Phương pháp dẫn lưu dịch dưới màng cứng
có tỉ lệ thành công 60‐70% theo các nghiên cứu
trước đây(1,2). Tỉ lệ thành công sẽ cao hơn nếu lưu
ống dẫn lưu lâu, kiểm soát lượng dịch dẫn lưu
bằng cách điều chỉnh độ cao của hệ thống dẫn
lưu thay vì rút ống dẫn lưu sớm. Thời gian lưu
ống dẫn lưu thường 3‐8 ngày. Liên quan đến
biến chứng nhiễm trùng, tỉ lệ nhiễm trùng trong
các nghiên cứu trước đây lần lượt là 4,5% trong
nghiên cứu của Jun Beom Cho & cs(5), 3% sau 12
ngày lưu dẫn lưu trong nghiên cứu của
Caldarelli & cs(1). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, không có trường hợp nào có biến chứng
nhiễm trùng sau dẫn lưu. Trong 3 bệnh nhân
của chúng tôi có 2 trường hợp tái phát, phải
phẫu thuật dẫn lưu dịch tới lần thứ 3. Tuy cỡ
mẫu chỉ có 3 trường hợp, không đại diện được,
nhưng tỉ lệ tái phát này cao hơn các nghiên cứu
trước đây. Điều này có thể lí giải các bệnh nhân
của chúng tôi có các nguy cơ tái phát như tụ dịch
dưới màng cứng 2 bên, đậm độ dịch hổn hợp
trên hình ảnh CLVT, não teo, bất cân xứng của
não và hộp sọ, dẫn tới não không dãn nỡ tốt sau
phẫu thuật dẫn lưu. Mặc dù có tỉ lệ thành công
cao hơn, nhưng phẫu thuật đặt shunt dưới màng
cứng phúc mạc không phải là chọn lựa ưu tiên
trên các bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn
tính vì tỉ lệ biến chứng sớm và muộn cao. Với
phẫu thuật đặt shunt vào ổ bụng, tỉ lệ nhiễm
trùng cũng tương đương với phương pháp dẫn
lưu dưới màng cứng ra ngoài, trong khi nguy cơ
tắc dẫn lưu cao hơn, đặc biệt trong các trường
hợp tụ dịch có lẫn máu dưới màng cứng mạn
tính. Và thường bệnh nhân cần thêm một cuộc
mổ để tháo bỏ shunt. Theo Erahin, tỉ lệ biến
chứng của đặt shunt dưới màng cứng‐khoan
phúc mạc là 36 % (bao gồm tắc shunt, nhiễm
trùng shunt, shunt lạc chỗ, không dủ dẫn lưu tụ
dịch 2 bên, hoại tử da)(2). Tuy vậy một số trường
hợp thất bại với phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới
màng cứng, thì việc đặt shunt dưới màng cứng
phúc mạc là một chọn lựa tiếp theo. Theo quan
điểm của chúng tôi, việc đặt shunt dưới màng
cứng‐ khoan phúc mạc nên cân nhắc vì những
biến chứng tiềm tàng trên bệnh nhi có khoảng
thời gian sống còn rất dài. Do vậy, chúng tôi ưu
tiên phương pháp phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới
màng cứng hơn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật dẫn lưu dịch trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương ở trẻ em – nhân 3 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 247
PHẪU THUẬT DẪN LƯU DỊCH TRONG ĐIỀU TRỊ TỤ DỊCH
DƯỚI MÀNG CỨNG MẠN TÍNH DO CHẤN THƯƠNG Ở TRẺ EM –
NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Phong*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phẫu thuật dẫn lưu dịch là một trong những phương pháp được sử dụng để điều trị tụ dịch dưới
màng cứng ở trẻ em. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về phương pháp này. Nghiên cứu nhằm
khảo sát kết quả bước đầu của loại phẫu thuật này trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn
thương ở trẻ em.
Phương pháp: Mô tả tiến cứu hàng loạt ca. Từ 01/01/2012 đến 01/05/2014, tại bệnh viện Chợ Rẫy có 3
bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn thương được điều trị bằng phương pháp dẫn lưu dịch.
