Gần đây Weerda, Cotton, Hof, Madda lozzo
và Holinger, Zalzal tất cả đều mô tả thành công
của họ trong việc sử dụng kỹ thuật điều trị này
trên bệnh nhân sẹo hẹp hạ thanh môn nặng hoặc
có kèm theo hẹp thanh quản, hoặc khí quản.
Tại Việt Nam, trong công trình nghiên cứu
của Đặng Hiếu Trưng(4) đã có 19/22 (86,3%)
trường hợp sẹo hẹp thanh khí quản điều trị
thành công.
Tất cả các bệnh nhân sẹo hẹp hạ thanh môn,
hạ thanh môn có mức độ tổn thương nặng
Cotton III, IV mà không có chỉ định cắt nối được,
với phương pháp này có lẽ an toàn hơn nên
phẫu thuật viên thường có xu hướng lựa chọn
đầu tiên cho bệnh nhân. Tất cả các yếu tố này
đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thành công
hay thất bại của phẫu thuật. Về mặt kỹ thuật
chúng ta còn có những điểm khác với một tác giả
như Grahne B:(9) và Robin Cotton(3) ông sử dụng
mảnh ghép sụn có giữ lại một mặt của màng sụn,
mảnh ghép thường gọt theo hình thuyền hoặc
oval, mặt màng sụn được đặt về phía lòng ống
thở và mảnh ghép của ống có thể đạt tới 4cm
chiều dài nối từ thanh quản hạ thanh môn đến
khí quản: có 10/11 (90,91%) thành công, chỉ có 1
trường hợp thất bại do tiêu sụn.
Theo kết quả của chúng tôi tỷ lệ thành công
là 77,8% rút được ống thở, tỷ lệ của tác giả
Cotton(3) có 88/107 bệnh nhân (82,24%) đã thành
công trong chỉnh hình bằng phương pháp ghép
sụn ở mặt trước sau.
Kết quả này đã đóng góp cho phẫu thuật
chỉnh hình sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn
một bước phát triển mới.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 32 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật chỉnh hình sụn nhẫn trong điều trị sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 416
PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH SỤN NHẪN
TRONG ĐIỀU TRỊ SẸO HẸP THANH MÔN, HẠ THANH MÔN
Trần Phan Chung Thủy* Nguyễn Thanh Tùng*
TÓM TẮT
Nguyên nhân sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn thường là di chứng do chấn thương thanh quản và đặc biệt
là vỡ sụn nhẫn mà không được sử trí đúng mức, hiệu quả. Trong lịch sử ngành tai mũi họng, đây là một bệnh lý
phức tạp, khó điều trị, thời gian điều trị kéo dài, khả năng tái phát cao. Sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn không
những ảnh hưởng đường thở mà còn ảnh hưởng tới tiếng nói của bệnh nhân. Bệnh nhân không những phải đeo
ống thở mà còn không phát âm được. Điều này ảnh hưởng nặng nề tâm lý người bệnh và chất lượng cuộc sống và
là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chỉnh hình thanh môn, hạ thanh môn có ghép sụn hoặc
xương.
Đối tượng nghiên cứu: Qua khảo sát 9 trường hợp sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn được phẫu thuật
chỉnh hình sụn nhẫn có ghép sụn hoặc xương, tại khoa Tai Mũi Họng trong 3 năm (1/2009 đến 12/2011)
Thiết kế nghiên cứu: thực nghiệm lâm sàng tiến cứu mô tả
Kết quả: 9 trường hợp sẹo thanh khí quản, 1 nữ, 8 nam. Nguyên nhân do chấn thương thanh quản (8/9), 1
trường hợp hẹp không rõ nguyên nhân, bệnh nhân bị viêm teo đa sụn. Đa số các trường hợp hẹp bít hoàn toàn hay
gần hoàn toàn thanh môn hoặc/và hạ thanh môn. Kết quả ban đầu có 7 trường hợp rút ống thở được là (77,8%).
