Các nguyên nhân góp phần làm tăng tỉ lệ
phẫu thuật bảo tồn hậu môn trong điều trị ung
thư trực tràng thấp
Quyết định làm phẫu thuật Miles hay phẫu thuật
bảo tồn hậu môn phụ thuộc vào nhiều yếu tố [19]:
1. Vị trí của bướu trực tràng (quan trọng nhất là
khoảng cách bướu so với cơ thắt hậu môn).
2. Bướu nguyên phát ở giai đoạn muộn (T4),
nam giới có khung chậu hẹp.
3. Chức năng cơ vòng hậu môn kém.
Các nguyên nhân sau đã góp phần làm tăng tỉ lệ
phẫu thuật bảo tồn hậu môn trong điều trị ung thư
trực tràng thấp:
+ Diện cắt xa của trực tràng tối thiểu phải cách
bờ dưới khối bướu 5cm thì mới an toàn về mặt ung
thư học từ những năm 1930 của Dukes đã thay đổi
chỉ còn là 1cm.
Trong một nghiên cứu hậu kiểm năm 2012 [2],
với 5574 bệnh nhân trong 17 nghiên cứu, các tác
giả kết luận diện cắt trong thành ruột chỉ cần 1cm là
đủ an toàn về mặt ung thư học. Phần lớn các bệnh
nhân trong nghiên cứu này đều có xạ trị trước hoặc
sau mổ.
Theo Dumont [5], trong một bài tổng quan năm
2015, đối với ung thư trực tràng thấp diện cắt xa
trực tràng chỉ cần 1cm là đủ.
+ Hóa-xạ tiền phẫu các trường hợp ung thư trực
tràng giữa và thấp giai đoạn II và III giúp giảm tái
phát sau mổ. Phác đồ dài ngày (50,4 Gy với 28 phân
liều) giúp giảm kích thước bướu và giúp giảm giai
đoạn bệnh [20].
Theo Dumont [5], các bệnh nhân có bướu T4
hoặc hạch di căn nếu không được hóa-xạ tiền phẫu,
với diện cắt xa trực tràng 1cm có thể vẫn còn tế bào
ung thư.
+ Các kỹ thuật mổ mới như phẫu thuật cắt gian
cơ thắt và nối đại tràng-hậu môn bằng tay [4].
+ Các máy khâu (stapler) giúp khâu nối trực
tràng trong vùng chậu dễ dàng hơn khâu nối tay, đặc
biệt là các bệnh nhân nam có khung chậu hẹp [19].
Trong nghiên cứu này, chỉ có 2 trường hợp hóaxạ tiền phẫu (12%) và 2 trường hợp nối đại trànghậu môn bằng tay (12%).
So sánh với công trình nghiên cứu cũng thực hiện
tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Ung Bướu TPHCM
với 100% các bệnh nhân ung thư trực tràng được
hóa-xạ tiền phẫu (Bảng 5), chúng tôi không thấy sự
khác biệt có ý nghĩa (p=0,768).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật bảo tồn hậu môn điều trị ung thư trực tràng thấp tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 71
Nghiên cứu
PHẪU THUẬT BẢO TỒN HẬU MÔN ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
TRỰC TRÀNG THẤP TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TPHCM
Phạm Hùng Cường1*
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.65.11
TÓM TẮT
Mục đích: Phân tích các thay đổi về điều trị ung thư trực tràng thấp bằng các phẫu thuật bảo tồn hậu
môn tại bệnh viện Ung Bướu TPHCM trong 15 năm qua (2004-2019).
Bệnh nhân và phương pháp: Hồi cứu hồ sơ 17 trường hợp ung thư trực tràng thấp loại carcinôm
tuyến được điều trị tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Ung Bướu TP HCM từ 01/2019 đến 06/2019. So sánh với
các bệnh nhân ung thư trực tràng thấp được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM 01/2000-
12/2004.
Kết quả: So với năm 2004, tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn hậu môn điều trị ung thư trực tràng thấp tăng đáng
kể (53% so với 4%, p<0,001); tuy tỉ lệ nam giới cao hơn (77% so với 36%, p=0,003) và điều trị ở giai đoạn
sớm hơn (29% giai đoạn I so với 4%, p=0,001)
+ Tỉ lệ bệnh nhân ung thư trực tràng thấp làm phẫu thuật bảo tồn hậu môn là 53% (KTC 95%: 28-77%).
