng và cả nền kinh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
74
tế nói chung, cần tập trung vào một số giải
pháp và kiến nghị như sau:
6.1. Một số giải pháp
Thứ nhất, thu hút và định hướng dòng vốn
đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ngành CNHT. Như đã phân tích trong
phần thực trạng, hiện nay, các DN CNHT
Việt Nam chủ yếu là đối tượng DN nhỏ và
vừa, thiếu vốn; thêm vào đó, mặc dù lượng
vốn FDI được thu hút vào ngành CN CBCT
là tương đối lớn, nhưng lại không định hướng
cụ thể vào ngành CNHT, dẫn đến hiệu quả sử
dụng FDI thấp, chưa có đóng góp đáng kể
vào tăng năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
Do đó, trong thời gian tới, cần có các biện
pháp thu hút FDI theo hướng trọng tâm hơn
vào ngành CNHT.
Để thu hút các dự án FDI vào sản xuất
công nghiệp hỗ trợ, cần có các ưu đãi thích
hợp đủ sức hấp dẫn. Đối với các doanh
nghiệp FDI có qui mô vừa trở lên,thường có
nguồn lực tương đối mạnh, vì vậy, một trong
những ưu đãi mà họ quan tâm nhất khi đầu tư
vào Việt Nam là ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
CNHT vừa và nhỏ của Nhật Bản có trình độ
công nghệ và sản xuất rất cao cũng là đối
tượng cần phải hướng tới để thu hút. Các
doanh nghiệp này có qui mô vừa và nhỏ, họ
cần có sự hỗ trợ và sẵn sàng về mặt hạ tầng
như mặt bằng, hệ thống nhà xưởng, thủ tục
hành chính...trong các cụm công nghiệp hỗ
trợ. Về phía DN CNHT Việt Nam, để có thể
thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn
FDI thì doanh nghiệp cần chủ động trong tìm
kiếm đối tác, nhà đầu tư thông qua nhiều
kênh khác nhau như khách hàng, đối tác
truyền thống, các hội chợ, hội thảo xúc tiến
thương mại, ... Doanh nghiệp cũng cần cho
thấy nỗ lực không ngừng cài tiến và sự sẵn
sàng thay đổi để đáp ứng nhu cầu của nhà
đầu tư, khách hàng, ... – đây là một trong
những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư đưa ra
quyết định đầu tư.
Thứ hai, Các DN CNHT cần chủ động,
tích cực trong đổi mới công nghệ, đổi mới tổ
chức sản xuất. Để có thể tham gia vào các
chuỗi cung ứng của các tập đoàn điện tử đa
quốc gia như Samsung, Canon, ..., DN cần
chủ động nghiên cứu các xu hướng công
nghệ trên thế giới nói chung, và các tập đoàn
điện tử lớn nói riêng. Để làm được điều này
rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc
tạo ra môi trường chia sẻ thông tin minh
bạch, cập nhật; đồng thời, phía DN cũng cần
gia tăng sự liên kết với khách hàng, nhà cung
cấp của mình để nắm bắt được các ý tưởng,
xu hướng công nghệ mới. Mặt khác, DN
cũng cần mạnh dạn đầu tư công nghệ mới,
công nghệ tiên tiến, kết hợp với quá trình đổi
mới quy trình sản xuất để tăng năng suất,
chất lượng sản phẩm, đồng thời giảm chi phí,
giảm giá bán sản phẩm, đáp ứng được các
yêu cầu về chất lượng, giá cả và thời gian
giao hàng cho các khách hàng của DN.