Kết luận: Phẫu thuật chỉnh hình sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn có ghép sụn hay xương là một phẫu
thuật phức tạp, đây là phương pháp có hiệu quả để tái tạo lòng thanh quản. Phẫu thuật này bước đầu thu được
kết quả khả quan.
Từ khóa: Sẹo hẹp thanh quản, chỉnh hình thanh quản, chỉnh hình sụn nhẫn
ABSTRACT
CRICOID RECONSTRUCTIVE SURGERY IN TREATING SUBGLOTTIC AND GLOTTIC STENOSIS
Tran Phan Chung Thuy, Nguyen Thanh Tung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 416- 422
Glottic and subglottic stenosis especially cricoid fracture is a common sequel of larynx trauma which
has not been treated adequately and effectively. This is a difficult fracture with high recurrence rate. Not
only does it affects the patient’s airway but also his voice. He may have to breathe through a tracheal
cannula or cannot speak normally, which badly influences his quality of life and becomes a burden for
family and society.
Objective: Evaluate the result of glottic and subglottic reconstructive surgery with grafting.
Patients: 9 glottic and subglottic stenosis reconstructed by grafting at ENT Department from
09/2009 to 11/2011.
Method: Prospective, descriptive clinical trial.
* Khoa Tai-Mũi-Họng - BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Phan Chung Thủy ĐT: 0979917777 Email: thuytpc@hotmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 417
Result: 9 cases. Male/Female: 8/1. Causes: cricoid trauma (8/9 cases), 1 case of unknown cause.
Most cases have total or near total loss of glottic/subglottic lumen. 6 successful cannula removals
(77.8%). Glottic and subglottic reconstructive surgery with grafting is a difficult but effective operation
to reconstruct the laryngeal lumen. The surgery has good result.
Keywords: Laryngeal stenosis, laryngoplasty
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nguyên nhân sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh
môn thường là di chứng do chấn thương thanh
quản và đặc biệt là vỡ sụn nhẫn mà không được
sử trí đúng mức, hiệu quả. Sẹo hẹp thanh môn,
hạ thanh môn không những ảnh hưởng đường
thở mà còn ảnh hưởng tới tiếng nói của bệnh
nhân. Bệnh nhân không những phải đeo ống thở
mà còn không phát âm. Điều này ảnh hưởng
nặng nề tâm lý người bệnh và chất lượng cuộc
sống và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Từ 1/2009 đến 11/2011 Khoa Tai Mũi Họng
bệnh viện Chợ Rẫy đã thực hiện phẫu thuật
chỉnh hình thanh quản có ghép sụn hoặc xương
cho 9 trường hợp, đạt được một số kết quả khả
quan.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán sẹo hẹp
thanh môn, hạ thanh môn được điều trị chỉnh
hình thanh môn, hạ thanh môn có ghép sụn hoặc
xương tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Chợ
Rẫy trong thời gian 3 năm (1/2009 đến 11/2011).
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt các trường hợp
có can thiệp lâm sàng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân được chẩn đoán sẹo hẹp
thanh môn, hạ thanh môn điều trị can thiệp
phẫu thuật chỉnh hình thanh môn, hạ thanh môn
có ghép sụn hoặc xương tại khoa Tai Mũi Họng
bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian 3 năm (1/2009
đến 11/2011).
Tiêu chuẩn loại trừ
Sẹo hẹp bẩm sinh hoặc hẹp đường thở do
chèn ép từ ngoài thanh quản hoặc do u.
Thu thập và xử lý số liệu
Tuổi và giới. Nguyên nhân của sẹo hẹp.
Phân loại sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn
theo bảng phân độ của Cotton. Qui trình điều
trị phẫu thuật sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh
môn trước đó. Kết quả điều trị.
Phân tích đánh giá về điều trị
Phẫu thuật: có ghép sụn, xương
+ Phẫu thuật Rethi.
+ Phẫu thuật Cotton
Phương pháp phẫu thuật(10,5)
Bệnh nhân nằm ngửa, gối dưới vai.