+ Phẫu thuật bảo tồn hậu môn có thể thực hiện khi bướu cách bờ hậu môn >3cm.
Kết luận: Điều trị ung thư trực tràng thấp bằng các phẫu thuật bảo tồn hậu môn tại bệnh viện Ung Bướu
TPHCM trong 15 năm qua (2004-2019) đã tăng đáng kể, tương tự với xu thế của thế giới.
ABSTRACT
SPHINCTER-SAVING RESECTION FOR LOW RECTAL CANCER
IN HCMC ONCOLOGY HOSPITAL
Pham Hung Cuong1*
Purpose: To analyse changes in performing sphincter-saving resection procedures for low rectal cancer
in HCMC Oncology Hospital in the last 15 years (2004-2019).
Patients and Methods: Medical records of 17 cases of low rectal carcinoma operated on from January
through Juin, 2019 in Surgery Department No 2, HCMC Oncology Hospital were studied retrospectively.
Data were compared to that of cases of low rectal carcinoma also operated on in HCMC Oncology Hospital
from January, 2000 through December, 2004 (2004 group).
Results: Compared with 2004 group, the sphincter-saving resection rate significantly increased (53%
vs 4%, p<0.001); although there were higher proportions of men (77% vs 36%, p=0.003) and of early stage
patients (29% stage I vs 4%, p<0.001).
1 Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược
TP.HCM
- Ngày nhận bài (Received): 1/10/2020; Ngày phản biện (Revised): 06/10/ 2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 04 /12 /2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Phạm Hùng Cường
- Email: phcuongvn@yahoo.com; ĐT: 0905 922 299
Bệnh viện Trung ương Huế
72 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
+ Sphincter-saving resection procedures were performed for 53% low rectal cancer patients (95% CI:
28-77%).
+ All patients with tumors more than 3cm from the anal verge were operated on with sphincter-saving
resection procedures.
Conclusion: There was a significant increment of sphincter-saving resection for low rectal cancer in
HCMC Oncology Hospital in the last 15 years (2004-2019). It was not different from worldwide trends.
Keywords: sphincter-saving resection, low rectal cancer.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Globocan năm 2018, ung thư đại-trực tràng
là ung thư thường gặp hàng thứ năm tại Việt Nam
với 14.733 ca mới [8]. Theo kết quả ghi nhận ung
thư quần thể tại TPHCM năm 2014, ung thư đại-
trực tràng là ung thư thường gặp đứng hàng thứ hai
(tính chung cả hai giới) với xuất độ chuẩn theo tuổi
là 21,3/100.000 dân; chỉ sau ung thư phổi [9].
Phẫu thuật, cho đến nay, vẫn là vũ khí điều trị
duy nhất có khả năng điều trị khỏi ung thư đại-trực
tràng [17], các phương pháp điều trị khác chỉ có giá
trị hỗ trợ.
Trước năm 1990, Fry [7] đã nhận định: Từ rất
lâu phẫu thuật cắt cụt trực tràng qua đường bụng
và tầng sinh môn (phẫu thuật Miles) đã được coi
là phương pháp điều trị quy ước dành cho ung thư
trực tràng, tuy nhiên sau mổ phẫu thuật này bệnh
nhân phải chấp nhận mang một hậu môn nhân tạo
vĩnh viễn ở bên hông, một điều phiền toái mà một
số bệnh nhân không thể chấp nhận được. Gần đây
với những hiểu biết rõ hơn về sinh học của ung thư
trực tràng, việc phát hiện chẩn đoán bệnh ở những
giai đoạn sớm hơn, sự tiến bộ của các dụng cụ phẫu
thuật (các stapler) và các vũ khí điều trị khác (xạ,
hóa,) mà tỉ lệ các trường hợp ung thư trực tràng
được điều trị bảo tồn hậu môn ngày một nhiều hơn.
