MỤC LỤC
Lời nói đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
Lời tựa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
Lời cám ơn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
Các tác giả . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
Chương 1 Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam:
Tổng quan và tiếp cận về lý thuyết
T. Gordon MacAulay, Sally P. Marsh và Phạm Văn Hùng . . . . . . . . . . . . . 13
Chương 2 Sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp ở Việt Nam
Tô Dũng Tiến, Nguyễn Phượng Lê và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . . . . . . 41
Chương 3 Phân tích kinh tế hiện tượng manh mún đất đai
ở miền Bắc Việt Nam
Phạm Văn Hùng, T. Gordon MacAulay và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . . 69
Chương 4 Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp và sự thay đổi
qui mô hộ ở Việt Nam từ sau 1993
Sally P. Marsh, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Trọng Đắc và T. Gordon
MacAulay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 85
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Chương 5 Chính sách thuế và sử dụng đất nông nghiệp
Lê Hữu Ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 109
Chương 6 Sử dụng tín dụng trong các hộ nông dân ở Việt Nam: Những
gợi ý chính sách tài chính nông thôn
Sally P. Marsh, Lê Hữu Ảnh và T. Gordon MacAulay . . . . . . . . . . . . . . . . 121
Chương 7 Chính sách giá đầu vào, đầu ra và ảnh hưởng của nó đến sản
xuất nông nghiệp
Nguyễn Huy Cường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 145
Chương 8 Tài nguyên đất nông thôn và đói nghèo ở Việt Nam
Đỗ Kim Chung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 165
Chương 9 Thu nhập từ nông nghiệp và đa dạng hoá thu nhập của các hộ
nông dân tại Việt Nam
Sally P. Marsh, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Quốc Chỉnh và
T. Gordon MacAulay . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 179
Chương 10 Mô hình hoá kinh tế hộ ở Việt Nam: Mô hình kinh tế về giao
dịch đất trong bối cảnh làng xã
Phạm Văn Hùng, T. Gordon MacAulay và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . 201
Chương 11 Quản lý đất nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới: Những đánh
giá của các nhà hoạch định chính sách
Thaveeporn Vasavakul . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 221
Chương 12 Tóm tắt chính sách . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 233
Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 259
272 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2196 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sally P. Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng biên tập
Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia 2007
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ CHÍNH
SÁCH ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Đại học Nông
nghiệp I - Hà Nội
Đại học Sydney
Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia
(ACIAR) được thành lập vào tháng 6 năm 1982 theo Đạo luật của
Hạ Viện Ôx-trây-lia. Nhiệm vụ cơ bản của Trung tâm là giúp xác
định những vấn đề trong ngành nông nghiệp ở các nước đang phát
triển và giúp hợp tác nghiên cứu giữa những nhà nghiên cứu Ôx-
trây-lia và ở các nước đang phát triển trong lĩnh vực mà Ôx-trây-lia
có khả năng.
Nếu tên thương mại được sử dụng, điều đó không có nghĩa là xác
nhận hay phân biệt với bất kỳ sản phẩm nào của Trung tâm.
Các công trình nghiên cứu của ACIAR
Những công trình này là những kết quả của nghiên cứu ban
đầu được tài trợ bởi ACIAR hoặc những tài liệu được coi có
liên quan đến nghiên cứu của ACIAR và các mục tiêu phát
triển. Những công trình này được phân phối quốc tế và có ưu
tiên cho các nước đang phát triển.
@ Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia
GPO Box 1571, Canberra, Ôx-trây-lia 2601, www.aciar.gov.au,
email : aciar@aciar.gov.au
Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007
Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam
ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
1 86320 520 9 (print)
1 86320 521 7 (online)
Phạm Văn Hùng dịch thuật
Thiết kế Clarus Design Pty Limited
Ảnh Sally Marsh và Rob Boulden
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
LỜI NÓI ĐẦU
Đến khoảng năm 1980, lĩnh vực nông nghiệp
ở Việt Nam vẫn còn làm ăn tập thể. Hầu hết
đất đai được sử dụng trong hợp tác xã nông
nghiệp, chỉ có 5% đất được dành cho các nông
hộ tự sử dụng. Chính phủ chịu trách nhiệm
đưa ra những quyết định về sản xuất nông
nghiệp, đưa ra diện tích và mục tiêu cần đạt
cho từng cây trồng của các hợp tác xã nông
nghiệp trong đó có các hộ nông dân.
Hệ thống này là nguyên nhân làm sản lượng
lúa giảm và không đáp ứng được nhu cầu của
người dân dẫn đến lượng thực bị thiếu hụt.
Những chính sách mới từ năm 1981 trong lĩnh
vực nông nghiệp đã có những kết quả rất to
lớn. Việt Nam không những đã sản xuất đủ lúa
gạo mà còn là nước xuất khẩu đứng thứ hai
trên thế giới. Tuy nhiên, ảnh hưởng của những
chính sách này đối với những yếu tố như thu
nhập của hộ, sử dụng đất đai, tín dụng và thuế
ở nông hộ vẫn là những vấn đề quan trọng cần
được xem xét và nghiên cứu.
Những nhà kinh tế nông nghiệp Ôx-trây-lia có
rất nhiều kinh nghiệm trong giải quyết những
vấn đề kinh tế – xã hội nảy sinh trong quá
trình phát triển. Những kinh nghiệm của họ
đã được sử dụng trong Dự án này để đánh giá
ảnh hưởng của những chính sách đổi mới đối
với sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp
trong giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh
tế thị trường của Việt Nam. Dự án cũng đã
cung cấp những cơ hội cho những nhà nghiên
cứu Việt Nam phát triển các kỹ năng của mình
trong lĩnh vực nghiên cứu, nhất là trong xây
dựng và phân tích chính sách nông nghiệp.
Mục tiêu chính của Dự án là đánh giá ảnh
hưởng của những chính sách đổi mới của
chính phủ đến lĩnh vực nông nghiệp và xây
dựng những mô hình kinh tế thích hợp với
việc phân tích chính sách. Cuốn sách này sẽ
trình bày những mục tiêu của Dự án và những
kết quả nghiên cứu chính của Dự án.
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Cuốn sách mang đến cho người đọc những
sản phẩm khác nhau của Dự án. Trong chương
cuối, bao gồm các ‘tóm tắt chính sách’ (policy
briefs) cũng sẽ được xuất bản riêng bằng tiếng
Việt. Công trình này sẽ rất hữu ích cho các
nhà hoạch định chính sách của Việt Nam và
cộng đồng nghiên cứu quốc tế. Sách được tải
miễn phí từ địa chỉ trang Web của ACIAR,
www.aciar.gov.au.