Đặt ống mũi dạ dày
Bệnh nhân mê nội khí quản
Rạch da ngang cổ ngang tầm sụn nhẫn
Bóc tách bộc lộ sụn nhẫn, sụn giáp
Mở vào sụn nhẫn, sụn giáp qua đường giữa
Đánh giá tổn thương, đoạn hẹp, đánh giá tổn
thương khung sụn.
Xẻ mặt đá sụn nhẫn tại đường giữa để tạo
chỗ trống để mô ghép vào.
Lấy vật liệu ghép: xương móng, sụn giáp,
sụn vách ngăn tùy vị trí và tổn thương
Đo kích thước mảnh ghép mặt trước và sau
thanh quản
Đặt mô ghép mặt sau sụn nhẫn, kỹ thuật đặt
sao cho hai bản sau sụn nhẫn kẹp giữ chắc mô
ghép
Khâu tái tạo mặt trước thanh quản với mô
ghép
Chấm Mitomycin tại mặt trong vết khâu tái
tạo
Đặt ống dẫn lưu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 418
Khâu da
Ghép sụn mặt sau thanh quản
Ghép sụn mặt trước thanh quản
Hậu phẫu
Kháng sinh, kháng viêm, chống trào ngược
Bệnh nhân mang ống thở có nòng trong
Rút dẫn lưu ngày thứ 3
Rút ống nuôi ăn ngày thứ 5
Theo dõi
Tái khám sau mỗi 2 tuần trong vòng 1 tháng
đầu
Tái khám sau mỗi tháng trong vòng 2 tháng.
Nhập viện, Rút ống nong sau 2 đến 3 tháng,
theo dõi 1 tuần
Đánh giá kết quả: Nội soi thanh khí quản
ống mềm kiểm tra sau rút ống
Soi kiểm tra
Sau mỗi 2 tuần trong vòng 1 tháng đầu
Sau mỗi tháng trong vòng 3 tháng.
Tái khám sau mỗi 3 tháng trong vòng 1 năm
KẾT QUẢ
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo độ tuổi
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
20–30 tuổi 2 22,2
31–40 tuổi 5 55,6
41–50 tuổi 2 22,2
Tuổi trung bình 35 ± 6 tuổi (từ 20 – 47tuổi),
chủ yếu tập trung trong nhóm từ 31 – 40 tuổi.
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giới tính
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Nam 8 88,9
Nữ 1 11,1
Hẹp thanh môn, hạ thanh môn gặp chủ yếu
là nam giới
Bảng 3: Tổn thương sụn đánh giá trên CTscan gây
sẹo hẹp khí quản
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Vỡ sụn nhẫn đơn thuần 5 55,6
Vỡ sụn nhẫn và sụn giáp 2 22,2
Vỡ sụn nhẫn, sụn giáp, sụn
khí quản
1 11,1
Tiêu sụn nhẫn, sụn giáp tự
miễn
1 11,1
Đa số các trường hợp do chấn thương/vết
thương vùng cổ bỏ quên hay không được xử trí
đúng.
Bảng 4: Các thủ thuật/phẫu thuật đã can thiệp trước
khi phẫu thuật
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Đặt ống Aboulker 4 44,5
Đặt ống T 1 11,1
Nong qua nội soi 3 33,3
Chưa can thiệp 4 44,5
Do có trường hợp bệnh nhân được can thiệp
thủ thuật/phẫu thuật trên 2 lần, nên tổng số các
trường hợp trên 100%. 5/9 các trường hợp bệnh
nhân đã có can thiệp thủ thuật/phẫu thuật trước
đó nhưng thất bại.