Kết quả: 3 bệnh nhân trong nghiên cứu, có 2 bệnh nhân 12 tháng tuổi và 1 bệnh nhân 34 tháng tuổi, cả 3
bệnh nhân đều có tiền căn chấn thương đầu cách 1‐5 tháng. Triệu chứng lâm sàng trước phẫu thuật là: mờ mắt
(1BN), quấy khóc, kích thích (2BN), động kinh (1BN), đầu to (1BN), thóp căng (1BN). Cả 3 bệnh nhân có hình
hình ảnh CLVT và MRI trước mổ tụ dịch dưới màng cứng 2 bán cầu. Các bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật
dẫn lưu dịch tổng cộng 7 lần, thời gian lưu dẫn lưu từ 5‐7 ngày. Kết quả có 1 bệnh nhân thành công sau 1 lần
phẫu thuật, 2 bệnh nhân tái phát cần phẫu thuật dẫn lưu dịch, mỗi bệnh nhân 3 lần. Không biến chứng sau phẫu
thuật. Thời gian theo dõi sau phẫu thuật 5‐10 tháng, cả 3 trường hợp triệu chứng lâm sàng đều cải thiện, phát
triển bình thường.
Kết luận: Tuy với tỉ lệ tái phát khá cao, nhưng phương pháp dẫn lưu dịch là phương pháp điều trị đơn giản,
ít biến chứng, cần được xem xét chọn lựa trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn do chấn thương ở trẻ em.
Từ khóa: tụ dịch dưới màng cứng mạn tính, tụ máu dưới màng cứng mạn tính, trẻ em, chấn thương, dẫn
lưu dịch.
ABSTRACT
SUBDURAL DRAINAGE SURGERY IN TREATMENT FOR THE CHILDREN WITH TRAUMATIC
CHRONIC SUBDURAL HYGROMA‐ REPORT OF 3 CASES
Nguyen Phong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 247 – 252
Objective: Subdural drainage surgery is one of the treatment options for the children with traumatic
chronic subdural hygroma and there are only a few reports about that in Vietnam. The goal of this research is
to evaluate the initial results of this surgery in the treatment of the children with traumatic chronic subdural
hygroma.
Methods: Prospective case series. Three patients with traumatic chronic subdural hygroma underwent
the subdural drainage operations at Cho Ray hospital between January 2012 and May 2014.
Results: In three patients, there are two 12 months old infants and one 34 months old child, all have the
history of head trauma 1‐5 months before. Pre‐operation clinical manifestations are visual deficit (1pts),
Irritability (2pts), seizure (1pts), macrocrania (1pts), bulging fontanel (1pts). CLVT and MR imaging
demonstrate bilateral subdural hydgroma in all three patients. They have received 7 subdural external
drainage procedures, which were maintained 5‐7 days. It was effective in one patients, where as in another 2
* Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Phong; ĐT: 0903 744 085; Email: drnguyenphong@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 248
it needs to perform 2 more subdural drainage procedures. There was no post‐operation complication. All the
patients have good clinical outcomes within 5‐10 months follow up.
Conclusion: Despite of the relatively high recurrence rate, subdural drainage is a simple procedure, less
of complications. Therefore, this method should be considered in initial treatment for the children with
traumatic chronic subdural hygroma.
Keywords: Chronic subdural hygroma, chronic subdural hematoma, children, trauma, subdural
drainage
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở trẻ em, thuật ngữ tụ dịch dưới màng cứng
mạn tính để chỉ một nhóm bệnh bao gồm máu
tụ dưới màng cứng mạn tính và tụ dịch não tủy
dưới màng cứng mạn tính. Tụ dịch não tủy dưới
màng cứng mạn tính có thể diễn tiến thành máu
tụ dưới màng cứng mạn tính sau 3‐ 4 tuần, có
thể gây khó khăn trong việc chẩn đoán(5). Tỉ lệ
tiến triển từ tụ dịch não tủy dưới màng cứng
mạn tính thành máu tụ dưới màng cứng ở trẻ
em và người lớn khoảng 33%(7), chưa có tỉ lệ
riêng cho trẻ em. 90% trường hợp tụ dịch dưới
màng cứng mạn tính xảy ra ở trẻ em dưới hai
tuổi, độ tuổi trung bình là 10 tháng(2). Hai
nguyên nhân hàng đầu là chấn thương và viêm