Peter Core
Giám đốc
Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp
Quốc tế của Ôx-trây-lia
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
MỤC LỤC
Lời nói đầu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
Lời tựa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
Lời cám ơn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
Các tác giả . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 11
Chương 1 Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam:
Tổng quan và tiếp cận về lý thuyết
T. Gordon MacAulay, Sally P. Marsh và Phạm Văn Hùng . . . . . . . . . . . . . 13
Chương 2 Sử dụng linh hoạt đất nông nghiệp ở Việt Nam
Tô Dũng Tiến, Nguyễn Phượng Lê và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . . . . . . 41
Chương 3 Phân tích kinh tế hiện tượng manh mún đất đai
ở miền Bắc Việt Nam
Phạm Văn Hùng, T. Gordon MacAulay và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . . 69
Chương 4 Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp và sự thay đổi
qui mô hộ ở Việt Nam từ sau 1993
Sally P. Marsh, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Trọng Đắc và T. Gordon
MacAulay. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 85
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Chương 5 Chính sách thuế và sử dụng đất nông nghiệp
Lê Hữu Ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 109
Chương 6 Sử dụng tín dụng trong các hộ nông dân ở Việt Nam: Những
gợi ý chính sách tài chính nông thôn
Sally P. Marsh, Lê Hữu Ảnh và T. Gordon MacAulay . . . . . . . . . . . . . . . . 121
Chương 7 Chính sách giá đầu vào, đầu ra và ảnh hưởng của nó đến sản
xuất nông nghiệp
Nguyễn Huy Cường . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 145
Chương 8 Tài nguyên đất nông thôn và đói nghèo ở Việt Nam
Đỗ Kim Chung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 165
Chương 9 Thu nhập từ nông nghiệp và đa dạng hoá thu nhập của các hộ
nông dân tại Việt Nam
Sally P. Marsh, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Quốc Chỉnh và
T. Gordon MacAulay . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 179
Chương 10 Mô hình hoá kinh tế hộ ở Việt Nam: Mô hình kinh tế về giao
dịch đất trong bối cảnh làng xã
Phạm Văn Hùng, T. Gordon MacAulay và Sally P. Marsh . . . . . . . . . . . . 201
Chương 11 Quản lý đất nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới: Những đánh
giá của các nhà hoạch định chính sách
Thaveeporn Vasavakul . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 221
Chương 12 Tóm tắt chính sách . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 233
Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 259
Phụ lục I Điều tra hộ nông dân năm 2001 và 2002 ở 4 tỉnh:
Thiết kế và phương pháp điều tra . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 267
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
LỜI TỰA
Cũng giống như nhiều nơi trên thế giới, đất
đai và sử dụng đất đai luôn là vấn đề cơ bản
trong lịch sử cũng như trong sự phát triển của
Việt Nam. Cung cách sở hữu đất đai, sự thừa
kế đất đai qua các thế hệ luôn có những ảnh
hưởng sâu sắc đến kinh tế, xã hội và chính
trị của mỗi quốc gia. Điều này cũng đúng với
cả Việt Nam nơi có những thay đổi lớn trong
chính sách đất đai trước đây và thời gian qua.
Những thách thức mà nông nghiệp Việt Nam
đang phải đối mặt có liên quan đến sử dụng
đất đai là:
Nhu cầu tăng cường và phát triển kinh tế
trang trại thông qua tích tụ và tập trung
đất đai;
Với chi phí cơ hội của lao động tăng lên,
như vậy cơ hội cho những người thiếu việc
làm ở nông thôn và nông nghiệp có thể dễ
dàng có việc hơn và khi lao động rút bớt ra
khỏi ngành nông nghiệp thì quá trình tích
tụ và tập trung đất đai sẽ làm tăng hiệu
quả kinh tế tổng thể của vùng nông thôn;
Sự duy trì môi trường sinh kế tự cung tự
cấp với qui mô đất đai của hộ nhỏ, giá cả
nông sản biến động trên thị trường thế
giới và giá đầu vào sản xuất liên tục tăng;
Sự cần thiết phải cho phép sử dụng đất
đai linh hoạt (hiện nay vẫn còn ràng buộc
bởi chính sách) sẽ giúp nông dân phản
ứng tích cực hơn với các dấu hiệu của thị
trường và như vậy sẽ cực đại thu nhập
của họ.
Trên đây là những thách thức lớn và khó khăn.
Do đó, sự hiểu biết về chính sách và làm thế
nào để xây dựng chính sách giúp đạt được các
mục tiêu như sử dụng các nguồn lực hiệu quả
hơn, nâng cao thu nhập cho nông dân và phân
phối thu nhập công bằng hơn luôn là những
vấn đề rất quan trọng.
Sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam trong
thời gian dài phụ thuộc vào sự sử dụng có hiệu
quả hay không nguồn lực đất đai. Điều này
có liên quan đến những chính sách về đất đai,
thị trường đất đai, những đầu vào và nguồn
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
lực liên quan. Với khoảng 75% dân số vẫn còn
sống ở vùng nông thôn thì những vấn đề như
tập trung đất đai, sử dụng đất đai linh hoạt, vai
trò của thay đổi kỹ thuật, công nghệ, hay như
ảnh hưởng của chính sách thuế và tín dụng
luôn luôn là những vấn đề thời sự và quan
trọng. Để phát triển tương xứng với các ngành
kinh tế khác, những sự thay đổi lớn trong
cấu trúc hay sở hữu (quyền sử dụng) đất đai
dường như sẽ là một đòi hỏi bức thiết trong
tương lai.
Một trong những hoạt động thuộc phạm vi
của Dự án là điều tra thu thập số liệu. Số liệu
đã được thu thập từ 4 tỉnh: 2 tỉnh ở miền Bắc
và 2 tỉnh ở miền Nam. Mỗi tỉnh được lựa chọn
dựa trên các đặc tính sử dụng đất đai khác
nhau. Từ phân tích số liệu điều tra, bản chất
và cấu trúc các nông hộ, thị trường quyền sử
dụng đất, trao đổi đất đai ở các dạng khác
nhau đã được mô tả. Hầu hết những trao đổi
đất đai hãy còn hạn chế trừ những hoạt động
liên quan đến thuê mướn. Số liệu cũng cho
thấy bình quân 1 hộ nhất là ở miền Bắc có rất
nhiều thửa ruộng. Từ kết quả phân tích cho
thấy rằng hộ nông dân có nhiều thửa ruộng
cũng mang đến cho hộ cả những bất lợi (chi
phí) và lợi ích. Nếu như cầu về lao động tăng
lên trong nền kinh tế và như vậy chi phí cơ hội
của lao động nông nghiệp tăng lên thì nông
dân sẽ có động cơ giảm bớt số thửa ruộng mà
mình có. Như vậy, phát triển một ngành nào
đó trong nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hiệu
quả sản xuất nông nghiệp tăng. Còn nữa, nếu
như chi phí giao dịch trong thị trường quyền
sử dụng đất và cả trong nông thôn nói chung
(như những giao dịch về tín dụng) giảm thì
đây dường như là những giải pháp mạnh để
làm cho ngành nông nghiệp chuyển đổi.
Những cơ quan tham gia hoạt động của Dự
án bao gồm Khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội,
nhóm Kinh tế Nông nghiệp và Tài nguyên tại
Đại học Sydney. Ngoài ra còn có sự đóng góp
của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI). Các
chương trong quyển sách này là tập hợp từ các
bài viết trong các giai đoạn khác nhau của Dự
án ACIAR ADP 1/1997/092 ‘Ảnh hưởng của
một số phương án chính sách chủ yếu đến lĩnh
vực nông nghiệp ở Việt Nam’ được ACIAR
tài trợ. Các kết luận của quyển sách này nằm
trong chương 12 gồm các ‘tóm tắt chính sách’.
Đây là tóm tắt các kết quả nghiên cứu được
trình bày dưới dạng chính sách.
Một trong những sản phẩm quan trọng của
Dự án đó là xây dựng được tinh thần làm việc
hiệu quả cao cho nhóm cán bộ tham gia Dự
án. Tình bạn, sự hợp tác và trao đổi trong
công việc của Dự án cũng như trong sự phát
triển giữa hai bên có ý nghĩa rất lớn lao. Điều
này sẽ có ảnh hưởng đến thế hệ tương lai
các nhà kinh tế nông nghiệp của cả hai nước
Việt Nam và Ôx-trây-lia và nó cũng sẽ có ảnh
hưởng đến chính sách sử dụng đất đai, nhất là
cho Việt Nam.