Bảng 5: Số lần can thiệp thủ thuật/phẫu thuật trước
đó
Số lần Số trường hợp Tỷ lệ (%)
0 lần 4 44,5
1 lần 2 22,2
2 lần 3 33,3
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 419
5,5 % các trường hợp bệnh nhân đã can thiệp
thủ thuật/phẫu thuật
Bảng 6: Đường kính nơi hẹp nhất trước mổ được đo
qua nội soi theo phân loại Cotton và Myer:
Độ (Cotton và Myer) Số trường hợp Tỷ lệ (%)
51-70% (II) 5 55,6
71-99% (III) 3 33,3
Bít hoàn toàn (IV) 1 11,1
Bảng 8: Vị trí ghép tái tạo sụn nhẫn, khí quản
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Ghép sụn mặt trước 4 44,5
Ghép sụn mặt trước và sau 5 55,6
Bảng 9: Kết quả
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Rút được ống nong 7 77,8
Mô hạt viêm cắt qua nội soi 3 33,3
Tái hẹp 2 22,2
7 trường hợp rút được ống nong, bệnh nhân
thở bình thường qua mũi, (trong đó có 3 trường
hợp phải cắt mô hạt viêm qua nội soi sau rút ống
nong). 2 trường hợp tái hẹp, bệnh nhân vẫn phải
đeo ống thở.
CTscan sẹo hẹp thanh quản Nội soi thanh quản trước chỉnh hình
Nội soi sau khi rút ống Aboulker Nội soi sau khi rút ống Aboulker 6 tháng
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình 35 ± 6 tuổi (từ 20 – 47
tuổi), chủ yếu tập trung trong nhóm từ 31 – 40
tuổi. Từ đó cho thấy nhóm bệnh nhân chủ yếu
nằm trung độ tuổi lao động, ảnh hưởng nhiều
đến bản thân, trở thành gánh nặng kinh tế cho
gia đình và xã hội.
Chủ yếu gặp ở nam giới. Tỉ lệ này phù hợp
với tình hình thực tế của chấn thương thanh khí
quản chung tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Nguyên nhân của sẹo hẹp thanh quản chủ
yếu do chấn thương thanh quản, mà đặc biệt là
vỡ sụn nhẫn bị bỏ quên hay được xử trí nhưng
không hiệu quả. Sụn nhẫn là sụn chính bảo đảm
bảo đảm đường kính trong của thanh quản. Do
cấu tạo giải phẫu sụn nhẫn là vòng sụn cứng
vòng sụn nhỏ phía trước, mặt đá lớn phía sau, đè
lên cột sống cổ. Chấn thương kín, cơ chế chấn
thương thường do cổ đập vào vật cứng, sụn
nhẫn bị đè ép giữa cột sống cổ phía sau và vật
cứng phía trước.
Chỉnh hình sẹo hẹp thanh quản là khó khăn
và thách thức hiện nay. Phương pháp điều trị
đặt ống nong Aboulker sau khi khoét rộng lòng
thanh quản đã được thực hiện trong nhiều năm
nhưng cho thấy tỷ lệ rút ống thành công còn rất
hạn chế. Chevalier Jackson và cộng sự đã đi đầu
trong chỉnh hình thanh quản từ năm 1935.
Phương pháp chỉnh hình thanh quản có ghép
sụn thành sau thanh quản đã được Rethi thực
hiện đầu tiên năm 1971. Cotton và Seid(3): đã mô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 420
tả ghép sụn sườn phía trước thanh quản.
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi 7/9
trường hợp đã được phẫu thuật trước: 4 trường
hợp tái hẹp sau đặt Aboulker không có ghép
sụn, 1 trường hợp tái hẹp sau phẫu thuật đặt ống
T, 3 trường hợp được điều trị nong qua nội soi
nhưng không hiệu quả, 4 trường hợp chưa được
can thiệp trước đó.
