Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra
những thách thức, khó khăn đối với những nước
đi sau, chậm phát triển, song cũng tạo ra những
cơ hội để học tập kinh nghiệm trong phát triển
kinh tế xã hội nói chung và phát triển thị trường
khoa học và công nghệ nói riêng. Trên đây là
một số kinh nghiệm quốc tế và những hàm ý cho
Việt Nam trong phát triển thị trường khoa học
và công nghệ. Và rằng, dựa vào bối cảnh quốc
tế nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam phải có những nhận
thức đầy đủ về những thời cơ, thách thức trong
phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Đi
tắt, đón đầu trên cơ sở tận dụng những cơ hội
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuy vậy
cũng phải có lộ trình bước đi để phù hợp với
đặc điểm của nước ta. Trên cơ sở đảm bảo hài
hòa lợi ích của các chủ thể và yêu cầu phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển thị trường khoa học và công nghệ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Kinh nghiệm quốc tế và những hàm ý cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
54
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ NHỮNG HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Phạm Nguyễn Ngọc Anh*
TÓM TẮT
Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công
nghiệp 4.0) với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, robot, công
nghệ na-nô, công nghệ sinh học. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã góp phần tác động to lớn đến
phương thức sản xuất và phương pháp quản trị, nhờ đó mà đưa kinh tế tri thức, hoạt động sáng tạo
phát triển không ngừng. Trong bối cảnh đó, việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ trở
thành một giải pháp tiên phong cho mỗi quốc gia để hướng tới sự phát triển và phát triển bền vững.
Bài viết này, tiếp tục làm rõ nội hàm của khái niệm thị trường khoa học và công nghệ, phân tích các
yếu tố tạo thành và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến thị trường khoa học và công
nghệ; lược khảo một số bài học kinh nghiệm của thế giới để phát triển thị trường khoa học và công
nghệ trong bối cảnh mới; trên cơ sở đó chỉ ra một số gợi ý chính sách, giải pháp phát triển thị trường
khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Khoa học; công nghệ; thị trường khoa học và công nghệ; cách mạng công nghiệp 4.0
DEVELOPMENT OF THE SCIENTIFIC AND TECHNOLOGICAL MARKET
IN THE CONTEXT OF THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION:
INTERNATIONAL EXPERIENCE AND IMPROVEMENTS FOR VIETNAM
ABSTRACT
Today, the world is entering the Fourth Industrial Revolution (Industrial Revolution 4.0)
with the center being the development of artificial intelligence, internet connectivity, robotics,
nanotechnology, biotechnology. The industrial revolution 4.0 has greatly contributed to the way
production and management methods have led to the development of the knowledge economy and
innovative activities. In this context, the development of the science and technology market becomes a
pioneering solution for each country towards development and sustainable development. This paper,
further clarifying the implications of the science and technology market concept, analyzes the factors
that make up and impact the industrial revolution 4.0 to the science and technology market; review
some of the world’s lessons learned to develop the science and technology market in the new context;
On that basis, we have pointed out a number of policy suggestions and solutions to develop the
science and technology market in Vietnam.
Keywords: science; technology; science and technology market; industrial revolution 4.0
* TS. GV. Trường Đại học Ngô Quyền, Bộ Quốc phòng. Điện thoại: 0985.62.82.89;
Email: phamanh.ktct@gmail.com
55
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
1. BÀN VỀ KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỚC BỐI CẢNH
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN
THỨ TƯ
Khoa học và công nghệ là một bộ phận cấu
thành của lực lượng sản xuất, được kết tinh
trong con người, vật hóa trong tư liệu sản xuất
và biểu hiện ở các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Phát triển thị trường khoa học và công nghệ
là nhân tố góp phần nâng cao nĕng suất, chất
lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất vật chất,
tạo ra sự phát triển và phát triển bền vững của
đất nước. Thị trường khoa học và công nghệ là
một thị trường khá mới mẻ trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đó, nghiên cứu về thị trường khoa học
công nghệ cần chú ý đến nội hàm của các khái
niệm sau:
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì khái niệm Thị
trường nghĩa là: 1. Hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hóa nói chung; 2. Nơi thường xuyên tiêu thụ
hàng hóa1. Như vậy, điều kiện tiên quyết để tồn
tại thị trường là phải có hàng hóa để mua, bán,
trao đổi, nếu không có hàng hóa thì không tồn tại
thị trường. Nói cách khác, thị trường bao gồm 4
yếu tố cơ bản: có hàng hóa, theo nghiên cứu của
kinh tế chính trị học thì hàng hóa bao gồm hàng
hóa hữu hình (có hình dạng kích thước cụ thể như
là công cụ, phương tiện) và hàng hóa vô hình
(không có hình dạng kích thước cụ thể như các
tài sản trí tuệ); người bán (bên cung hàng hóa);
người mua (bên cầu hàng hóa); tập hợp các quy
định điều chỉnh hoạt động mua, bán.