Gordon MacAulay
Sally Marsh
Phạm Văn Hùng
From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
LỜI CẢM ƠN
Các tác giả xin chân thành cảm ơn ACIAR đã
tài trợ kinh phí cho nghiên cứu này. Những
kết quả nghiên cứu được trình bày trong cuốn
sách này có sự giúp đỡ và hỗ trợ của rất nhiều
cá nhân và tổ chức. Tập thể tác giả xin trân
trọng cảm ơn những đóng góp của họ trên
nhiều lĩnh vực khác nhau như thu thập số liệu,
viết báo cáo nghiên cứu, tổ chức tập huấn và
báo cáo hội thảo. Ngoài ra, nhóm tác giả xin
cám ơn những trao đổi rất giá trị về những
vấn đề khác nhau và phức tạp có liên quan đến
chính sách nông nghiệp và đất đai ở Việt Nam.
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới những người đã giúp đỡ cho Dự án.
Nhóm cán bộ tham gia Dự án bao gồm:
Trường Đại học Nông nghiệp I (HAU)
GS TS Tô Dũng Tiến, Trưởng Dự án,
Trường Đại học Nông nghiệp I
PGS TS Đỗ Kim Chung (thời gian của
Dự án chuyển sang làm việc tại Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn)
PGS TS Lê Hữu Ảnh
TS Phạm Văn Hùng
ThS Nguyễn Trọng Đắc
ThS Nguyễn Huy Cường
TS Chu Thị Kim Loan (chuyển đi làm
Nghiên cứu sinh tại Nhật Bản từ 10/2002)
TS Nguyễn Quốc Chỉnh (tham gia từ
10/2002)
ThS Nguyễn Phượng Lê
TS Nguyễn Thị Minh Hiền (chuyển đi làm
Nghiên cứu sinh tại Nhật Bản từ 10/2000)
Cô Galina Barrett (tình nguyên viên trẻ
người Ôx-trây-lia vì sự phát triển) sang
làm việc tại HAU từ 4/2001 – 3/2002.
Ngoài ra còn một số cán bộ và giảng viên của
Đại học Cần Thơ và Trường Đại học Nông lâm
thành phố Hồ Chí Minh.
10 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Đại học Sydney
GS TS Thomas Gordon MacAulay, Trưởng
Dự án, Đại học Sydney
PGS TS Bob Batterham (nghỉ hưu từ 2001)
TS Guang Hua Wan, Ging viên chính
(không tham gia từ 2002)
Bà Sally Marsh, Nghiên cứu viên, sang làm
việc tại HAU từ 2001-2004
Ông Michael Makaroff (hỗ trợ nghiên cứu
bán thời gian) – 8/2000 – 3/2002
Cô Helena Clayton (hỗ trợ nghiên cứu bán
thời gian) – 4/2002 – 11/2002
Cô Magella Clarke (hỗ trợ nghiên cứu bán
thời gian) – 11/2002 – 2/2003
Ông Charles Bett (hỗ trợ nghiên cứu theo
công việc)
Cô Galina Barrett (hỗ trợ công việc văn
phòng bán thời gian) – 10/2002 – 11/2002
Cô Annette Vervoort (hỗ trợ công việc văn
phòng bán thời gian) – từ 2/2003
TS Abdul Sarker, 6 tuần hỗ trợ nghiên
cứu trong Chương trình SKILLMAX của
Chính phủ Liên bang, 2-3/2002.
Chuyên gia tư vấn
TS Greg Herzler, Khoa Kinh tế Nông
nghiệp và Tài nguyên, Đại học Tây Ôx-
trây-lia, Perth
GS TS Ben Kerkvliet, Bộ môn Kinh tế
chính trị- xã hội, Viện nghiên cứu Châu
Á - Thái bình dương, Đại học Quốc gia
Ôx-trây-lia, Canberra
TS Thaveeporn Vasavakul, Trung tâm
Nghiên cứu về Việt Nam, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội
Các thành viên của Hội đồng cố
vấn
GS Tô Dũng Tiến, Trưởng Dự án (phía
Việt Nam), Trường Đại học Nông nghiệp
I – Hà Nội
TS Đỗ Kim Chung, Viện Nghiên cứu Kinh
tế nông nghiệp nay là Viện Nghiên cứu
Chính sách và Chiến lược Phát triển nông
nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn
TS Cao Đức Phát, Thứ trưởng (trước đây),
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Hà Nội
Ông Nguyễn Phượng Vỹ, Vụ trưởng Vụ
Chính sách Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
TS Vũ Hy Chương, Vụ phó Vụ Quản lý
nghiên cứu Khoa học, Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường
GS Chu Hữu Quý, Nguyên Viện trưởng,
Viện Nghiên cứu Kinh tế nông nghiệp, Hà
Nội
TS Ray Trewin, Trung tâm Nghiên cứu
Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia
(ACIAR), Canberra
GS Gordon MacAulay, Trưởng Dự án
(phía Ôx-trây-lia), Đại học Sydney
TS Sushin Pandey, Nhà kinh tế cao cấp,
IRRI, Los Banos, Phi-lip-pin
Quản lý Chương trình của ACIAR
TS Ray Trewin, TS Donna Brennan và TS
Padma Lal, ACIAR, Canberra.
11From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Ông T. Gordon MacAulay là giáo sư
trong nhóm môn học kinh tế nông nghiệp
và tài nguyên tại Đại học Sydney và là
Trưởng dự án ACIAR ADP 1/1997/092.
GS MacAulay đã tham gia hợp tác và giảng
dạy với Trường Đại học Nông nghiệp I từ
năm 1996.
Email: g.macaulay@usyd.edu.au
Ông Phạm Văn Hùng là giảng viên chính
Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn,
Trường Đại học Nông nghiệp I và là thành
viên nghiên cứu của Dự án. Từ năm 2001
đến 2005, Ông Hùng làm nghiên cứu sinh
ngành kinh tế nông nghiệp tại Đại học
Sydney dưới sự tài trợ của học bổng John
Allright của ACIAR.
Email: pvhung@hau1.edu.vn và
pvhung.hau@vnn.vn
TẬP THỂ TÁC GIẢ
Bà Sally P. Marsh là nghiên cứu viên hợp
đồng của nhóm môn học kinh tế nông
nghiệp và tài nguyên tại Đại học Sydney
trong thời gian thực hiện của Dự án
ACIAR ADP 1/1997/092. Từ tháng 3/2001
đến 5/2004, bà Sally sang Trường Đại học
Nông nghiệp I làm việc. Bà Sally hiện nay
là nghiên cứu viên chính của Khoa Kinh
tế Nông nghiệp và Tài nguyên tại Đại học
Tây Ôx-trây-lia.
Email: spmarsh@cyllene.uwa.edu.au
Ông Tô Dũng Tiến là giáo sư Khoa Kinh
tế và Phát triển nông thôn, Trường Đại
học Nông nghiệp I và là Trưởng dự án
phía Việt Nam của Dự án ACIAR ADP
1/1997/092. Khi dự án mới bắt đầu, GS
Tiến là Trưởng Khoa, Khoa Kinh tế và
Phát triển nông thôn, Trường Đại học
Nông nghiệp I.
12 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Ông Đỗ Kim Chung là phó giáo sư Khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn, Trường
Đại học Nông nghiệp I và là thành viên
của Dự án. TS Chung có bằng PhD tại
Viện Công nghệ châu Á (AIT), Thái Lan
và có rất nhiều nghiên cứu về những vấn
đề chính sách đất đai ở Việt Nam. TS
Chung là người đặt nền móng ban đầu
cho việc xây dựng Dự án và trong giai
đoạn 2001-2004, TS Chung là Quyền Viện
trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế nông
nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triên nông thôn.