Nguyên nhân của cả 8/9 trường hợp sẹo hẹp
thanh quản là do vỡ sụn nhẫn sau chấn thương
nên trong quá trình phẫu thuật, có trường hợp
sụn vỡ thành nhiều mảnh, lòng thanh quản hạ
thanh môn hẹp hoàn toàn, việc bóc tác sụn nhẫn
rất khó khăn do mô viêm dính xung quanh sụn
nhẫn, do sự lành sẹo bên trong lòng thanh quản
tạo cho sụn nhẫn thành một khối xơ cứng. Việc
xác định lòng thanh quản trong những trường
hợp hẹp hoàn toàn rất khó, thường chúng tôi
phải đi từ dưới khí quản lên kết hợp từ trên
xuống. Hơn nữa việc xác định và cắt mặt đá sụn
nhẫn để ghép cũng gặp nhiều khó khăn do quá
trình xơ hóa và sẹo dính làm phần mặt đá sụn
nhẫn trở nên xơ cứng, có 3 trường hợp mặt đá
sụn nhẫn bị vỡ đường giữa phía sau, hai mép
chồng lên nhau và tạo ra 1 khối thống nhất cứng
và dày, càng làm lòng thanh quản hẹp đáng kể.
Theo tác giả Denise V. Guendert(10): tỉ lệ thành
công cho ghép sụn mặt trước thanh quản là
100%. Tỉ lệ thành công cho ghép sụn mặt sau sụn
nhẫn là 83%. Tỉ lệ thành công cho các trường
hợp mổ lại là 70%. Theo tác giả H. Laccourreye(11)
và cộng sự thì tỉ lệ rút ống chung cho các trường
là 89%. Trong lô nghiên của chúng tôi có 1
trường hợp hẹp thanh môn, hạ thanh môn do
teo sụn nhẫn, sụn giáp do bệnh tự miễn. Toàn bộ
sụn nhẫn, giáp teo nhỏ, làm bít hoàn toàn thanh
môn, hạ thanh môn. Chúng tôi đã sử dụng
xương móng và sụn vách ngăn để tái tạo sụn
nhẫn mặt trước và sau, tuy nhiên do sụn teo xơ
gần hoàn toàn nên việc tái tạo gặp nhiều khó
khăn và kết quả là bị tái hẹp, bệnh nhân không
rút được canule nhưng đường thở rộng hơn
trước mổ và bệnh nhân có thể phát âm được khi
bít lỗ thở.
Trên thế giới kỹ thuật cấy ghép sụn là một
phương pháp điều trị bảo tồn đầu tiên cho các
tổn thương mất chất nặng như Cotton và cộng
sự(3) đã có 68/107 (63,55%), đã sử dụng phương
pháp ghép sụn kết hợp đặt ống nong ngắn hạn.
Trong lịch sử cấy ghép tạo hình đường thở đã
trải qua các thời gian thăng trầm, các tác giả đi
trước như Narodick, Fonkalsrud(6) (sử dụng
màng xương), Meyer(14) (sử dụng niêm mạc má),
Grafoord(8), Đặng Hiếu Trưng(4) (sử dụng da và
sụn), Conley, Work(18) (sử dụng sụn vành tai), đã
dần cải tiến kỹ thuật này. Họ đã nhận thấy rõ
sụn và xương là hai chất liệu ghép tạo hình
thanh khí quản tốt nhất. Nhưng muốn chúng có
thể sống tốt trong môi trường cấy ghép thì cần
giữ lại phần màng sụn hoặc màng xương, hoặc
có cuống để bảo đảm sự nuôi dưỡng.
Kinh điển bệnh nhân được phẫu thuật theo
kiểu Rethi bổ sụn nhẫn mặt trước, sau, lấy hết tổ
chức sơ sùi trong thanh quản và đặt ống nong
dài hạn. Kỹ thuật này được chỉ định trong các
sẹo hẹp hạ thanh môn, hoặc phối hợp tầng thanh
quản hạ thanh môn với Cotton độ I, II, III. Ngày
nay kỹ thuật này được cải tiến bằng Grahne(9),
Fearon(5) và Cotton(3), làm rộng lòng thanh quản,
hạ thanh môn bằng cách bổ mặt trước, sau và cả
hai mặt bên của sụn nhẫn (sụn nhẫn là một vòng
sụn hoàn chỉnh của thanh quản, hạ thanh môn)
sau đó đặt các ống nong ngắn hạn.