Như đã trình bày, hiện nay thị trường khoa
học và công nghệ của Việt Nam là một loại thị
trường khá mới mẻ, hoạt động còn đơn điệu, đạt
hiệu quả chưa cao. Phương diện lý luận, các nhà
nghiên cứu vẫn đang tranh luận có hay không thị
trường khoa học và công nghệ. Theo Trần Vĕn
Hải (2012), ông tiếp cận dưới góc độ pháp luật
về sở hữu trí tuệ cho rằng khoa học không phải
là hàng hóa vì vậy sẽ không có thị trường khoa
học và công nghệ mà chỉ có thị trường công
nghệ. Trong khi đó với một số nghiên cứu của
Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
(2006); Hoàng Thúy (2007) có phân tích thuật
ngữ thị trường khoa học và công nghệ, đồng
nghĩa với việc thừa nhận có thị trường khoa học
và công nghệ. Các vĕn kiện, vĕn bản tài liệu mới
nhất của Đảng, Nhà nước cũng nói về thị trường
khoa học và công nghệ, như Vĕn kiện Đại hội
XII của Đảng (2016) có nhận định: “Thị trường
khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa
gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng
và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
quản lý”. Theo quan điểm của tác giả, khoa học
và công nghệ là hàng hóa nên tồn tại thị trường
khoa học và công nghệ. Về cơ bản thị trường
khoa học và công nghệ cũng giống như các thị
trường khác, được hình thành trên cơ sở ba điều
kiện sau: (i) Phải có hàng hoá, đây được coi
là điều kiện thiết yếu nhất cho thị trường hình
thành và phát triển và đương nhiên khoa học và
công nghệ chính là hàng hóa; (ii) Quan hệ mua
bán, tức là sự phân công lao động xã hội sao
cho xuất hiện mối quan hệ cung - cầu về hàng
hóa khoa học và công nghệ; (iii) Phải có phương
tiện thanh toán đáp ứng nhu cầu của người bán.
Dưới góc độ nghiên cứu của kinh tế chính trị
học thì có thể gọi thị trường khoa học và công
nghệ là một thị trường đặc biệt bởi tính đặc biệt
của hàng hóa khoa học và công nghệ. Khác với
các hàng hóa thông thường, hàng hóa khoa học
và công nghệ có những đặc trưng đặc biệt đó
là: hàng hóa khoa học và công nghệ thực chất
là những tri thức, kiến thức được thể hiện dưới
dạng một vật chất hữu hình như bằng sáng chế,
nhưng cũng có thể tồn tại dưới dạng vô hình như
là các ý tưởng công nghệ, nguyên tắc thị trường;
Việc xác định giá trị của hàng hóa khoa học và
1 Nguyễn Như Ý (chủ biên) 1998, Đại Từ điển tiếng Việt, NXB Vĕn hóa - Thông tin, Hà Nội.
56
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1 https://vi.wikipedia.org/wiki/Cach-mang-cong-nghiep-4.0
2 Giáo sư Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới
công nghệ là phức tạp vì lao động được kết tinh
trong hàng hóa khoa học và công nghệ là lao
động phức tạp, lao động trí óc, tồn tại sự bất đối
xứng thông tin giữa người bán và nguời mua.
Trong đó, thông thường trong trường hợp này,
người bán (nhà phát minh, sáng chế) ở vị thế
mặc cả kém hơn người mua; Hàng hoá khoa học
và công nghệ mang tính chất tác động ngoại lai
tích cực mà ở đó, lợi ích xã hội do hàng hoá đem
lại lớn hơn lợi ích cá nhân; So với các hàng hoá
khác, hàng hoá khoa học và công nghệ được sản
xuất và phát triển muộn hơn so với các hàng hoá
vật thể thông thường.
Vậy, Thị trường khoa học và công nghệ là
nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
các sản phẩm khoa học và công nghệ như: bản
quyền, ý tưởng kinh doanh, bí quyết, sáng kiến
và các dịch vụ liên quan đến hoạt động khoa học
và công nghệ.
Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, về cơ bản cuộc
cách mạng này dựa trên ba lĩnh vực chính: Lĩnh
vực Kỹ thuật số: Bao gồm dữ liệu lớn (Big Data),
vạn vật kết nối Internet (IoT), trí tuệ nhân tạo
(AI); Lĩnh vực Công nghệ sinh học: Ứng dụng
trong nông nghiệp, y dược, chế biến thực phẩm,
bảo vệ môi trường, nĕng lượng tái tạo, hóa học
và vật liệu; Lĩnh vực Vật lý: Robot thế hệ mới,
in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene,
skyrmions), công nghệ nano1. Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến
thị trường khoa học và công nghệ. Đó là, “sự
thay đổi cơ bản trong cách thức chúng ta tạo ra,
tiêu thụ và liên đới lẫn nhau, được dẫn dắt bởi
sự hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và
con người chúng ta”2. Tốc độ phát minh những
sản phẩm hàng hóa khoa học và công nghệ hiện
nay chưa từng có trong lịch sử. Khi so sánh với
các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, cuộc
cách mạng lần thứ tư đang phát triển theo hàm
số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn
nữa, nó đang phá vỡ cấu trúc của hầu hết các
ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Chiều rộng
và chiều sâu của những thay đổi này báo trước
sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống, quản lý và
quản trị. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trong
quá trình phát triển là việc thúc đẩy các nguồn
lực nhất là nguồn nhân lực bậc cao trong nắm
bắt, vận dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Bối cảnh này cũng
đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong phát
triển thị trường khoa học và công nghệ của mỗi
quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRONG BỐI CẢNH MỚI
Thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường
khác nhau cả về cấp độ và màu sắc. Điểm chung
của các mô hình này là đều thừa nhận thị trường
của các loại hàng hóa và dịch vụ trong đó có thị
trường khoa học và công nghệ. Nghiên cứu sự
phát triển thị trường khoa học và công nghệ của
một số nước trên thế giới có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm sau:
Một là, đổi mới cơ chế về quản lý và hoạt
động của các tổ chức nghiên cứu và phát triển.
Điển hình trong hoạt động này đó chính là Trung
Quốc, từ nĕm 1996 đến nay, Trung Quốc đã tiến
hành chuyển các viện nghiên cứu ứng dụng
thành các doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Khi đã trở thành doanh nghiệp trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ thì mọi hoạt động đều
tuân thủ theo các quy luật của thị trường. Các
tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc cung cấp dịch
vụ công cộng phi lợi nhuận vẫn có sự hỗ trợ của
Nhà nước, vẫn là đơn vị sự nghiệp hoặc nghiên
cứu phi lợi nhuận. Quá trình chuyển cơ chế đối
với các viện nghiên cứu và phát triển của Trung
57
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
Quốc đã có tác động tích cực trong việc gắn
nghiên cứu với sản xuất, huy động nhiều nguồn
kinh phí, đặc biệt từ sản xuất để phát triển khoa
học và công nghệ, tạo ra nhiều sản phẩm cho thị
trường khoa học và công nghệ. Thực hiện cơ chế
mới, hầu hết các viện đã xây dựng bộ phận thị
trường, các nhà khoa học đã tìm đến các doanh
nghiệp tìm hiểu nhu cầu đổi mới công nghệ và
xúc tiến hợp đồng. Các viện đều có các đơn vị
phát triển công nghệ để phục vụ giải quyết các
yêu cầu của sản xuất.
Hai là, hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức trung gian môi giới. Các tổ
chức này được hình thành nhằm tạo quan hệ, kết
nối cung - cầu, hỗ trợ cho các hoạt động chuyển
giao công nghệ được tiến hành nhanh hơn và có
hiệu quả hơn. Ở Đức, hình thái tổ chức của trung
tâm này rất đa dạng như: Trung tâm tư vấn;
Trung tâm thông tin; Trung tâm chuyển giao,
trình diễn công nghệ; Trung tâm hỗ trợ khởi lập
doanh nghiệp Trong đó:
Trung tâm tư vấn: Thực hiện các dịch vụ tư
vấn, giúp đỡ trọn gói một việc tư vấn chuyển
giao; Giúp đỡ tìm kiếm thông tin và xử lý theo
yêu cầu; Môi giới các đối tác hợp tác và đối tác
chuyển giao; Tổ chức các mạng liên kết, các
quan hệ hợp tác liên kết với các đối tác;
Trung tâm thông tin: Tổ chức, môi giới làm
việc với các nhà sáng chế; Tổ chức các hội thảo,
lớp học;
Trung tâm chuyển giao, trình diễn công nghệ:
Tư vấn và trình diễn công nghệ đặc thù; tiến
hành các công việc thường xuyên liên quan đến
các dự án chuyến giao công nghệ do Nhà nước
tài trợ; Tra cứu, cung cấp các kết quả nghiên cứu
cơ bản; Giúp chuẩn bị khi đưa các công nghệ
mới vào sử dụng;
Trung tâm hỗ trợ khởi lập doanh nghiệp: Tư
vấn hỗ trợ các doanh nghiệp trẻ giai đoạn khởi
lập, duy trì các hỗ trợ cho doanh nghiệp tiếp tục
phát triển, cung ứng cơ sở hạ tầng và nhà xưởng
cho thuê, tiến hành các dịch vụ chung, môi giới
các dịch vụ và tiến hành các tư vấn.