Email: dokimchung@fpt.vn
Ông Lê Hữu Ảnh là phó giáo sư Khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn, Trường
Đại học Nông nghiệp I và là thành viên
của Dự án. TS Ảnh lấy bằng tiến sỹ tại
Trường Đại học Nông nghiệp I. TS Ảnh
hiện là Phó trưởng Khoa Sau đại học,
Trường Đại học Nông nghiệp I.
Email: lehuuanh97@yahoo.com
Cô Nguyễn Phượng Lê là giảng viên Khoa
Kinh tế và Phát triển nông thôn, Trường
Đại học Nông nghiệp I và là thành viên
của Dự án. Cô Lê có bằng thạc sỹ tại
Trường Đại học Nông nghiệp I và hiện nay
đang làm nghiên cứu sinh tại Chiang Mai,
Thái Lan.
Email: dungle@fpt.vn
Ông Nguyễn Trọng Đắc là Trưởng Bộ
môn Phát triển nông thôn, Khoa Kinh tế
và Phát triển nông thôn, Trường Đại học
Nông nghiệp I và là thành viên của Dự án.
Ông Nguyễn Huy Cường là giảng viên
chính, Khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, Trường Đại học Nông nghiệp I và là
Phó trưởng Phòng Tổ chức cán bộ, Trường
Đại học Nông nghiệp I và đồngthời cũng
là thành viên của Dự án. Trong năm 2002,
Ông Cường là thực tập sinh khoảng 3
tháng tại nhóm môn học kinh tế nông
nghiệp và tài nguyên, Đại học Sydney.
Email: nh_cuong@yahoo.com
Ông Nguyễn Quốc Chỉnh là giảng viên
chính, Khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, Trường Đại học Nông nghiệp I và là
thành viên của Dự án. TS Chỉnh có bằng
PhD chuyên ngành kinh tế nông nghiệp
tại Đại học Los Banos, Phi-lip-pin.
Email: nqchinh@yahoo.com
Bà Thaveeporn Vasavakul là nghiên cứu
viên ngắn hạn của Viện Nghiên cứu an
toàn và quốc tế, Đại học Chulalongkorn,
Thái Lan. TS Vasavakul cũng hợp tác làm
việc với Trung tâm Nghiên cứu tiếng Việt
trực thuộc Đại học Quốc gia, Hà Nội.
TS Vasavakul nói rất thạo tiếng Việt và
đã tham gia công việc tư vấn cho Dự án
ACIAR ADP 1/1997/092 trong đó tiến
sỹ đã phỏng vấn một số nhà hoạch định
chính sách của Việt Nam về các vấn đề
liên quan đến chính sách đất đai.
Email: thaveeporn@netnam.vn
1From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Chương 1
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ CHÍNH
SÁCH ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM: TỔNG QUAN
VÀ TIẾP CẬN VỀ LÝ THUYẾT
T. Gordon MacAulay, Sally P. Marsh và Phạm Văn Hùng
Đất đai là một nguồn lực quan trọng nhất của Việt Nam. Sự phát triển của nông nghiệp
Việt Nam trong thời gian dài phụ thuộc vào sự sử dụng có hiệu quả hay không nguồn
lực đất đai và những chính sách có liên quan đến đất đai, thị trường đất đai, các đầu
vào và nguồn lực tương ứng. Với khoảng 75% dân số vẫn còn sinh sống ở khu vực nông
thôn thì các vấn đề liên quan đến tập trung đất đai, tính linh hoạt trong sử dụng đất đai,
vai trò của thay đổi kỹ thuật, công nghệ hay như ảnh hưởng của các chính sách thuế và
tín dụng luôn là những vấn đề thời sự và quan trọng. Để phát triển tương xứng với các
ngành kinh tế khác, những sự thay đổi lớn trong cấu trúc hay sở hữu (quyền sử dụng)
đất đai dường như sẽ là một đòi hỏi bức thiết trong tương lai. Trong chương này, những
kết quả từ Dự án về chính sách sử dụng đất ở Việt Nam được tài trợ bởi Trung tâm
Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia (ACIAR) được phân tích dưới góc độ
lý thuyết. Các nội dung chủ yếu được đề cập là quy mô đất đai của hộ; thu nhập của hộ;
ảnh hưởng của diện tích từng thửa và số mảnh; sự trao đổi, mua bán các quyền sử dụng
đất; các chi phí giao dịch cho việc chuyển nhượng đất đai; vấn đề sử dụng tín dụng; định
giá đầu vào và sản phẩm đầu ra và tính linh hoạt trong việc sử dụng đất đai. Các đề xuất
được đưa ra liên quan đến định hướng của chính sách.
1 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
Giới thiệu
Tháng 12 năm 1986 tại Đại hội Đảng lần thứ
VI đã đưa ra một loạt những cải cách được
biết đến như là một công cuộc đổi mới và đã
thừa nhận một số sai lầm trong thời kỳ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung. Đại hội cũng đã đưa
ra định hướng để từng bước xoá bỏ những
sai lầm và hướng tới sự tự do hoá nền kinh
tế. Việt Nam đã trải qua gần 20 năm kế từ khi
chính sách đổi mới được ban hành. Mặc dù
có một số bước thụt lùi và tăng trưởng chậm
vào cuối những năm 1990 nhưng hiện nay nền
kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh,
đứng thứ hai chỉ sau Trung Quốc trong khu
vực các nước Đông Nam Á (Ngân hàng thế
giới 2001a) và được xem là một quốc gia thành
công trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường (Bộ phận phân tích Đông Á 1997; Liên
hợp quốc 1999; Ngân hàng thế giới 2003). Việc
thực hiện một loạt các cải cách căn bản năm
2000 bao gồm Luật Doanh nghiệp mới; Luật
Đầu tư nước ngoài sửa đổi và việc ký kết Hiệp
định thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam vào năm 2000 (thực hiện năm 2001)
là những bằng chứng cho thấy môi trường đầu
tư đã được cải thiện. Điều này cho phép Việt
Nam có được tăng trưởng kinh tế nhanh trong
những năm gần đây. Thêm vào đó, một loạt
các chỉ số xã hội đã minh hoạ cho những cải
thiện đáng kể trong đời sống con người Việt
Nam (Ngân hàng Phát triển Á Châu và cộng
sự 2004).
Phát triển nông nghiệp, thông qua việc cải
cách đất đai, thay đổi công nghệ và phát triển
thị trường, được nhìn nhận đó là một yêu cầu
rất quan trọng đối với các nước đang phát
triển và cũng được nhìn nhận như những mắt
xích quan trọng với các chính sách kinh tế vĩ
mô và tăng khả năng của môi trường thể chế.
Kế từ sau chính sách đổi mới được ban hành,
nông nghiệp Việt Nam cũng đã thích ứng với
môi trường cải cách đó. Thành công dễ nhận
biết nhất và cũng được đăng tải nhiều nhất là
sự tăng trưởng nhanh chóng trong sản xuất
lúa gạo, Việt Nam đã trở thành quốc gia đứng
thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới, sau Thái
Lan. Bên cạnh đó Việt Nam cũng trở thành
nước xuất khẩu lớn trên thị trường thế giới về
cà phê, hạt tiêu, điều và hải sản. Kim ngạch
xuất khẩu từ nông nghiệp và thuỷ sản đã
liên tục tăng từ năm 1990 cho đến nay. Nông
nghiệp Việt Nam hiện nay đa dạng hơn; các
tiểu ngành như cây công nghiệp, rau các loại
và chăn nuôi đã phát triển rất nhanh và đã đáp
ứng được nhu cầu trong nước. Trong quá trình
cải cách, nội lực của hộ nông dân đã được cải
thiện và công nghệ mới đã được áp dụng rộng
rãi hơn.