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu thực hiện tại
Bệnh viện Ung Bướu TPHCM 01/2000-12/2004, tỉ
lệ các bệnh nhân ung thư trực tràng thấp làm phẫu
thuật bảo tồn hậu môn chỉ là 4% [12]. Mười lăm
năm đã trôi qua (2004-2019), tình hình điều trị ung
thư trực tràng thấp bằng phẫu thuật bảo tồn hậu môn
tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM có gì thay đổi?
Chúng tôi thực hiện công trình này nhằm mục
tiêu: Phân tích các thay đổi về điều trị ung thư trực
tràng thấp bằng phẫu thuật bảo tồn hậu môn tại
bệnh viện Ung Bướu TPHCM trong 15 năm qua
(2004-2019).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân ung thư trực tràng thấp loại
carcinôm tuyến điều trị phẫu thuật tại Khoa Ngoại
2, Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM từ tháng 01/2019
đến tháng 06/2019.
3. Phương pháp nghiên cứu
+ Hồi cứu, mô tả cắt ngang.
+ Theo dõi bệnh nhân dựa vào hồ sơ bệnh án.
+ Các biến số chính:
Ung thư trực tràng thấp:
Bướu trực tràng cách bờ hậu môn 0-5cm khi
nội soi.
Các loại phẫu thuật điều trị tận gốc ung thư
trực tràng:
- Phẫu thuật cắt đoạn trực tràng - nối ngay (hoặc
phẫu thuật cắt trước): Cắt đoạn trực tràng qua
đường bụng trước, nối ngay đại tràng sigma-trực
tràng bằng tay hoặc bằng stapler.
- Phẫu thuật Miles: Cắt cụt trực tràng qua đường
bụng và tầng sinh môn, đưa đại tràng sigma ra da
làm hậu môn nhân tạo vĩnh viễn.
- Phẫu thuật Hartmann: Cắt đoạn trực tràng qua
đường bụng trước, đóng kín đầu dưới (trực tràng),
đưa đầu trên (đại tràng sigma) ra da làm hậu môn
nhân tạo.
- Cắt rộng bướu ngã hậu môn: Banh hậu môn, cắt
rộng và sâu quanh bướu.
Phẫu thuật bảo tồn hậu môn điều trị u g thư trực tràng thấp...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 73
+ Số liệu được ghi nhận vào bảng thu thập số
liệu. Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
20.0 for Windows.
+ So sánh số liệu từng cặp giữa các bệnh nhân
trong nghiên cứu này và các bệnh nhân ung thư trực
tràng thấp được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện
Ung Bướu TPHCM năm 2000-2004 [9].
+ Giá trị p < 0,05 được chọn là có ý nghĩa thống
kê, với độ tin cậy 95%.
Mối tương quan giữa hai biến số định lượng
được kiểm định bằng phép kiểm t.
Mối tương quan giữa hai biến số định tính được
kiểm định bằng phép kiểm Chi bình phương (χ2).
+ Bàn luận và so sánh với y văn.
III. KẾT QUẢ
Các đặc điểm của các bệnh nhân trong nghiên cứu này và các bệnh nhân ung thư trực tràng thấp được
điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM 2000-2004 được trình bày trong Bảng 1:
Bảng 1: Các đặc điểm dịch tể học và lâm sàng.
Đặc điểm Nghiên cứu này
Nghiên cứu
2000-2004 [9] p
Thời gian nghiên cứu
6 tháng
(01 – 06/2019)
5 năm
(01/2000 – 12/2004)
Số bệnh nhân 17 93
Tuổi
Tuổi trung bình 59 ± 12
(nhỏ nhất 26, lớn nhất 77 tuổi)
Tuổi trung bình 57 ± 16
(nhỏ nhất 19, lớn nhất 87 tuổi)
0,625
Giới 0,003
Nam 13 (77%) 33 (36%)
Nữ 4 60
Giai đoạn 0,001
I 5 (29%) 4 (4%)
II 4 (24%) 52 (56%)
III 8 (47%) 37 (40%)
Phẫu thuật <0,001
Cắt đoạn trực tràng - nối
ngay
8 (47%) 0
PT Miles 8 (47%) 85 (92%)
PT Hartmann 0 4 (4%)
Cắt rộng bướu ngã hậu môn 1 (6%) 4 (4%)
+ Không có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05).