màng não vi trùng, các nguyên nhân hiếm gặp
hơn như biến chứng của đặt shunt và ở một số
trường hợp không tìm thấy nguyên nhân(2,3). Tụ
dịch dưới màng cứng mạn tính có thể biểu hiện
lâm sàng ở 2 nhóm có triệu chứng và không có
triệu chứng. Lâm sàng của tụ dịch dưới màng
cứng bao gồm triệu chứng tăng áp lực nội sọ
(đau đầu, nôn ói, thóp trán phồng), dấu thần
kinh khu trú, động kinh, chậm phát triển. Việc
chẩn đoán thường được dựa vào hình ảnh trên
CLVT sọ não có hoặc không có cản quang và
MRI sọ não. Về phương diện điều trị, hiện nay
vẫn chưa có sự thống nhất. Phần lớn các trường
hợp tụ dịch dưới màng cứng mạn tính lành tính
không triệu chứng ở trẻ nhũ nhi sẽ tự hấp thu,
thường trong khoảng 8‐9 tháng. Thủ thuật chọc
xuyên thóp có thể sử dụng với mục đích chẩn
đoán (loại trừ trường hợp teo não và nhiễm
trùng) và có thể làm tăng thêm tỉ lệ tự hấp thu
dịch. Khi điều trị bảo tồn, bệnh nhân cần được
theo dõi chu vi vòng đầu mỗi 3‐6 tháng, siêu âm
xuyên thóp, CLVT hoặc MRI kiểm tra. Đối với
các trường hợp tụ dịch dưới màng cứng có triệu
chứng, cần phải điều trị. Các phương pháp có
thể chọn lựa là: (1) chọc xuyên thóp nhiều lần,
hiệu quả của phương pháp này còn chưa được
kiểm chứng đầy đủ, kết quả chưa được thống
nhất giữa các nghiên cứu. (2) khoan sọ một lỗ
dẫn lưu, phương pháp này có ưu điểm là đơn
giản tuy nhiên không hiệu quả trong các trường
hợp mất cân xứng sọ và nhu mô não nặng, nhu
mô não không giãn nở được. (3) Đặt shunt dưới
màng cứng – màng bụng, đặt shunt một bên có
thể dẫn lưu tụ dịch hai bên. Áp lực rất thấp được
sử dụng, và shunt được rút bỏ sau 2‐3 tháng một
khi mục đích dẫn lưu đã đạt được để giảm khả
năng biến chứng vôi hóa shunt, nguy cơ động
kinh sau này(3). Tuy nhiên bất lợi là nhiều biến
chứng hơn: nhiễm trùng shunt, tắc shunt, thay
đổi nhu động ruột. Năm 2005, trong nghiên cứu
trên 25 trường hợp tụ dịch dưới màng cứng
mạn, Jun Beom Cho và cộng sự đã kết luận khi
chỉ định phẫu thuật, phương pháp nên chọn là
khoan sọ một lỗ dẫn lưu vì phương pháp này
đơn giản hơn đặt shunt dưới màng cứng –màng
bụng và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về thời gian tái phát tụ dịch giữa hai nhóm
khoan sọ một lỗ và đặt shunt(5). Năm 2011,Klimo
P Jr và cộng sự đã nghiên cứu phẫu thuật 26
trường hợp tụ dịch dưới màng cứng mạn, và kết
luận mở sọ nhỏ có ưu thế hơn khoan sọ một lỗ, tỉ
lệ thành công ở nhóm mở sọ nhỏ và nhóm
khoan sọ một lỗ lần lượt là 80% và 70%(6).Ở Việt
Nam, hiện tại có rất ít công trình nghiên cứu về
tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn
thương ở trẻ em. Kết quả điều trị bằng phương
pháp khoan sọ một lỗ dẫn lưu dịch còn chưa rõ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 249
ràng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện
nghiên cứu khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng và điều trị phẫu thuật dẫn lưu dịch ở bệnh
nhi tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do chấn
thương tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả đặc điểm lâm sàng tụ dịch dưới màng
cứng do chấn thương ở trẻ em.
Khảo sát kết quả điều trị tụ dịch dưới màng
cứng do chấn thương ở trẻ em bằng phương
pháp phẫu thuật dẫn lưu dịch.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp trẻ em được chẩn
đoán tụ dịch dưới màng cứng do chấn thương
và được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật
dẫn lưu dịch tại khoa ngoại Thần Kinh bệnh
viện Chợ Rẫy từ 01/01/2012 đến 01/05/2014.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả tiền cứu hàng loạt ca.
Cách chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện.
Cách thức tiến hành
Thu thập các dữ liệu lâm sàng và cận lâm
sàng, kết quả phẫu thuật và theo dõi diễn tiến
theo mẫu bệnh án có sẵn cho tất cả bệnh nhân.