Những thành tựu trong nông nghiệp đã được
nhìn nhận và là kết quả của quá trình cải cách
của chính sách đất đai bắt đầu từ năm 1981.
Chính sách đất đai là một yếu tố quan trọng
trong phát triển kinh tế ở tất cả các nước và
đặc biệt ở các nước đang phát triển và các nền
kinh tế quá độ (Deininger 2003; Lermanet và
cộng sự 2002). Việt Nam với hơn 75% dân số
sống ở khu vực nông thôn, chính vì vậy đất
đai và các chính sách liên quan đến đất đai có
tác động trực tiếp đến đời sống của người dân
thông qua những ảnh hưởng đến việc sở hữu
đất đai; quy mô và sự manh mún ruộng đất; sử
dụng đất; thị trường tín dụng và thị trường đất
đai; thị trường các yếu tố đầu vào và sản phẩm
đầu ra và phát triển công nghệ.
Nội dung của chương này là những kết quả
nghiên cứu từ Dự án về phân tích những thay
đổi trong chính sách đất đai ở Việt Nam và
1From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
được tài trợ bởi Trung tâm Nghiên cứu Nông
nghiệp Quốc tế của Ôx-trây-lia (ACIAR).
Những kết quả này được phân tích dưới góc
độ lý thuyết. Mục đích chính của Dự án đó là
đóng góp vào sự hiểu biết những chính sách
cần thiết để nâng cao thu nhập, năng lực kinh
tế cho người dân ở nông thôn Việt Nam. Điều
này được thực hiện thông qua một loạt các
phương pháp phân tích và mô hình kinh tế
khác nhau với một số yếu tố chính trong sử
dụng đất đai. Những thông tin và số liệu cần
thiết cho phân tích được thu thập thông qua
các cuộc điều tra hộ ở 4 tỉnh. Các số liệu đã
thu thập liên quan đến quy mô đất đai của
hộ; thu nhập của hộ; ảnh hưởng của diện tích
từng thửa và số mảnh; sự trao đổi, mua bán
và sự áp dụng các quyền sử dụng đất; các chi
phí giao dịch cho việc chuyển nhượng đất đai;
vấn đề sử dụng tín dụng; định giá đầu vào và
sản phẩm đầu ra và tính linh hoạt trong việc
sử dụng đất.
Việt Nam là một nước đang trong quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang
nền kinh tế thị trường. Chuyển đổi không chỉ
đơn thuần là sự chấp nhận hay sửa đổi một
vài chính sách hay một vài chương trình mà
là quá trình chuyển đổi phương thức tổ chức
kinh tế sang một kiểu mới hoàn thiện hơn
(Ngân hàng thế giới 1996). Trong quá trình
này sự xem xét trên các khía cạnh lịch sử, địa
lý và văn hoá trở nên quan trọng vì chúng tác
động không chỉ đến những cái có thể được
thực hiện mà còn tác động đến việc làm thế
nào để những thay đổi diễn ra nhanh chóng
hơn. Sự phát triển lâu dài của nền nông nghiệp
Việt Nam phụ thuộc vào hiệu quả và hiệu lực
của việc sử dụng diện tích đất đai hạn hẹp;
trong khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đất
nằm trong một bối cảnh lịch sử, chính trị và
xã hội phức tạp.
Chính sách đất đai ở Việt
Nam: bối cảnh lịch sử phát
triển và những thay đổi
gần đây
Sở hữu đất đai ỏ Việt Nam: 1945-1981
Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và lịch
sử phát triển kinh tế của Việt Nam có mối
quan hệ chặt chẽ với các vấn đề về sử dụng đất
đai. Những mâu thuẫn trong chính sách đất
đai (vấn đề tiếp cận đất đai, sở hữu và sử dụng
đất đai) đã diễn ra trong suốt thời kỳ thuộc địa
của thực dân Pháp; trong thời kỳ chiến tranh
chống Mỹ và các chính sách của Chính phủ từ
sau ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Trước ngày khai sinh nước Việt Nam độc lập
(năm 1945), đất nông nghiệp được phân chia
thành 2 loại chính: Đất sở hữu cộng đồng và
đất tư hữu. Khu vực nông thôn được phân chia
làm 2 tầng lớp dựa trên tính chất sở hữu của
đất đai: Địa chủ và tá điền. Tầng lớp địa chủ
chiếm khoảng 2% tổng dân số nhưng chiếm
hữu trên 50% tổng diện tích đất, trong khi đó
59% hộ nông dân là tá điền không đất và đi
làm thuê cho tầng lớp địa chủ (Cúc 1995).
Sau năm 1945, Chính phủ mới đề xuất những
thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế,
bao gồm cả chính sách nông nghiệp. Trong
giai đoạn đầu, tính đến khoảng năm 1952,
Chính phủ đã thực hiện phân chia lại ruộng
đất và giảm bớt thuế cho nông dân nghèo và tá
điền. Sau khi kết thúc chiến tranh với thực dân
Pháp (năm 1954), miền Bắc thực hiện Chương
trình cải cách ruộng đất cơ bản. Mục đích là
để công hữu hoá ruộng đất của địa chủ người
Việt và người Pháp và tiến hành phân chia lại
cho hộ nông dân ít đất hoặc không có đất với
khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Và kết quả là
1 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
khoảng ¼ diện tích ruộng đất được phân chia
lại cho người nông dân với mục tiêu công bằng
dù ít dù nhiều, đem lại lợi ích cho khoảng 73%
người dân ở nông thôn (Cúc 1995; Kerkvliet
2000; Pingali & Xuân 1992).
Giai đoạn tiếp theo của chính sách cải cách
ruộng đất đó là miền Bắc bước sang giai đoạn
sở hữu tập thể đất nông nghiệp dưới hình thức
hợp tác xã từng khâu (bậc thấp) và hợp tác xã
toàn phần (bậc cao). Đến năm 1960, khoảng
86% hộ nông dân và 68% tổng diện tích đất
nông nghiệp đã vào hợp tác xã bậc thấp. Trong
hợp tác xã này người nông dân vẫn sở hữu đất
đai và tư liệu sản xuất. Ở hình thức hợp tác
xã bậc cao, nông dân góp chung đất đai và các
tư liệu sản xuất khác (trâu, bò, gia súc và các
công cụ khác) vào hợp tác xã dưới sự quản lý
chung. Từ năm 1961 đến năm 1975 có khoảng
20.000 hợp tác xã bậc cao ra đời với sự tham
gia của khoảng 80% hộ nông dân (Cúc 1995;
Pingali và Xuân 1992; Nakachi 2001).
Ở miền Nam, Chính phủ của chính quyền Sài
Gòn cũ thực hiện Chương trình cải cách điền
địa dưới một hình thức khác, thông qua việc
quản lý thuê đất; quy định về mức hạn điền
(năm 1956) và Chương trình phân chia lại đất
đai (năm 1970). Kết quả là khoảng 1,3 triệu
hecta đất nông nghiệp được phân chia lại cho
hơn 1 triệu hộ nông dân vào năm 1970, và quá
trình này được biết đến với khẩu hiệu “ruộng
đất về tay người cày” và hoàn thành vào cuối
năm 1974 (Pingali và Xuân 1992).
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Chính
phủ Việt Nam tiếp tục phát triển xa hơn nữa
theo hướng tập thể hoá. Ở miền Bắc các hợp
tác xã (HTX) nông nghiệp mở rộng quy mô từ
HTX toàn thôn đến HTX toàn xã. Ở miền Nam,
nông dân vẫn được phép hoạt động dưới hình
thức thị trường tự do đến tận năm 1977-78 sau
đó cũng từng bước đi theo hướng tập thể hoá.