+ Các bệnh nhân trong nghiên cứu này có tỉ lệ nam giới cao hơn (77% so với 36%, p=0,003), điều trị ở
giai đoạn sớm hơn (29% giai đoạn I so với 4%, p=0,001) và có tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn hậu môn tăng đáng
kể (53% so với 4%, p<0,001).
Chi tiết vị trí bướu cách bờ hậu môn và các loại phẫu thuật được trình bày trong Bảng 2.
Bệnh viện Trung ương Huế
74 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
Bảng 2: Vị trí bướu cách bờ hậu môn và
các loại phẫu thuật.
Vị trí
bướu
cách bờ
hậu môn
Cắt đoạn
trực tràng
- nối ngay
PT
Miles
Cắt rộng
bướu
ngã hậu
môn
0cm 0 1 0
1cm 0 3 0
2cm 0 3 0
3cm 1 1 0
4cm 1 0 0
5cm 6 0 1
+ Có sự khác biệt đáng kể về vị trí bướu cách bờ
hậu môn giữa các loại phẫu thuật (p=0,002).
+ Phẫu thuật bảo tồn hậu môn có thể thực hiện
được khi bướu cách bờ hậu môn >3cm.
IV. BÀN LUẬN
Để điều trị khỏi ung thư trực tràng, phẫu thuật là
vũ khí điều trị đầu tiên đối với phần lớn bệnh nhân.
Kết quả điều trị phẫu thuật có thể được cải thiện hơn
nhờ sự hỗ trợ của xạ trị và hóa trị [17].
1. Xác định ung thư trực tràng thấp
Ung thư trực tràng thấp được xác định thay đổi
tùy theo các tác giả. Có tác giả xác định ung thư trực
tràng thấp khi bướu cách bờ hậu môn ≤6cm [10,
14], nhưng nhiều tác giả lại lấy mốc là ≤5cm [1],[3],
[5], [11], [17], [20].
Phương pháp xác định khoảng cách từ bờ hậu
môn đến bướu thường không được nêu rõ dựa vào
soi trực tràng ống cứng hay ống mềm, mặc dù soi
trực tràng ống cứng giúp định chính xác hơn [20].
MRI vùng chậu cũng là phương pháp đáng tin cậy
trong việc xác định vị trí bướu [20].
Trong nghiên cứu này, vì là hồi cứu, nên chúng
tôi xác định ung thư trực tràng thấp khi bướu cách
bờ hậu môn ≤5cm dựa vào nội soi ống mềm.
2. Phẫu thuật ung thư trực tràng thấp những
năm 1990 và 2000
Theo Cohen A.M. [3], 1989 : Ung thư trực tràng
ở 1/3 dưới (≤5cm) hầu hết cần phải được làm phẫu
thuật Miles. Các phẫu thuật bảo tồn cơ thắt hậu môn
có thể thực hiện được nếu bướu còn nhỏ và chưa
xâm lấn sâu. Các phương pháp điều trị khu trú như
cắt rộng bướu, cắt đốt, xạ trị tiếp cận cũng có thể
được chọn lựa đối với một số bệnh nhân chọn lọc.
Theo Tabbarah H.J. [17], 1995, các khối
ung thư của trực tràng có thể điều trị khỏi bằng cách
cắt rộng khối bướu và nối ngay mà không cần phải
làm hậu môn nhân tạo dù là tạm thời nếu bờ dưới
của sang thương cách bờ hậu môn >8cm nếu ở nữ
hoặc >9-10 cm nếu ở nam. Các loại phẫu thuật được
chọn lưạ khi bướu ở 1/3 dưới trực tràng là:
+ Các phẫu thuật cắt nối đại tràng-hậu môn bằng
các đường xuyên hậu môn, xuyên cơ vòng hoặc
cạnh xương cùng.
+ Phẫu thuật Miles (cắt cụt trực tràng qua đường
bụng và tầng sinh môn).
+ Các loại điều trị khu trú bao gồm: cắt rộng
bướu, cắt đốt điện hoăc laser, xạ trị tiếp cận.