Các biến số nghiên cứu bao gồm: tuổi, giới, lý
do nhập viện, thời gian bệnh sử, triệu chứng
lâm sàng, hình thái tụ dịch dựa trên CT và
MRI, biến chứng sau phẫu thuật. Triệu chứng
lâm sàng được so sánh trước và sau phẫu
thuật. Chỉ định phẫu thuật dẫn lưu dịch cho
các bệnh nhân có triệu chứng tăng áp lực nội
sọ, tăng kích thước vòng đầu, động kinh, có
dấu thần kinh khu trú, chậm phát triển trí tuệ
và khi bề dày lớp dịch trên 7mm. Kỹ thuật mổ:
Bệnh nhân nằm ngữa, mê nội khí quản, rạch
da đường thẳng nhỏ ở trán, khoan sọ một lỗ,
xẻ, đốt màng cứng và bao máu tụ, bơm rữa
bằng ống dẫn lưu mềm, ống dẫn lưu được
luồn dưới da và nối với hệ thống dẫn lưu
ngoài, lưu thời gian 5‐7 ngày, bình dẫn lưu
được đặt thấp dưới đầu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian 2,5 năm, có 3 trường hợp
bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn tính do
chấn thương được phẫu thuật dẫn lưu dịch. Cả 3
bệnh nhân đều là nam, tuổi từ 12‐34 tháng.
Trường hợp 1
Bệnh nhân nam 34 tháng có tiền căn chấn
thương đầu cách 1 tháng, được điều trị nội
khoa, chụp CLVT đầu kiểm tra sau 1 tháng có
hình ảnh tụ dịch dưới màng cứng hai bán cầu
(Hình 1). Lâm sàng trước phẫu thuật, bệnh
nhân biểu hiện mờ 2 mắt. Kết quả soi đáy mắt:
teo gai thứ phát sau phù gai. Bệnh nhân được
phẫu thuật dẫn lưu tụ dịch dưới màng cứng
mạn 2 bán cầu. Tính chất dịch trong lúc phẫu
thuật: dịch màu vàng chanh, áp lực cao, không
có bao fibrin. Dẫn lưu được rút sau 6 ngày. Kết
quả sau phẫu thuật tốt, không biến chứng.
CLVT đầu kiểm tra: nhu mô não nở tốt, hết tụ
dịch. Theo dõi sau 5 tháng, bệnh nhân phát
triển tốt, không triệu chứng lâm sàng.
Hình 1: Trường hợp 1,A,B: hình ảnh CLVT đầu
trước mổ, C,D: hình ảnh CLVT đầu sau mổ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 250
Trường hợp 2
Bệnh nhân nam 12 tháng tuổi có tiền căn
chấn thương cách 5 tháng, nhập viện vì quấy
khóc, kích thích. Lâm sàng bệnh nhân trước mổ:
thóp căng, đầu to (vòng đầu 49 cm, Percentile
97,2), không động kinh, không dấu thần kinh
định vị. Hình ảnh CLVT và MRI trước mổ: tụ
dịch dưới màng cứng mạn 2 bán cầu kèm teo
não (Hình 2A). Bệnh nhân được phẫu thuật dẫn
lưu dịch dưới màng cứng bán cầu bên trái và
dẫn lưu máu tụ bán cầu bên phải 1 tuần sau
(Hình 2B). Tính chất dịch trong lúc phẫu thuật:
bán cầu trái dịch vàng chanh, áp lực cao, bên
phải dịch hồng có bao fibrin. Sau phẫu thuật lâm
sàng bệnh nhân cải thiện, được xuất viện. Sau 2
tháng, bệnh nhân biểu hiện quấy khóc, bú kém
được chụp MRI sọ não kiểm tra, có hình ảnh
máu tụ dưới màng cứng 2 bán cầu (Hình 2C),
bệnh nhân được mổ dẫn lưu máu tụ dưới màng
cứng 2 bán cầu lần 2. 2 tháng sau, bệnh nhân tái
khám được chụp MRI sọ não kiểm tra, còn máu
tụ dưới màng cứng mạn bán cầu phải, tiếp tục
được phẫu thuật dẫn lưu máu tụ dưới màng
cứng bán cầu phải (Hình 2 D). Sau phẫu thuật
không biến chứng. Hình ảnh CLVT đầu kiểm tra
sau 1 tháng, nhu mô não nở tốt, hết tụ dịch. Lâm
sàng theo dõi sau 10 tháng, Bệnh nhân không
triệu chứng, phát triển bình thường.