Thứ ba, thúc đẩy sự liên kết giữa doanh
nghiệp CNHT với các doanh nghiệp lắp ráp;
các doanh nghiệp FDI, các tập đoàn đa quốc
gia để tận dụng các cơ hội nhận được các hỗ
trợ của các tập đoàn lớn trong đổi mới công
nghệ, đổi mới tổ chức, từ đó thúc đẩy tăng
năng suất, hiệu quả của nền kinh tế. Sự liên
kết này nên tập trung vào xác định rõ các yêu
cầu, nhu cầu với các sản phẩm CNHT; các hỗ
trợ về công nghệ, nhân lực trong nghiên cứu,
phát triển sản phẩm; xây dựng các hợp đồng
dài hạn giữa các bên doanh nghiệp để đảm
bảo chất lượng cho sản phẩm, cũng như đảm
bảo đầu ra cho các doanh nghiệp sản xuất
CNHT. Thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh
nghiệp CNHT nhằm tạo ra một chuỗi cung
ứng sản xuất ngay trong nội bộ ngành
CNHT, tăng tính chuyên môn hóa cho từng
doanh nghiệp và cho cả ngành CNHT, góp
phần giảm chi phí sản xuất trên 1 đơn vị sản
phẩm, thúc đẩy tính kinh tế nhờ quy mô để
nâng cao năng suất, hiệu quả. Đồng thời, cần
gia tăng tính liên kết giữa các Hiệp hội và
trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp với nhau, với
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(04) - 2018
75
các cơ quan quản lý Nhà nước, viện nghiên
cứu, để xác định các chính sách, biện pháp
phù hợp nhất nhằm hỗ trợ phát triển cho
ngành CNHT trong nước, cũng như tránh các
biện pháp chồng chéo, trùng lặp giữa các tổ
chức này, gây lãng phí và kém hiệu quả cho
xã hội.
Thứ tư, chú trọng phát triển nguồn nhân
lực cho ngành CNHT để tạo cơ sở cho sự đổi
mới tổ chức và nâng cao trình độ công nghệ
sản xuất. Như đã phân tích trong phần 5.1 và
5.2, hiện ngành CNHT đang thiếu hụt
nghiêm trọng về nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao, dẫn đến khó
khăn trong tiếp cận công nghệ, đổi mới tổ
chức, thúc đẩy tăng năng suất, hiệu quả của
nền kinh tế. Vì vậy, phát triển nguồn nhân
lực cho ngành CNHT không chỉ thúc đẩy sự
phát triển của ngành, mà còn là yếu tố để
nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế.
Một mặt, cần có chính sách thu hút đội ngũ
chuyên gia từ các nước có ngành CNHT phát
triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc hỗ
trợ Việt Nam trong xây dựng ngành CNHT;
mặt khác, cần tập trung hơn nữa trong đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
trong nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho
phát triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng
cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia
chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu. Việc đào
tạo, nâng cao chất lượng nhân lực ngành
Công nghiệp có thể được thực hiện thông qua
hợp tác, liên kết với các tập đoàn lớn, đa
quốc gia như Samsung; cần nâng cao hơn
nữa tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh
nghiệp sản xuất, giữa doanh nghiệp sản xuất
CNHT trong nước và các doanh nghiệp, tập
đoàn đa quốc gia, đặc biệt là Nhật Bản.
6.2. Một số kiến nghị với cơ quan QLNN
Thứ nhất, Chính sách thu hút đầu tư: hoàn
thiện các chính sách nhằm thu hút dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài cho sản xuất
ngành CNHT trong nước, trong đó, tiếp tục
chú trọng các chính sách ưu đãi về thuế thu
nhập, cải thiện môi trường kinh doanh mà
trước hết là đơn giản hóa thủ tục hành chính
để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp FDI khi
xin các cấp phép đầu tư, mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất
CNHT. Thêm vào đó, Nhà nước tiếp tục
hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng (đường xá,
điện, nước, ...), chú trọng cung cấp các dịch
vụ công cộng có chất lượng (y tế, giáo dục,
...) đặc biệt tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, ... để tạo ra môi trường
sống thuận lợi cho các nhà đầu tư, các
chuyên gia muốn sinh sống, làm việc lâu dài
tại Việt Nam.
Thứ hai, chính sách hỗ trợ phát triển công
nghệ: khẩn trương xây dựng và ban hành các
Thông tư hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ
tục để tiếp nhận các hỗ trợ về công nghệ, đặc
biệt là tăng cường khả năng tiếp cận các
nguồn vốn hỗ trợ từ Quỹ phát triển công
nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc
gia, cũng như 1 số nguồn vốn hỗ trợ khác
dành cho DNNVV để đầu tư đổi mới và phát
triển công nghệ, ứng dụng nhanh các công
nghệ mới, hiện đại cho sản xuất sản phẩm.