Tỉ lệ các loại phẫu thuật điều trị ung thư trực
tràng thấp những năm 1990 và 2000 theo y văn
được trình bày trong Bảng 3.
Bảng 3: Tỉ lệ các loại phẫu thuật điều trị ung thư trực
tràng thấp những năm 1990 và 2000 theo y văn.
Tác giả, quốc gia, năm
công bố, thời gian
nghiên cứu, cỡ mẫu
Cắt đoạn
trực tràng
- nối ngay
PT
Miles
VT Long, Việt Nam, 1998
[13], 1986-1993, 36 bn
0% 94%
[(*)
100%]
PH Cường, Việt Nam,
1999 [13], 1993-1997,
77 bn
0% 100%
Nagtegaal, Hà Lan, 2005
[11], 1996-1999, 382 bn
20% 80%
Anderin, Thụy Điển, 2012
[1], 1995-2003, 616 bn
19% 72%
[(*)
81%]
Sun, Trung Quốc, 2015
[16], 2006-2009, 124 bn
9% 91%
Silberfein, Hoa Kỳ, 2010
[15], 1993-2003, 304 bn
58% 42%
(*): phẫu thuật Miles và phẫu thuật Hartmann.
Phẫu thuật bảo tồn hậu môn điều trị u g thư trực tràng thấp...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 75
Tỉ lệ mổ phẫu thuật bảo tồn hậu môn của các
tác giả Âu-Mỹ trong giai đoạn này là 19 - 20%,
trong khi tại Việt Nam chỉ là 0%. Nghiên cứu của
Silberfein [15] có tỉ lệ mổ cắt đoạn trực tràng – nối
ngay đạt 58% nhờ thực hiện thường quy hóa-xạ trị
tiền phẫu và nối đại tràng-hậu môn.
Có sự khác biệt này, theo chúng tôi, có thể vì hai
lý do sau:
+ Tại thời điểm này, quan điểm diện cắt xa của
trực tràng tối thiểu phải cách bờ dưới khối bướu
5cm thì mới an toàn về mặt ung thư học vẫn còn
phổ biến. Quan điểm này dựa trên lời khuyên của
Dukes sau khi đã phân tích hàng loạt bệnh phẩm
ung thư trực tràng mà không tìm thấy sự xâm lấn
dưới niêm mạc hoặc hạch bạch huyết ở vị trí cách
bướu 4,5cm [7].
+ Mặt khác, hoàn cảnh chung của Việt Nam tại
thời điểm này, việc khâu nối trực tràng trong vùng
chậu chỉ thực hiện bằng tay mà không có sự trợ giúp
của máy khâu (stapler). Do vậy các trường hợp ung
thư trực tràng thấp, nếu không thể cắt rộng bướu
ngã hậu môn, đều phải làm phẫu thuật Miles hoặc
phẫu thuật Hartmann.
Trong nghiên cứu năm 2004 (Bảng 1), vì thế,
không có trường hợp nào làm phẫu thuật cắt đoạn
trực tràng - nối ngay.
3. Phẫu thuật ung thư trực tràng thấp những
năm 2010
Theo một đồng thuận năm 2016 [20],
+ Cắt bỏ trực tràng qua đường bụng là phẫu thuật
tiêu chuẩn dành cho ung thư trực tràng, bất kể là giai
đoạn nào.
+ Các loại phẫu thuật có thể chọn lựa là: cắt trước
(cắt đoạn trực tràng – nối ngay), cắt gian cơ thắt,
phẫu thuật Miles (cắt cụt trực tràng đường bụng và
tầng sinh môn), cắt rộng bướu qua đường hậu môn.
+ Chọn lựa loại phẫu thuật nào tùy thuộc chủ yếu
vào vị trí của bướu nguyên phát.
Đối với những trường hợp ung thư trực tràng có
bướu ở đoạn dưới trực tràng [5, 20].
* Khi phần trực tràng cách bờ dưới bướu >1cm
không liên quan đến phần lớn cơ thắt ngoài hậu
môn, các phẫu thuật được chỉ định là: cắt trước cực
thấp nối máy (stapler) hoặc nối đại tràng-hậu môn,
cắt gian cơ thắt.