Hình 2: trường hợp 2, A: MRI sọ não trước mổ lần 1, B: CLVT sọ não sau mổ lần 1, C: MRI sọ não trước mổ lần 2, C:
hình ảnh CLVT não sau mổ lần 2, E: MRI sọ não trước mổ lần 3, F: hình ảnh CLVT đầu kiểm tra sau 3 tháng
Trường hợp 3
Bệnh nhân nam 12 tháng tuổi có tiền căn
chấn thương đầu cách 2 tháng, nhập viện vì
động kinh. Lâm sàng trước mổ không ghi nhận
triệu chứng tăng áp lực nội sọ, dấu thần kinh
khu trú. Bệnh nhân được chọc xuyên thóp rút ra
50ml máu đen loãng. Bệnh nhân được phẫu
thuật dẫn lưu máu tụ dưới màng cứng hai bán
cầu ( Hình 3A). Lâm sàng ổn xuất viện, sau 2
tháng bệnh nhân có những cơn gồng người,
quấy khóc, hình ảnh chụp CLVT sọ não có máu
tụ dưới màng cứng 2 bán cầu (Hình 3E). Bệnh
nhân được phẫu thuật dẫn lưu máu tụ dưới
màng cứng 2 bán cầu lần 2, tính chất dịch vàng
chanh có bao fibrin. Sau 1 tháng, Bệnh nhân
được chụp MRI sọ não kiểm tra, còn máu tụ
dưới màng cứng 2 bán cầu (Hình 3F), bệnh nhân
được phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới màng cứng 2
bán cầu lần 3. Tính chất dịch màu vàng chanh có
bao fibrin dày. Sau phẫu thuật không biến
chứng. Lâm sàng theo dõi sau 10 tháng, bệnh
nhân hết triệu chứng, phát triển bình thường.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 251
Hình 3: trường hợp 3, A: Hình CLVT đầu lúc nhập viên, B: Hình CLVT đầu sau chọc thóp, C,D: Hình CLVT
đầu trước và sau phẫu thuật lần 1. E: hình CLVT đầu trước phẫu thuật dẫn lưu dịch lần 2, F: hình MRI não
trước phẫu thuật dẫn lưu dịch lần 3
BÀN LUẬN
Tụ dịch dưới màng cứng mạn tính ở trẻ em là
thương tổn hiếm gặp, tần suất khoảng 21/100000
trẻ(4), 90% xảy ra ở độ tuổi dưới 2 tuổi, trung bình
là 10 tháng tuổi. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
có 2 bệnh nhân 12 tháng tuổi và 1 bệnh nhân 34
tháng tuổi, cả 3 bệnh nhân đều là nam, có tiền căn
chấn thương đầu cách 1‐5 tháng. Triệu chứng lâm
sàng trước phẫu thuật là: mờ mắt (1BN), quấy
khóc, kích thích (2BN), động kinh (1BN), đầu to
(1BN), thóp căng (1BN). Triệu chứng lâm sàng
tương tự như trong các nghiên cứu khác của
Caldarelli M, Jun Beom Cho(1,5). Về phương diện
chẩn đoán hình ảnh, hình ảnh CLVT và MRI sẽ
giúp chẩn đoán phân biệt với tụ dịch dưới màng
nhện lành tính ở trẻ em (đầu nước bên
ngoài),thương tổn không cần phẫu thuật. Cả 3
bệnh nhân trong nghiên cứu đều có tụ dịch dưới
màng cứng 2 bán cầu. Về phương diện điều trị,
điều trị tụ dịch dưới màng cứng ở trẻ em có rất ít
nghiên cứu so với tụ máu dưới màng cứng ở
người lớn. Ở người lớn, hiệu quả của nhiều
phương pháp phẫu thuật đã được nghiên cứu
(bao gồm:khoan sọ một lỗ có kèm dẫn lưu dưới
màng cứng hoặc không, khoan sọ 2 lỗ, mở sọ)
tuy nhiên vai trò của dẫn lưu dưới màng cứng
luôn được nhấn mạnh, làm giảm đáng kể tỉ lệ tái
phát. Ở trẻ em, các phương pháp điều trị hiện nay
bao gồm (i) chọc xuyên thóp, (ii) khoan sọ một lỗ,
đặt dẫn lưu dưới màng cứng, (iii) đặt shunt dưới
màng cứng‐ ổ bụng. Mỗi phương pháp đều có
ưu, nhược điểm riêng. Chọc hút xuyên thóp là
phường pháp ít xâm lấn nhất, có thể thực hiện