Kết quả thực hiện mô hình kinh tế tập thế khác
nhau ở các vùng, cụ thể ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long, chỉ có không đến 6% số hộ nông dân
tham gia HTX nông nghiệp (Pingali và Xuân
1992). Khác với miền Bắc, ở miền Nam hộ nông
dân vẫn là đơn vị sản xuất cơ bản mặc dù họ
tham gia HTX nông nghiệp. Họ sử dụng chung
lao động và các nguồn lực sản xuất nhưng họ
tự quyết định trong vấn đề sử dụng các đầu vào
sản xuất và áp dụng công nghệ.
Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói
chung và nông nghiệp nói riêng phải gánh
chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến
tranh để lại và những hậu quả từ những chính
sách trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và thời kỳ kinh tế tập thể trong nông
nghiệp. Trong thời kỳ sở hữu tập thể trong
nông nghiệp, sản xuất giảm do người nông
dân thiếu động cơ làm việc, sản lượng nông
nghiệp tăng hàng năm ở mức rất thấp 2%
(Bảng 1). Cùng thời điểm này dân số tăng rất
nhanh (2,2-2,35%/ năm) đã dẫn đến việc phải
nhập khẩu bình quân hơn một triệu tấn lương
thực mỗi năm trong suốt thời kỳ sau chiến
tranh. Điều đó đã dẫn đến một bộ phận lớn
dân số sống trong tình trạng nghèo và đói.
Cải cách ruộng đất giai đoạn
1981-1988
Cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp bắt đầu
bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng hay còn gọi là Khoán 100. Dưới chính
sách Khoán 100, các HTX giao đất nông
nghiệp đến nhóm và người lao động. Những
người này có trách nhiệm trong ba khâu của
quá trình sản xuất. Sản xuất vẫn dưới sự quản
lý của HTX, cuối vụ hộ nông dân được trả thu
nhập bằng thóc dựa trên sản lượng sản xuất
ra và ngày công đóng góp trong 3 khâu của
1From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
quá trình sản xuất. Đất đai vẫn thuộc sở hữu
của Nhà nước và dưới sự quản lý của HTX.
Mặc dù còn đơn giản nhưng Khoán 100 đã trở
thành bước đột phá trong quá trình hướng tới
nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của Khoán
100 đã có những ảnh hưởng đáng kể đến sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với sản xuất
lúa gạo, tăng 6,3%/năm trong suốt giai đoạn
1981-1985. Tuy nhiên, sau năm 1985, tăng
trưởng trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu
giảm, cụ thể tốc độ tăng trưởng của tổng sản
lượng nông nghiệp trong giai đoạn 1986-88
chỉ là 2,2%/năm. Đầu năm 1988, sản xuất
lương thực không đáp ứng được cầu dẫn đến
sự thiếu ăn ở 21 tỉnh, thành trên miền Bắc.
Ở miền Nam một loạt các mâu thuẫn cũng
gia tăng trong khu vực nông thôn, đặc biệt là
mối quan hệ đất đai bởi sự “cào bằng” về phân
chia và điều chỉnh đất đai (Cúc 1995; Hùng và
Murata 2001; Pingali và Xuân 1992). Điều này
hiển nhiên đặt ra yêu cầu một cuộc cải cách
mới trong chính sách đất đai.
Để giải quyết các vấn đề trên, chính sách đổi
mới trong nông nghiệp đã được thực hiện theo
tinh thần của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
vào tháng 4 năm 1988. Với sự ra đời của Nghị
quyết 10 thường được biết đến với tên Khoán
10, người nông dân được giao đất nông nghiệp
sử dụng từ 10-15 năm và lần đầu tiên hộ nông
dân được thừa nhận như một đơn vị kinh tế tự
chủ trong nông nghiệp. Bắt đầu từ thời kỳ này,
các tư liệu sản xuất (máy móc, trâu, bò, gia súc
và công cụ khác) được sở hữu dưới hình thức
cá thể. Một khía cạnh khác của chính sách này
đó là người nông dân ở miền Nam được giao
lại đất họ đã sở hữu trước năm 1975 (Bộ Nông
nghiệp và PTNT 2000; Pingali & Xuân 1992).
Tuy nhiên, cùng với Khoán 10 chưa có luật
tương ứng dẫn đến một số quyền sử dụng đất
như cho hoặc thừa kế chưa được luật pháp hóa
và thừa nhận (Nakachi 2001). Một loạt các vấn
đề khác nảy sinh liên quan đến sản xuất chẳng
hạn như trạm điện, hệ thống giao thông nông
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và sản lượng một số cây trồng chủ yếu (%)
Thời kỳ Tổng sản
lượng nông
nghiệp a
Lúa Mía Đậu
tương
Chè Cà
phê
Cao su
1976–80 2,0 –0,4 9,9 11,6 5,1 8,8 0,6
1981–85 5,5 6,3 8,8 9,5 7,4 23,4 2,4
1986–88 2,2 3,1 7,1 0,4 –0,4 29,0 –0,3
1989–93 4,8 4,7 3,3 6,6 5,7 35,1 17,6
1994–99 6,7 5,9 18,2 3,0 9,0 22,0 14,1
2000–03 4,6 2,4 1,8 11,8 11,7 8,7 6,2
1981–88 (TB) 4,5 4,6 5,3 6,5 5,0 28,9 1,9
1989–2003 (TB) 5,4 4,4 8,4 7,5 7,9 23,3 14,6
a Với giá cố định năm 1994.
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, 2000, 2001, và 2004.
1 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
thôn, thị trường,… mà trước đây thuộc trách
nhiệm quản lý của các HTX nông nghiệp (Cúc
1995). Để giải quyết các vấn đề này Luật Đất
đai đã ra đời năm 1993.
Sự phát triển của cải cách ruộng
đất sau đổi mới
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính
sách và văn bản luật trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn, đặc biệt liên quan đến
sử dụng đất đai đã ra đời. Những chính sách
quan trọng nhất là Luật Đất đai năm 1993, sau
đó là Luật Đất đai sửa, đổi bổ sung năm 1998
và 2001; Luật Đất đai mới năm 2003; Nghị
định 64/CP năm 1993 và Nghị định 02/CP
năm 1994 về quy định trong phân bố đất rừng
và đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng có một
loạt các chính sách liên quan trực tiếp hoặc hỗ
trợ gián tiếp đến vấn đề về đất đai.
Theo Luật Đất đai 1993, hộ nông dân được giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài với 5 quyền
- quyền chuyển nhượng, quyển chuyển đổi,
quyền cho thuê, quyền thừa kế và quyền thế
chấp. Người có nhu cầu sử dụng được giao đất
trong thời hạn 20 năm đối với cây hàng năm và
ngư nghiệp, 50 năm đối với cây lâu năm. Việc
giao đất sẽ được tiến hành lại tại thời điểm cuối
chu kỳ giao đất nếu như người sử dụng đất
vẫn có nhu cầu sử dụng. Luật Đất đai cũng quy
định mức hạn điền đối với hộ nông dân, cụ thể
đối với cây hàng năm là 2 hecta ở miền Bắc và
các tỉnh miền Trung; 3 hecta đối với các tỉnh
phía Nam; đối với cây lâu năm quy định tối đa
là 10 hecta đối với các xã vùng đồng bằng và 30
hecta đối với vùng trung du và miền núi (Bộ
Nông nghiệp & PTNT 2000).