* Phẫu thuật Miles được chỉ định khi phần trực
tràng cách bờ dưới bướu >1cm liên quan đến phần
lớn cơ thắt ngoài hậu môn.
* Cắt rộng bướu qua đường hậu môn được chỉ
định cho những trường hợp bướu T1, nhỏ <3cm,
chiếm <1/3 chu vi trực tràng, không muốn mổ cắt
bỏ trực tràng đường bụng. Cần cắt bỏ toàn bộ thành
trực tràng và mỡ quanh trực tràng với diện cắt tối
thiểu 3mm. Nếu diện cắt còn bướu hoặc giải phẫu
bệnh sau mổ là loại biệt hóa kém hoặc có xâm lấn
mạch máu hoặc xâm lấn quanh thần kinh; cần phải
mổ lại, cắt bỏ trực tràng đường bụng.
Tỉ lệ các loại phẫu thuật điều trị ung thư trực
tràng thấp những năm 2010 theo y văn được trình
bày trong Bảng 4.
Bảng 4: Tỉ lệ các loại phẫu thuật điều trị ung thư
trực tràng thấp những năm 2010 theo y văn.
Tác giả, quốc gia, năm
công bố, thời gian
nghiên cứu, cỡ mẫu
Phẫu thuật
bảo tồn hậu
môn
PT
Miles
Rullier, Pháp, 2013 [14],
404 bn
79% 21%
VN Phương, Việt Nam,
2017 [18], 2014-2015,
65 bn
57% 43%
ĐQ Minh, Việt Nam,
2018 [6], 2016-2018,
29 bn
90% 10%
Mehraj, Ấn Độ, 2018
[10], 2014-2016, 110 bn
74% 26%
Tỉ lệ mổ phẫu thuật bảo tồn hậu môn tại Việt
Nam trong giai đoạn này không khác biệt đáng kể
so với các tác giả nước ngoài. Các nghiên cứu của
Rullier [14] và ĐQ Minh [6] có tỉ lệ mổ bảo tồn hậu
môn cao, chủ yếu nhờ dùng kỹ thuật mổ gian cơ thắt
và nối đại tràng-hậu môn, 79% và 72%.
Trong nghiên cứu này (Bảng 1 và 2), tỉ lệ bệnh
Bệnh viện Trung ương Huế
76 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020
nhân ung thư trực tràng thấp làm phẫu thuật bảo
tồn hậu môn là 53% (KTC 95%: 28-77%), khác biệt
không nhiều so với y văn. Phẫu thuật bảo tồn hậu
môn có thể thực hiện được khi bướu cách bờ hậu
môn >3cm.
Sự gia tăng tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn hậu môn
trong nghiên cứu này, theo chúng tôi, có được vì:
+ Quan điểm diện cắt xa của trực tràng tối thiểu
phải cách bờ dưới khối bướu chỉ cần 1-2cm, với
điều kiện phải có điều trị hóa-xạ trước hoặc sau mổ.
+ Các máy nối (stapler) có sẵn và được dùng phổ
biến trong phẫu thuật.
4. Các nguyên nhân góp phần làm tăng tỉ lệ
phẫu thuật bảo tồn hậu môn trong điều trị ung
thư trực tràng thấp
Quyết định làm phẫu thuật Miles hay phẫu thuật
bảo tồn hậu môn phụ thuộc vào nhiều yếu tố [19]:
1. Vị trí của bướu trực tràng (quan trọng nhất là
khoảng cách bướu so với cơ thắt hậu môn).
2. Bướu nguyên phát ở giai đoạn muộn (T4),
nam giới có khung chậu hẹp.
3. Chức năng cơ vòng hậu môn kém.
Các nguyên nhân sau đã góp phần làm tăng tỉ lệ
phẫu thuật bảo tồn hậu môn trong điều trị ung thư
trực tràng thấp:
+ Diện cắt xa của trực tràng tối thiểu phải cách
bờ dưới khối bướu 5cm thì mới an toàn về mặt ung
thư học từ những năm 1930 của Dukes đã thay đổi
chỉ còn là 1cm.