Ba là, phát huy vai trò của các chủ thể trong
hoạch định các chính sách hỗ trợ phát triển khoa
học và công nghệ. Trong xu thế toàn cầu hóa,
dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, các nước trên thế giới đã có nhiều chính
sách để hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ,
xem đây là chìa khóa để phát triển kinh tế tri
thức một cách bền vững.
Ở Trung Quốc, để hỗ trợ phát triển khoa học
và công nghệ, chính phủ nước này đã thành lập
các Quỹ phát triển như: Quỹ phát triển công
nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ với 2
nguồn vốn chính: Từ Bộ Tài chính và từ Ngân
hàng Trung ương, hỗ trợ các doanh nghiệp ở giai
đoạn sản xuất thử nghiệm; Quỹ đầu tư mạo hiểm
dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
các dự án công nghệ có triển vọng; Quỹ phát
triển sáng chế để đầu tư nghiên cửu, hoàn thiện
sáng chế. Trung Quốc xác định chủ thể của sáng
tạo, đổi mới công nghệ là các doanh nghiệp.
Do vậy đã có rất nhiều giải pháp khuyến khích
doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển và đổi mới
công nghệ. Doanh nghiệp nào nếu dành lợi
nhuận trước thuế để mua công nghệ thì sẽ được
Nhà nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho
phần kinh phí đó.
Ở Đức, chính phủ đã tiến hành ban bố các
điều kiện khung, các biện pháp khuyến khích
để hỗ trợ tĕng cường nĕng lực làm nghiên cứu
và phát triển, khuyến khích chuyển đổi cơ cấu,
giúp đỡ các dự án chuyển giao công nghệ cho
doanh nghiệp. Việc mua bán, chuyển giao công
nghệ giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp
vừa và nhỏ được Nhà nước khuyến khích bằng
các công cụ nêu trên và có thể phân ra thành
2 nhóm: Chuyển giao công nghệ gián tiếp và
Chuyển giao công nghệ trực tiếp. Ngoài ra còn
có các tố chức hiệp hội của những tổ chức hỗ trợ
chuyển giao công nghệ cũng được thành lập và
hoạt động rất mạnh để giúp đỡ các tổ chức này
tham gia có hiệu quả vào hoạt động chuyển giao
công nghệ.
58
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Trong giai đoạn toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại, phát triển kinh tế tri thức và cách
mạng công nghiệp 4.0, Hàn Quốc cũng đã chuyển
mình nhanh chóng nhờ những chính sách hỗ trợ
để phát triển khoa học và công nghệ. Luật Thúc
đẩy chuyển giao công nghệ của Hàn Quốc được
ban hành nhằm thúc đẩy thương mại hóa công
nghệ được tạo ra từ các tổ chức nghiên cứu công
thông qua các biện pháp miễn, giảm thuế, hồ trợ
tài chính, hỗ trợ thành lập các tổ chức dịch vụ
chuyển giao công nghệ như Trung tâm Chuyển
giao Công nghệ Quốc gia, Vĕn phòng Chuyển
giao Công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu
công, và các cơ quan chuyên trách đánh giá
công nghệ.
Những kinh nghiệm nói trên là bài học cho
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
trong phát triển thị trường khoa học và công
nghệ bao gồm: phát triển hàng hóa khoa học
và công nghệ, các trung tâm môi giới, sàn giao
dịch, cũng như các chính sách tài chính hỗ trợ
phát triển khoa học và công nghệ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, các trung tâm, viên nghiên cứu và
phát triển.