Theo FearonB, Cotton RT(5) ông đã chỉnh hình
41 trẻ em sẹo hẹp thanh quản, hạ thanh môn
nặng (Cotton III, IV hẹp từ 90-100%) theo
phương pháp cải tiến hơn Rethi: chẻ sụn nhẫn có
ghép sụn mặt trước và sau để làm rộng lòng hạ
thanh môn có đặt ống nong ngắn hạn (6 tuần) đã
thành công hơn 90%. Đó là một kinh nghiệm tốt
cho chúng tôi để xử lý cho bệnh nhân loại này.
Phẫu thuật ghép sụn mặt trước và sau sụn
nhẫn, kiểu Rethi phối hợp Cotton có 5 trường
hợp: các bệnh bệnh nhân này đều là sẹo hẹp
thanh môn, hạ thanh môn phức tạp, và hẹp nặng
theo xếp loại Cotton độ III và IV. Kết quả có 2
trường hợp chưa rút được ống thở, trong đó có 1
trường hợp bệnh viêm sụn tự miễn, 1 trường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 421
hợp có cải thiện sau mổ, từ xếp loại hẹp hạ thanh
môn Cotton IV, sang Cotton I. Chúng tôi đang
tiến hành soi nong định kỳ. 4 trường hợp được
phẫu thuật ghép mặt trước sụn nhẫn đơn thuần
thì đều rút được ống thở.
Phương pháp cấy ghép điều trị sẹo hẹp
thanh môn, hạ thanh môn của chúng tôi có 9
trường hợp, theo kết quả nghiên cứu 7/9 (77,8%)
trường hợp rút được ống thở. Trong đó có 3
trường hợp cắt mô sùi sau rút ống nong (33,3%),
thất bại 2/9 (22,2%). Kết quả này chúng tôi còn
nhiều điều phải bàn luận về mặt chỉ định và kỹ
thuật tiến hành phẫu thuật.
Việc chọn lựa vật liệu để ghép cũng được
cân nhắc kỹ(2,12): Đối với các trường hợp có chỉ
định ghép mặt đá sụn nhẫn thì chúng tôi sử
dụng thân xương móng. Đây là vật ghép tốt và
thuận lợi cho thanh quản vì vị trí cận kề, kích
thước tương hợp đồng thời việc cắt bỏ thân
xương móng cũng không gây rối loạn gì về
chức năng họng thanh quản. Đối với các
trường hợp ghép phía trước sụn nhẫn và khí
quản đơn thuần thì chúng tôi chọn cánh sụn
giáp hoặc sụn vách ngăn mũi. Một phần cánh
sụn giáp là sụn thích hợp và cần kề, dễ lấy
trong quá trình phẫu thuật. Trong trường hợp
có chấn thương sụn giáp thì chúng tôi lấy vật
ghép từ sụn vách ngăn mũi. Việc lấy sụn từ
vách ngăn mũi cũng dễ dàng và không gây rối
loạn về chức năng của mũi.
Theo Rethi khi tái tạo mặt đá sụn nhẫn
khâu mảnh ghép vào mép sụn 2 bên, nhưng
chúng tôi đã cải tiến, áp dụng nguyên tắc
“gọng kìm” để cố định. Khi cắt tách đôi mặt
đá sụn nhẫn cần cắt thẳng theo chiều trước
sau, không cắt xéo, 2 mặt cắt phẳng đều, để
tạo điều kiện ôm sát mép mảnh ghép và kẹp
mảnh ghép cố định ở giữa. Kích thước và hình
dạng của mảnh ghép cần được do đạc chính
xác. Hình dạng mảnh ghép là hình thoi, 2 đầu
nhọn, chiều ngang mảnh ghép được đo sao
cho lòng thanh quản, hạ thanh môn sau khi
ghép tương đương lòng khí quản bên dưới.
Việc tạo hình ống Aboulker(1): cũng cần đo
đạc trước về chiều dài cũng như đường kính.
Chiều dài của ống bằng chiều dài của sẹo hẹp
cần tái tạo, đường kính tương đương với đường
kính khí quản. Chất liệu của ống, chúng tôi chọn
bằng silicon (sử dụng ống thông màng phổi.