Trong một nghiên cứu hậu kiểm năm 2012 [2],
với 5574 bệnh nhân trong 17 nghiên cứu, các tác
giả kết luận diện cắt trong thành ruột chỉ cần 1cm là
đủ an toàn về mặt ung thư học. Phần lớn các bệnh
nhân trong nghiên cứu này đều có xạ trị trước hoặc
sau mổ.
Theo Dumont [5], trong một bài tổng quan năm
2015, đối với ung thư trực tràng thấp diện cắt xa
trực tràng chỉ cần 1cm là đủ.
+ Hóa-xạ tiền phẫu các trường hợp ung thư trực
tràng giữa và thấp giai đoạn II và III giúp giảm tái
phát sau mổ. Phác đồ dài ngày (50,4 Gy với 28 phân
liều) giúp giảm kích thước bướu và giúp giảm giai
đoạn bệnh [20].
Theo Dumont [5], các bệnh nhân có bướu T4
hoặc hạch di căn nếu không được hóa-xạ tiền phẫu,
với diện cắt xa trực tràng 1cm có thể vẫn còn tế bào
ung thư.
+ Các kỹ thuật mổ mới như phẫu thuật cắt gian
cơ thắt và nối đại tràng-hậu môn bằng tay [4].
+ Các máy khâu (stapler) giúp khâu nối trực
tràng trong vùng chậu dễ dàng hơn khâu nối tay, đặc
biệt là các bệnh nhân nam có khung chậu hẹp [19].
Trong nghiên cứu này, chỉ có 2 trường hợp hóa-
xạ tiền phẫu (12%) và 2 trường hợp nối đại tràng-
hậu môn bằng tay (12%).
So sánh với công trình nghiên cứu cũng thực hiện
tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Ung Bướu TPHCM
với 100% các bệnh nhân ung thư trực tràng được
hóa-xạ tiền phẫu (Bảng 5), chúng tôi không thấy sự
khác biệt có ý nghĩa (p=0,768).
Bảng 5: Tỉ lệ các loại phẫu thuật điều trị ung thư
trực tràng thấp tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM.
Tác giả, năm
công bố, thời
gian nghiên
cứu, cỡ mẫu
Cắt đoạn
trực tràng
- nối ngay
PT
Miles
Cắt rộng
bướu
ngã hậu
môn
VN Phương,
2017 [18], 2014-
2015, 65 bn
37 (57%) 28 0
NC này 8 (47%) 8 1 (6%)
Nếu số bệnh nhân ung thư trực tràng thấp được
hóa-xạ tiền phẫu tăng hơn, mọi phẫu thuật viên đều
nắm vững kỹ thuật mổ cắt gian cơ thắt và nối đại
tràng-hậu môn bằng tay thì tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn
hậu môn có thể còn tăng hơn nữa.
V. KẾT LUẬN
Điều trị ung thư trực tràng thấp bằng các phẫu
thuật bảo tồn hậu môn tại bệnh viện Ung Bướu
TPHCM trong 15 năm qua (2004-2019) đã tăng
đáng kể, tương tự với xu thế của thế giới.
Phẫu thuật bảo tồn hậu môn điều trị u g thư trực tràng thấp...
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 65/2020 77
1. Anderin C. (2012). “Low rectal cancer: Aspects
of surgical techniques and treatment results”.
Karolinska Institutet thesis.
2. Bujko K., Rutkowski A., Chang G.J., Michalski
W. et al (2012). “Is the 1-cm Rule of Distal
Bowel Resection Margin in Rectal Cancer Based
on Clinical Evidence? A Systematic Review”.
Ann Surg Oncol, 19:801–808.
3. Cohen A.M., Shank B., Friedman M.A. (1989).
“Colorectal cancer”. In: Devita V.T., Jr.Hellman
S., Rosenberg S.A. Cancer: Principles and
Practice of Oncology, 3rd edition. J.B.Lippincott
Company:895-964.
4. Deijen C.L., van den Broek J.J., Poelman M.M.,
Schreurs W.H. et al (2016). “State of the Art in
Rectal Cancer Surgery: Historical Overview and
New Perspectives After the COLOR II Trial”.
Cir Esp, 94:1–3.