3. HÀM Ý ĐỂ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY
Ở Việt Nam, Thị trường khoa học và công
nghệ là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có vai
trò then chốt trong việc tạo môi trường thúc đẩy
hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ; nâng cao
nĕng lực khoa học và công nghệ quốc gia phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Hiện
nay, thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam
đã gia tĕng cả về quy mô lẫn tốc độ phát triển.
Loại hình hàng hóa trên thị trường khoa học và
công nghệ ngày càng phong phú; Các hình thức
giao dịch trên thị trường khoa học và công nghệ
theo đó cũng đa dạng, như: Giao dịch mua, bản
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp, giao dịch chuyển giao công nghệ
là các thiết bị, máy móc, công nghệ thuần tuý
giữa các chủ thể tham gia thị trường.
Tuy nhiên, thị trường khoa học và công nghệ
ở nước ta còn nổi lên một số hạn chế, khiếm
khuyết như: So với nhu cầu phát triển của nền
kinh tế trong điều kiện cách mạng công nghiệp
4.0, giá trị và lượng hàng hóa khoa học và công
nghệ được giao dịch ở nước ta hiện nay chưa
nhiều; Thị trường khoa học và công nghệ ở nước
ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu thành thị
trường chưa phát triển đồng bộ; Nĕng lực của
nhiều chủ thể trên thị trường khoa học và công
nghệ còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu
phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế trong
bối cảnh hội nhập kinh tế và khoa học, công nghệ
hiện nay; Số lượng, chất lượng của các tổ chức
nghiên cứu và phát triển đang còn nhiều bất cập,
hoạt động hiệu quả chưc cao, chưa gắn kết chặt
chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với
nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý
Trên cơ sở những kinh nghiệm quốc tế, thực
trạng bất cập, yếu kém để thị trường khoa học
và công nghệ ở nước ta phát triển trong điều
kiện cách mạng công nghiệp 4.0, cần thực hiện
một số hàm ý chính sách và giải pháp sau:
Thứ nhất, về mặt chính sách pháp lý:
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về tính tất yếu
tồn tại, vị trí vai trò của thị trường khoa học và
công nghệ trong bối cảnh mới nhà nước cần
hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ và cạnh tranh, cụ thể là:
Rà soát lại hệ thống vĕn bàn pháp luật, chính
sách về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ
và cạnh tranh nhằm khắc phục ngay những quy
định không thống nhất trong các vĕn bản; Xoá
bỏ những bất cập và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
hệ thống chính sách này, đặc biệt là các vĕn bản
quy định chi tiết như: nghị định, thông tư về sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ và cạnh tranh
nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa
59
Tác động của các yếu tố Văn hóa...
học và công nghệ, phù hợp với các cam kết của
Việt Nam trong các định chế quốc tế và khu vực.
Thứ hai, thực hiện các chính sách tài chính
để hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường khoa
học và công nghệ.
Vận dụng các bài học của Trung Quốc, Đức...
trong hỗ trợ các chủ thể tham gia phát triển thị
trường khoa học và công nghệ. Ở nước ta cần
triển khai, luật hóa, duy trì hoạt động hỗ trợ này.
Ví dụ như: thành lập Quỹ phát triển công nghệ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Quỹ phát
triển sáng chế; doanh nghiệp được miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp cho phần kinh phí mua
công nghệ; doanh nghiệp được trích 5% doanh
thu (không tính thuế) để nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ
Cần xem xét nâng tỷ lệ chi cho khoa học và
công nghệ từ ngân sách nhà nước hàng nĕm ở
mức 5 - 7 % tổng chi ngân sách ứng với 2% GDP.
Ưu đãi miễn giảm thuế để khuyến khích doanh
nghiệp tĕng cường hoạt động đổi mới sáng tạo;
Sản xuất thử nghiệm; miễn thuế cho các hoạt
động trung gian, môi giới trên thị trường khoa
học và công nghệ như: triển lãm, giới thiệu sản
phẩm mới
Thứ ba, bổ sung và hoàn thiện các chính sách
về nhập khẩu công nghệ, nhất là công nghệ cao,
công nghệ nguồn vào Việt Nam.