Thêm vào đó, các chính sách hỗ trợ về công
nghệ có thể thực thi thông qua hệ thống Hiệp
hội doanh nghiệp, các Trung tâm hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ, để tiếp nhận
các chuyên gia đến từ các nước có ngành
CNHT phát triển như Hàn Quốc, Nhật
Bản, nhằm cung cấp các dịch vụ hướng
dẫn về công nghệ, hướng dẫn về tiếp cận
công nghệ mới, cũng như đào tạo, nâng cao
trình độ về công nghệ cho đội ngũ lãnh đạo
doanh nghiệp.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ về nhân lực: Để
dần nâng cao chất lượng nhân lực cho sản
xuất công nghiệp nói chung, và ngành CNHT
nói riêng, một mặt, cần có chính sách thu hút
đội ngũ chuyên gia từ các nước công nghiệp
phát triển, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc
hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng ngành
CNHT, đào tạo nhân lực và hướng dẫn tiếp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
76
cận công nghệ hiện đại; mặt khác, chúng ta
cũng cần có những cơ chế, chính sách tác
động để nâng cao hiệu quả trong đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong
nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát
triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho
các nhà lắp ráp trong nước và tham gia chuỗi
sản xuất toàn cầu. Việc đào tạo, nâng cao
chất lượng nhân lực ngành Công nghiệp có
thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên
kết giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp sản xuất
CNHT với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như
Samsung; cần nâng cao hơn nữa tính liên kết
giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản xuất,
giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong
nước và các doanh nghiệp lắp ráp, các tập
đoàn đa quốc gia, ...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chang, Ha-Joon; Antonio Andreoni and Ming Leong Kuan. 2013. "International Industrial
Policy Experiences and the Lessons for the Uk," UK: Foresight, Government Office for
Science, 10-20.
Châu, Hoàng Văn ed. 2010. Chính Sách Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Ở Việt Nam Đến
Năm 2020. Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông.
Mori, Junichi. 2005. "Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization:
Increasing Positive Vertical Externalities through Collaborative Training," Master of
Arts in Law and Diplomacy Thesis. The Fletcher School, Tufts University., 7-16.
Porter, Michael. 2012. Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia (Sách Dịch). Hồ Chí Minh, Việt
Nam: Nhà xuất bản Trẻ.
Sang, Lê Xuân and Nguyễn Thị Thu Huyền. 2011. "Chính Sách Thúc Đẩy Phát Triển Công
Nghiệp Hỗ Trợ: Lý Luận, Thực Tiễn Và Định Hướng Cho Việt Nam," Chính sách tài
chính hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: 1-16.
Thúy, Nguyễn Thị Xuân. 2007. "Chương 2: Công Nghiệp Hỗ Trợ: Tổng Quan Về Khái
Niệm Và Sự Phát Triển," K. Ohno, Xây Dựng Công Nghiệp Hỗ Trợ Tại Việt Nam. Việt
Nam: Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội, 29-52.
Tổng cục Thống kê. 2016. "Năng Suất Lao Động Của Việt Nam: Thực Trạng Và Giải
Pháp," Hà Nội, Việt Nam: 4-19.
____. 2017. "Niêm Giám Thống Kê 2016," Hà Nội, Việt Nam: Nhà xuất bản Thống kê, 269-
418.
Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính
sách Công nghiệp. 2015. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo
Việt Nam," Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động, 174-79.
____. 2016. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo Việt Nam 2016-
2017," Hà Nội: NXB Công Thương, 213 - 22.
____. 2017. "Niên Giám Về Công Nghiệp Hỗ Trợ Các Ngành Chế Tạo Việt Nam 2017-
2018," Hà Nội: Nhà xuất bản Công thương, 219 - 30.
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương. 2009. "Phát Triển Các Ngành Công Nghiệp
Phụ Trợ Thực Trạng Và Một Số Khuyến Nghị," Hà Nội: Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung Ương 2-23.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_nganh_cong_nghiep_ho_tro_voi_nang_cao_nang_suat_v.pdf