Vị trí của ống: đầu trên ngang mức chân sụn
thanh thiệt nếu tổn thương thanh quản phần
trên dây thanh hoặc dưới hai dây thanh nếu tổn
thương ở khí quản mà hoạt động hai dây thanh
bình thường. Đầu dưới phụ thuộc vào vị trí tổn
thương phía trên lỗ mở khí quản.
Không có trường hợp nào xảy ra biến chứng
sớm như chảy máu, tràn khí dưới da hay bung
miệng nối.
Có 3 trường hợp mô hạt viêm sau rút ống
nong. Chúng tôi soi thanh khí quản cắt mô hạt
và chấm mitomycin, cho kết quả tốt. Nhiều tác
giả cho rằng mitomycin giảm mô hạt viêm, tuy
nhiên, cho tới nay vẫn chưa có nghiên cứu nào
chứng minh một cách khoa học về tác dụng của
Mitomycine. Do đó cần có nghiên cứu sâu hơn
để làm rõ vần đề này.
Chúng tôi không đánh giá được tình trạng
liệt dây thần kinh hồi quy sau phẫu thuật vì tất
cả các trường hợp đều có biến dạng, hạn chế cử
động dây thanh sụn phễu hay bít hoàn thoàn
thanh môn trước mổ.
Về thời gian đặt ống nong sau phẫu thuật, đa
số các tác giả cho rằng không nên đặt quá lâu vì
đây là dị vật, dễ tạo điều kiện bội nhiễm, gây
kích thích mọc mô hạt viêm. Theo tác giả M.
François(7) nghiên cứu liên quan thời gian đặt ống
và sự hình thành mô hạt viêm cũng như bội
nhiễm vi khuẩn Staphylococcus. aureus hay
Pseudomonas. aeruginosa tăng nguy cơ hình thành
mô hạt viêm.
Theo Myer, R(14) sử dụng phương pháp cải
tiến hơn Rethi: chẻ sụn nhẫn có ghép sụn mặt
trước và sau để làm rộng lòng hạ thanh môn có
đặt ống nong ngắn hạn (6 tuần) đã thành công
hơn 90%. Đó là một kinh nghiệm tốt cho chúng
tôi để xử lý cho bệnh nhân loại này.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 422
Gần đây Weerda, Cotton, Hof, Madda lozzo
và Holinger, Zalzal tất cả đều mô tả thành công
của họ trong việc sử dụng kỹ thuật điều trị này
trên bệnh nhân sẹo hẹp hạ thanh môn nặng hoặc
có kèm theo hẹp thanh quản, hoặc khí quản.
Tại Việt Nam, trong công trình nghiên cứu
của Đặng Hiếu Trưng(4) đã có 19/22 (86,3%)
trường hợp sẹo hẹp thanh khí quản điều trị
thành công.
Tất cả các bệnh nhân sẹo hẹp hạ thanh môn,
hạ thanh môn có mức độ tổn thương nặng
Cotton III, IV mà không có chỉ định cắt nối được,
với phương pháp này có lẽ an toàn hơn nên
phẫu thuật viên thường có xu hướng lựa chọn
đầu tiên cho bệnh nhân. Tất cả các yếu tố này
đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thành công
hay thất bại của phẫu thuật. Về mặt kỹ thuật
chúng ta còn có những điểm khác với một tác giả
như Grahne B:(9) và Robin Cotton(3) ông sử dụng
mảnh ghép sụn có giữ lại một mặt của màng sụn,
mảnh ghép thường gọt theo hình thuyền hoặc
oval, mặt màng sụn được đặt về phía lòng ống
thở và mảnh ghép của ống có thể đạt tới 4cm
chiều dài nối từ thanh quản hạ thanh môn đến
khí quản: có 10/11 (90,91%) thành công, chỉ có 1
trường hợp thất bại do tiêu sụn.