Cùng với việc giao đất cho các hộ nông dân thì
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng được
các cơ quan chức năng xem xét và cấp cho các
nông hộ. Đến năm 1998, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (LUCs) đã được cấp cho 71% hộ
nông dân, cuối năm 2000 con số này là trên 90%
(Do & Iyer 2003). Đối với đất rừng ở khu vực
trung du và miền núi nơi có rất nhiều phong
tục tập quán thì việc giao đất phức tạp hơn, quá
trình cấp giấy chứng nhận diễn ra chậm hơn
(Bộ Nông nghiệp & PTNT 2002a; Vỹ 2002) và
quá trình này vẫn đang được tiếp tục.
Vào năm 1998, người nông dân được giao thêm
2 quyền sử dụng nữa đó là quyền cho thuê lại
và quyền được góp vốn đầu tư kinh doanh bằng
đất đai. Năm 2001, những sửa đổi bổ sung Luật
Đất đai năm 1993 cho phép người sử dụng
được tặng đất đai cho họ hàng, bạn bè của họ
và được đền bù nếu bị thu hồi. Sự bổ sung này
cũng đưa ra một loạt các thay đổi liên quan đến
đất đai và thay đổi trong thủ tục đang ký đất
đai. Luật Đất đai mới ra đời thay thế cho Luật
Đất đai năm 1993 và các sửa đổi bổ sung của
Luật đất đai được ban hành vào tháng 12 năm
2003 và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2004. Đối
với đất nông nghiệp không có sự thay đổi về
thời hạn sử dụng và diện tích hạn điền so với
Luật Đất đai năm 1993. Tuy nhiên, lần đầu tiên
đất đai được chính thức xem như là “hàng hoá
đặc biệt’ có giá trị và chính vì thế có thế chuyển
nhượng (thương mại). Luật Đất đai mới vẫn
khẳng định “đất đai là tài sản của Nhà nước” và
cũng cho rằng cần có sự khuyến khích đối với
thị trường bất động sản bao gồm thị trường các
quyền sử dụng đất đối với khu vực thành thị.
Cá nhân (người nông dân) và các tổ chức kinh
tế được quyền tham gia vào thị trường này.
Những thay đổi trong chính sách đất đai của
Việt Nam từ năm 1981 đến nay đã góp phần
đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông
nghiệp và phát triển khu vực nông thôn. Tổng
sản lượng nông nghiệp tăng 6,7%/năm trong
suốt giai đoạn 1994-99 và khoảng 4,6% trong
giai đoạn 2000-2003. An toàn lương thực quốc
1From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
gia không còn là vấn đề nghiêm trọng nữa và
nghèo đói đang từng bước được đẩy lùi. Tuy
nhiên, rất nhiều thách thức đặt ra đối với nông
nghiệp Việt Nam như giá cả sản phẩm nông
nghiệp giảm, cạnh tranh tăng cao khi Việt Nam
hội nhập kinh tế toàn cầu thông qua Hiệp định
tự do thương mại các nước ASEAN (AFTA) và
gia nhập WTO, và tốc độ tăng trưởng của sản
xuất nông nghiệp đang có xu hướng chậm dần.
Hơn nữa, nông dân Việt Nam vẫn còn tương
đối nghèo và một tỷ lệ cao dân số vẫn sống dựa
vào nông nghiệp là chủ yếu và họ đang sống ở
khu vực nông thôn. Điều này sẽ gây ra sức ép
lớn đối với khu vực nông thôn và nhu cầu về
tiếp tục cải cách các chính sách là tất yếu.
Liên quan đến đất đai, Nhà nước đang nỗ lực
hoàn thành việc giao đất (rừng) và hoàn thành
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, những vấn đề liên quan đến đền bù
đất đai và xu hướng quyền sử dụng đất được
giao sở hữu ổn định và lâu dài đang là áp lực
cần phải xem xét. Nhà nước giao quyền sử
dụng đất lâu dài cho người nông dân để họ
yên tâm trong sản xuất và Nhà nước cũng
khuyến khích nông dân coi đất đai như tài sản
sở hữu riêng của mình. Tuy nhiên, đất đai vẫn
thuộc sở hữu Nhà nước.
Quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam từ
Luật Đất đai năm 1993 đến 2003
Các chính sách đất đai liên quan đến việc giao
đất và các quyền cho người sử dụng đất (một vài
quyền như sở hữu tư nhân) cho phép sự phát
triển của thị trường đất đai. Điều đó đã mang
lại hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực trong
điều kiện hiện nay. Bởi các quyền sử dụng đất
được xác định rõ ràng và các quyền này có thể
thực hiện được là một trong những điều kiện
cần thiết. Hiệu quả phân bổ các nguồn lực phụ
thuộc vào môi trường tự nhiên của các quyền
sở hữu hiện nay (Perman và các cộng sự 1999).
Theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam, đất
đai là tài sản của toàn dân và Nhà nước thống
nhất quản lý với tư cách người đại diện. Luật
Đất đai mới năm 2003 thừa nhận rằng Chính
phủ là “đại diện cho sở hữu toàn dân”. Chính
vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không
thể chuyển quyền sở hữu cho từng cá nhân
(hay tổ chức) mặc dù cá nhân hay tổ chức đó
(có thể là người nước ngoài – Việt Kiều) có thể
sở hữu hoặc chuyển nhượng tài sản trên đất, ví
dụ như nhà cửa được xây dựng trên thửa đất
đó. Các cá nhân (trừ người nước ngoài), hộ
nông dân và các tổ chức có thể sử dụng hoặc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Những chính sách cải cách đất đai vào năm
1993 với mục đích giúp người nông dân có
được sự đảm bảo trong việc sử dụng đất thông
qua việc giao đất nông nghiệp sử dụng ổn định,
lâu dài và và cung cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Tuy nhiên, thời hạn giao đất vẫn
còn ngắn và vẫn chưa được thay đổi trong Luật
Đất đai mới năm 2003. Điều này có thể khiến
người dân chưa yên tâm trong việc đầu tư dài
hạn trong nông nghiệp. Thêm vào đó, tính linh
hoạt trong sử dụng đất vẫn bị ràng buộc, cá biệt
là sự chuyển đổi sang các loại cây trồng khác
trên diện tích đất lúa truyền thống.
Bằng việc tăng tính đảm bảo chắc chắn cho
người sử dụng đất; tạo điều kiện thuận lợi
trong việc tiếp cận với các nguồn tín dụng
thông qua việc cho phép họ có quyền thế chấp
quyền sử dụng đất và các quyền sử dụng đất
được xem xét như những mặt hàng có thể đem
ra kinh doanh. Luật Đất đai năm 1993 đã tạo
cơ sở cho thị trường đất đai của Việt Nam (Do
& Iyer 2003). Tuy nhiên, như một vài nơi trên
thế giới, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
Việt Nam không nằm ngoài những ràng buộc
và yêu cầu của luật pháp. Khả năng chuyển
nhượng, cho thuê, chuyển đổi, thế chấp hay
20 From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
thừa kế quyền sử dụng đất thay đổi tuỳ theo
từng loại đất, người sử dụng đất và loại quyền
sử dụng đất (Bộ phận phân tích Đông Á 1997).
Trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
người chuyển nhượng phải trả thuế và người
được chuyển nhượng trả lệ phí đăng ký. Tương
tự như vậy, các điều kiện này cũng được áp
dụng đối với hình thức cho thuê quyền sử
dụng đất. Hộ nông dân có thể đem cho thuê
quyền sử dụng đất trong trường hợp gia đình
nghèo đói hoặc họ có nghề nghiệp khác hay
họ thiếu khả năng đầu tư trên đất đai. Những
hạn chế liên quan đến giao dịch đất đai được
đề cập kỹ hơn trong bài viết của Marsh và
MacAulay (2002). Một hạn chế nữa đối với thị
trường đất đai đó là giá tiền thuê đất và giá trị
chuyển nhượng không phản ánh giá trị thực
của đất đai trên thị trường, nó được xác định
trong khung định giá của Chính phủ mặc dù
hiện nay Luật Đất đai mới 2003 đã nêu khung
giá đất nên gần sát với mức giá thị trường.
Việt Nam là một nước đông dân và quỹ đất có
hạn, chính vì vậy giá trị của đất đai là rất lớn
và các quyền sử dụng đất giữ vai trò rất quan
trọng. Những quyền này có ý nghĩa trong việc
cải thiện sự phát triển của khu vực tư nhân
nhưng nảy sinh một số vấn đề về mặt ý thức
hệ (AusAID 2001; Bộ phận phân tích Đông
Á 1997; Fforde 1995). Bên cạnh đó cũng có
những tranh luận liên quan đến việc nên có
hay không một thị trường đất đai không còn
ràng buộc trong một chừng mực nào đó. Cũng
giống như vậy, các quyền sử dụng đất cũng
nên được áp dụng trong một thời gian dài hơn
và có thể thực hiện với ít hơn các luật lệ và
ràng buộc. Khi đó chúng sẽ gần giống với khái
niệm đất đai thuộc sở hữu tư nhân như ở một
số nước phương tây. Việc giao đất với thời hạn
dài hơn chắc chắn sẽ đem lại một số lợi ích,
đặc biệt là sử dụng và đầu tư hiệu quả hơn.
Những yếu tố chính trong
nông nghiệp Việt Nam
liên quan tới chính sách
đất đai
Lao động
Việt Nam với diện tích đất nhỏ hẹp và dân số
đông và tăng trưởng nhanh ở khu vực nông
thôn đã gây ra sức ép lớn về dân số trong mối
quan hệ với đất đai. Kết quả của những chính
sách cải cách kinh tế, tỷ lệ phần trăm GDP
từ nông nghiệp đang giảm đều qua các năm
(Tổng cục Thống kê 2002, 2004). Tuy nhiên,
tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn còn
chiếm tỷ lệ cao, chỉ giảm từ 71% năm 1993
xuống còn 66% năm 1998 (Ngân hàng thế giới
2000). Những năm gần đây thành phần lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp đã có nhiều
thay đổi. Từ năm 1998, tỷ lệ số người làm việc
chủ yếu trong nông nghiệp của hộ hay trang
trại của họ đã giảm từ 2/3 xuống còn dưới
½, rất nhiều người đã có việc làm trả lương,
ví dụ khoảng 30% năm 2002 so với 19% năm
1998 (Ngân hàng phát triển Á Châu và cộng
sự 2004).
Mặc dù tỷ lệ tham gia thị trường lao động của
Việt Nam là một trong những nước cao nhất
so với các nước trên thế giới (Ngân hàng phát
triển Á Châu và cộng sự 2004), ở khu vực nông
thôn vẫn còn nhiều thời điểm dư thừa lao
động cả thất nghiệp và bán thất nghiệp. Quy
mô nông hộ nhỏ cộng với việc số người làm
trong lĩnh vực nông nghiệp cao dẫn đến năng
suất lao động trong nông nghiệp thấp. Cơ hội
cho việc tăng năng suất lao động trong nông
nghiệp chỉ xuất hiện khi lao động chuyển bớt
ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện
nay đang có rất nhiều hạn chế đối với lao động
21From: Marsh S.P., T.G. MauAulay và Phạm Văn Hùng, 2007 Phát triển nông
nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam ACIAR Monograph No. 123a, 272p.
di cư hay di chuyển từ nông thôn ra thành thị.
Nhưng sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa
thành thị và nông thôn đã thu hút một bộ phận
lớn dân cư di chuyển ra khu vực thành phố
bất chấp các rào cản về quản lý Nhà nước và
những rào cản này có thể không đủ mạnh để
ngăn cản được luồng di dân này (Ngân hàng
phát triển Á Châu và cộng sự 2004).
Mặc dù tỷ lệ đăng ký học bậc tiểu học và
trung học cơ sở cao nhưng những kỹ năng
và trình độ giáo dục ở nông thôn vẫn còn rất
hạn chế. Số liệu điều tra nông hộ trong Dự
án ACIAR cho thấy rằng rất nhiều chủ hộ
chưa hoàn thành hết bậc tiểu học và rất nhiều
người không có cơ hội để tham gia các khoá
đào tạo từ các dịch vụ khuyến nông của Nhà
nước. Những dịch vụ này với nguồn lực hạn
hẹp và không thế tiếp cận được đến hết tất cả
các người dân ở từng làng, xã (Trần Thanh Bé
2004). Tỷ lệ đến trường cao nên trình độ học
vấn của bộ phận dân số trẻ cao hơn, từ những
năm 1990 có thể thấy được xu hướng ngày
càng tăng những người lao động quay trở lại
với trường học (Ngân hàng thế giới 2003). Tuy
nhiên, tỷ lệ đăng ký theo học bậc trung học
vẫn còn thấp trong bộ phận người nghèo vì
các chi phí trực tiếp và gián tiếp (Ngân hàng
phát triển Á Châu và cộng sự 2004). Bộ phận
người nghèo tập trung trong dân số nông thôn
nên trình độ học vấn ở khu vực này vẫn còn
rất thấp.
Nghèo đói
Nghèo đói ở Việt Nam được công nhận là
giảm một cách đáng kể và Việt Nam được
đánh giá là ‘một nước thành công nhất về xoá
đói giảm nghèo trong lịch sử phát triển kinh
tế’ (Ngân hàng phát triển Á Châu và cộng sự
2004, trang xi). Sử dụng cách tiếp cận tiêu
dùng và đường nghèo đói chuẩn quốc tế,
nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ dân số sống
trong tình trạng nghèo đói đã giảm từ 58%
năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và 29%
năm 2002. Cùng với việc giảm tỷ lệ nghèo đói,
các chỉ số xã hội cũng được cải thiện đáng kể,
như các chỉ tiêu tỷ lệ học sinh đến trường, tỷ lệ
sinh và tỷ lệ chết.
Tuy nhiên, vẫn còn có sự khác biệt trong xoá
đói giảm nghèo. Mặc dù, thu nhập từ nông
nghiệp có cải thiện nhưng nghèo đói vẫn đã
và đang tập trung nhiều ở khu vực nông thôn
(Ngân hàng phát triển Á Châu và cộng sự
2004); Liên hợp quốc 1999; Ngân hàng thế
giới 2000). Một loạt các vấn đề khác chẳng hạn
như tiêu dùng bình quân hộ ở khu vực thành
thị cao hơn bình quân hộ ở khu vực nông
thôn tới 78% (Ngân hàng phát triển Á Châu
và cộng sự 2004). Thêm vào đó rất nhiều hộ
ở nông thôn có mức thu nhập cao hơn đường
nghèo đói không nhiều và rất dễ bị “sốc thu
nhập” khi có các vấn đề xảy ra chẳng hạn như
ốm đau hoặc tai nạn; mất mùa; thất bại trong
đầu tư (gia súc chết…); sự giảm giá của một số
mặt hàng nông sản chủ yếu; cơ hội về việc làm
phi nông nghiệp thấp và không ổn định. Tất
cả những điều này có thể đẩy người nông dân
xuống dưới đường nghèo đói bất cứ lúc nào.
Các nghiên cứu cũng đã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MN123a.pdf