5. Dumont F., Mariani A., Elias D., Goéré D. (2015).
“Surgical strategy for low rectal cancers”. J Visc
Surg, 152(1):23-31.
6. Đào Quang Minh, Nguyễn Văn Trường (2018).
“Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư trực tràng
thấp tại Bệnh viện Thanh Nhàn – Hà Nội”. Tạp
chí Ung thư học Việt Nam, số 4, tr.259-263.
7. Fry R.D., Fleshman F.W., Kodner I.J. (1990).
“Sphincter-saving procedures for rectal
cancer”. In: Schwartz S.I., Ellis H. Maingot’s
Abdominal Operations, 9th edition. Appleton &
Lange: 1119-1130.
8. Globocan 2018. (https://gco.iarc.fr/today/data/
factsheets/populations/704-viet-nam-fact-
sheets.pdf)
9. Lê Hoàng Minh, Phạm Xuân Dũng, Đặng Huy
Quốc Thịnh, Bùi Đức Tùng và cs (2016). “Kết
quả ghi nhận ung thư quần thể thành phố Hồ
Chí Minh năm 2014”. Tạp chí Ung thư học Việt
Nam, số 3, tr.13- 21.
10. Mehraj A. (2018). “Low Rectal Cancers:
Evolution from Abdominoperineal Resection
(APR) to Sphincter Saving Procedures (SSP)”.
Adv Res Gastroentero Hepatol, 10(3): 555788.
11. Nagtegaal I.D., van de Velde C.J.H., Marijnen
C.A.M., van Krieken J.H.J.M. et al (2005).
“Low rectal cancer: A call for a change of
approach in abdominoperineal resection”. J Clin
Oncol, 23:9257-9264.
12. Nguyễn Bá Trung (2005). “Ung thư trực
tràng: chẩn đoán và điều trị”. Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Bác sĩ
Chuyên khoa cấp II.
13. Phạm Hùng Cường, Vương Nhất Phương (1999).
“Điều trị phẫu thuật ung thư trực tràng tại Trung
tâm Ung Bướu TPHCM”. Y học TPHCM, 3(4),
tr.216-225.
14. Rullier E., Denost Q., Vendrely V., Rullier A. et
al (2013). “Low rectal cancer: classification and
standardization of surgery”. Dis Colon Rectum,
56(5):560-567.
15. Silberfein E.J., Kattepogu K.M., Hu C-Y.,
Skibber J.M. et al (2010). “Long-Term Survival
and Recurrence Outcomes Following Surgery
for Distal Rectal Cancer”. Ann Surg Oncol,
17(11): 2863–2869.
16. Sun Z., Yu X., Wang H., Ma M. et al (2015). “Factors
affecting sphincterpreserving resection treatment for
patients with low rectal cancer”. Experimetal and
Therapeutic Medicine, 10:484-490.
17. Tabbarah H.J. (1995). “Gastrointestinal tract
cancers”. In: Casciato D.A., Lowitz B.B. Manual
of Clinical Oncology, 3rd edition. Little, Brown
and Company:152-164.
18. Vương Nhất Phương và cs (2017). “Kết quả
bước đầu hóa-xạ tiền phẫu kết hợp phẫu thuật
trong điều trị ung thư trực tràng giai đoạn II-III”.
Tạp chí Y học Việt Nam, 459(Tháng 10, Số đặc
biệt), tr.445- 451.
19. Warschkow R., Ebinger S.M., Brunner W.,
Schmied B.M. et al (2017) “Survival after
Abdominoperineal and Sphincter-Preserving
Resection in Nonmetastatic Rectal Cancer: A
Population-Based Time-Trend and Propensity
Score-Matched SEER Analysis”. Gastroent Res
Pract, vol. 2017, Article ID 6058907, 12 pages.
20. Xynos E., Tekkis P., Gouvas N., Vini L. et al
(2016). “Clinical practice guidelines for the
surgical treatment of rectal cancer: a consensus
statement of the Hellenic Society of Medical
Oncologists (HeSMO)”. Ann Gastroenterol, 29
(2):103-126.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_bao_ton_hau_mon_dieu_tri_ung_thu_truc_trang_thap.pdf