Theo kết quả của chúng tôi tỷ lệ thành công
là 77,8% rút được ống thở, tỷ lệ của tác giả
Cotton(3) có 88/107 bệnh nhân (82,24%) đã thành
công trong chỉnh hình bằng phương pháp ghép
sụn ở mặt trước sau.
Kết quả này đã đóng góp cho phẫu thuật
chỉnh hình sẹo hẹp thanh môn, hạ thanh môn
một bước phát triển mới.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật chỉnh hình sẹo hẹp thanh quản,
hạ thanh môn bằng ghép mô tái tạo sụn nhẫn
bước đầu cho kết quả khả quan.
77,8 % Bệnh nhân có thể trở về cuộc sống
sinh hoạt thường ngày.
Đây là phẫu thuật phức tạp, cần nghiên cứu
thêm về kỹ thuật cũng như theo dõi thêm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aboulker P (1968). "Chirurgie De la Trachee. Problèmes
actuels d'oto-rhino-laryngologie". Librairie Maloine, Paris. 275-
295.
2. Bailey JB (1993). Head and neck surgery – otolaryngology:
658- 671.
3. Cotton RT (1984). Pediatric Laryngotacheal Stenosis. J. Pedi-
atr, Surg., 19: 699-704.
4. Đặng Hiếu Trưng (1990). "Hẹp thanh khí quản do sẹo". Lâm
sàng và điều trị. Báo cáo Hội nghị tổng kết vết thương chiến
tranh đầu mặt cổ.
5. Fearon B, Cotton RT (1974). Surgical correction of subglottic
stenosis of the larynx in infants and children: Progress report.
Ann Otol Rhinol Laryngol; 83: 428.
6. Fonkalsrud EW and Plested WG (1951). Tracheobronchial
reconstruction with autologous periosteum. J, thor. surg., 22:
568-582.
7. François M (1995). Traitement des stenoses glotto sous –
glottique. finalization. volume 44. numero 2.: 108 – 113.
8. Graffoord C and Lingren AGH (1945). Mucous and li salivary
gland tumors in the bronchi and trachea. Acta chir. scand., 92:
481-506.
9. Grahne B (1971). Operative treatment of severe traumatic
laryngeal stenosis in infants up to 3 years old. Acta
Otolaryngol; 77: 134.
10. Guendert DV (1994). Laryngotracheal stenosis. november. 30.
11. Laccourreye H, Pech A et al (1985). Les sténoses laryngo –
trachéales de l’ adulte et de l’ enfant. 5 –12, 20 – 26, 126 – 135.
12. Lindholm CE (1995). Pathophysiology of larygotracheal
stenosis some importan anatomical dimensions. Acta oto-
rhino- larygologica belg., 1995. 4. 319- 32
13. Montgomery WW (1980). Manual for care of montgomery
silicone tracheal T tube. Ann ORL, Vol 89, 73: 1123-8.
14. Myer R (1972). New concepts in laryngotracheal
reconstruction. Trans. AM. Acad. Ophthalmol. Otolaryngol.,
76: 758-766.
15. Phạm Thanh Sơn và các bác sĩ khoa Tai- mũi- họng bệnh viện
Chợ Rẫy (1997). Những vấn đề được đặt ra trong sẹo hẹp
thanh khí quản. Số đặc biệt hội nghị khoa học kỹ thuật tuổi trẻ
đại học y dược lần thứ xv. tập 1: 161 – 163.
16. Trần Phan Chung Thủy (2007), “Nghiên cứu tình hình chấn
thương thanh khí quản tại khoa TMH BV Chợ Rẫy từ 1/2005
đến 10/2006”, Hội nghị khoa học kỹ thuật trường đại học y
dược thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007.
17. Wilson D (1999). Subglottic stenosis. april 14.
18. Work WP and Coulthard SW (1976). The injured a new
surgical procedure for repair. Tran. am. acad. Ophthalmol.
Otolaryngol., 82: 400-465.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_chinh_hinh_sun_nhan_trong_dieu_tri_seo_hep_thanh.pdf