Cụ thể, nhà nước cần ban hành các quy định
về thẩm định các công nghệ được chuyển giao
vào Việt Nam. Theo đó, khuyến khích chuyển
giao công nghệ tiên tiến hạn chế đến mức tối
thiểu nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu, ô nhiễm
môi trường. Chính sách về nhập khẩu công nghệ
nhằm tĕng cường công tác kiểm tra chất lượng
công nghệ thông qua các nội dung như: Xác định
rõ các tiêu chuẩn; Những giới hạn nhất định đối
với các công nghệ được chuyển giao; Thực hiện
sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ
được chuyển giao tổ chức; Nắm bắt thông tin về
nĕng lực công nghệ, trình độ công nghệ của các
quốc gia, tập đoàn công nghệ cao
Thứ tư, thành lập các sàn giao dịch khoa học
và công nghệ:
Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc,
Đức, Hàn Quốc cho thấy thị trường khoa học
và công nghệ ở các nước này phát triển là do
việc sớm hình thành các sàn giao dịch công
nghệ ở các thành phố như: Thượng Hải, Quảng
Đông, Seoul hay 4 loại hình trung tâm dịch
vụ chuyển giao công nghệ ở Đức Vì vậy ở
Việt Nam cũng nên hình thành và nâng cao chất
lượng hiệu quả các sàn giao dịch khoa học và
công nghệ tại các thành phố trung tâm của quốc
gia như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nẵng Các sàn giao dịch này sẽ góp phần tạo
nên sự sôi động, gắn kết giữa cung - cầu về các
sản phẩm hàng hóa khoa học và công nghệ, góp
phần thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ
phát triển.
Thứ nĕm, chính sách hỗ trợ nghiên cứu phát
triển và đào tạo nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ:
Để phát triển thị trường khoa học và công
nghệ, một trong những yếu tố quan trọng đó chính
là việc tập trung phát triển các sản phẩm khoa học
và công nghệ, muốn vậy cần có chính sách hỗ trợ
nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ chất lượng cao. Ở Hàn
Quốc, trong một thời gian khá dài đã đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển tĕng khoảng 4% hàng
nĕm, tương ứng với tốc độ tĕng trưởng kinh tế,
vì vậy số lượng đĕng kí các sáng chế tĕng gấp 4
lần trong 10 nĕm qua; ngược lại ở Mỹ trong 10
nĕm qua, tỉ lệ các bài báo về công nghệ kĩ thuật
gần như không tĕng, điều này hoàn toàn phù hợp
với mức đầu tư không tĕng đáng kể cho nghiên
cứu và phát triển. Như vậy, để cho các sản phẩm
khoa học và công nghệ ngày càng phong phú, đa
dạng cả về số lượng và chất lượng nhà nước cần
chú trọng đầu tư cho các trung tâm, viện nghiên
cứu, trường đại học, đào tạo nguồn nhân lực khoa
học công nghệ hiện tại và kế cận đáp ứng với yêu
cầu phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế và
cách mạng công nghiệp 4.0.
60
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4. KẾT LUẬN
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra
những thách thức, khó khĕn đối với những nước
đi sau, chậm phát triển, song cũng tạo ra những
cơ hội để học tập kinh nghiệm trong phát triển
kinh tế xã hội nói chung và phát triển thị trường
khoa học và công nghệ nói riêng. Trên đây là
một số kinh nghiệm quốc tế và những hàm ý cho
Việt Nam trong phát triển thị trường khoa học
và công nghệ. Và rằng, dựa vào bối cảnh quốc
tế nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam phải có những nhận
thức đầy đủ về những thời cơ, thách thức trong
phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Đi
tắt, đón đầu trên cơ sở tận dụng những cơ hội
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuy vậy
cũng phải có lộ trình bước đi để phù hợp với
đặc điểm của nước ta. Trên cơ sở đảm bảo hài
hòa lợi ích của các chủ thể và yêu cầu phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia
[2]. Trần Vĕn Hải, 2012, Thuật ngữ “thị trường khoa học và công nghệ” và “thị trường công nghệ”
tiếp cận từ pháp luật về sở hữu trí tuệ, Tạp chí hoạt động khoa học số 638, Trường Đại học
KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh
[3]. Nguyễn Minh Phượng, Thị trường khoa học và công nghệ Trung Quốc: Xây dựng những mô
hình mới, (Nguồn internet:
nghe-trung-quoc-xay-dung-nhung-mo-hinh-moi)
[4]. Nguyễn Mạnh Quân, 2011, Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ: Kinh
nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam.
(Nguồn internet: https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/15066/khcn)
[5]. Nguyễn Như Ý (chủ biên) 1998, Đại Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Vĕn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
[6]. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006), Phát triển thị trường KH&CN: kinh
nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam
(Nguồn internet:
nghiem-Viet-Nam-va-Trung-Quoc-c1043)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_thi_truong_khoa_hoc_va_cong_nghe_trong_boi_canh_c.pdf