nhanh,tại giường bệnh, có thể lặp lại, tuy nhiên
chỉ có thể áp dụng trong khoảng thời gian giới
hạn (thường dưới 2 tuần) có thể kèm các nguy cơ
nhiễm trùng, xuất huyết nội sọ, tổn thương nhu
mô tăng lên theo số lần chọc hút. Phương pháp
này không thể áp dụng cho trường hợp tụ dịch
dưới màng cứng nhiều ổ, hoặc khu trú. Tỉ lệ thất
bại của phương pháp này là 78% trong nghiên
cứu của Litofsky(8), là 42 % trong nghiên cứu của
của Tolias và 25 % bệnh nhân sẽ có biến chứng tụ
mủ dưới màng cứng(9). Do đó, hiện tại phương
pháp này ít được sử dụng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 252
Phương pháp dẫn lưu dịch dưới màng cứng
có tỉ lệ thành công 60‐70% theo các nghiên cứu
trước đây(1,2). Tỉ lệ thành công sẽ cao hơn nếu lưu
ống dẫn lưu lâu, kiểm soát lượng dịch dẫn lưu
bằng cách điều chỉnh độ cao của hệ thống dẫn
lưu thay vì rút ống dẫn lưu sớm. Thời gian lưu
ống dẫn lưu thường 3‐8 ngày. Liên quan đến
biến chứng nhiễm trùng, tỉ lệ nhiễm trùng trong
các nghiên cứu trước đây lần lượt là 4,5% trong
nghiên cứu của Jun Beom Cho & cs(5), 3% sau 12
ngày lưu dẫn lưu trong nghiên cứu của
Caldarelli & cs(1). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, không có trường hợp nào có biến chứng
nhiễm trùng sau dẫn lưu. Trong 3 bệnh nhân
của chúng tôi có 2 trường hợp tái phát, phải
phẫu thuật dẫn lưu dịch tới lần thứ 3. Tuy cỡ
mẫu chỉ có 3 trường hợp, không đại diện được,
nhưng tỉ lệ tái phát này cao hơn các nghiên cứu
trước đây. Điều này có thể lí giải các bệnh nhân
của chúng tôi có các nguy cơ tái phát như tụ dịch
dưới màng cứng 2 bên, đậm độ dịch hổn hợp
trên hình ảnh CLVT, não teo, bất cân xứng của
não và hộp sọ, dẫn tới não không dãn nỡ tốt sau
phẫu thuật dẫn lưu. Mặc dù có tỉ lệ thành công
cao hơn, nhưng phẫu thuật đặt shunt dưới màng
cứng phúc mạc không phải là chọn lựa ưu tiên
trên các bệnh nhân tụ dịch dưới màng cứng mạn
tính vì tỉ lệ biến chứng sớm và muộn cao. Với
phẫu thuật đặt shunt vào ổ bụng, tỉ lệ nhiễm
trùng cũng tương đương với phương pháp dẫn
lưu dưới màng cứng ra ngoài, trong khi nguy cơ
tắc dẫn lưu cao hơn, đặc biệt trong các trường
hợp tụ dịch có lẫn máu dưới màng cứng mạn
tính. Và thường bệnh nhân cần thêm một cuộc
mổ để tháo bỏ shunt. Theo Erahin, tỉ lệ biến
chứng của đặt shunt dưới màng cứng‐khoan
phúc mạc là 36 % (bao gồm tắc shunt, nhiễm
trùng shunt, shunt lạc chỗ, không dủ dẫn lưu tụ
dịch 2 bên, hoại tử da)(2). Tuy vậy một số trường
hợp thất bại với phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới
màng cứng, thì việc đặt shunt dưới màng cứng
phúc mạc là một chọn lựa tiếp theo. Theo quan
điểm của chúng tôi, việc đặt shunt dưới màng
cứng‐ khoan phúc mạc nên cân nhắc vì những
biến chứng tiềm tàng trên bệnh nhi có khoảng
thời gian sống còn rất dài. Do vậy, chúng tôi ưu
tiên phương pháp phẫu thuật dẫn lưu dịch dưới
màng cứng hơn.
KẾT LUẬN
Tuy với tỉ lệ tái phát khá cao, nhưng phương
pháp dẫn lưu dịch là phương pháp điều trị đơn
giản, ít biến chứng cần được xem xét chọn lựa
trong điều trị tụ dịch dưới màng cứng mạn do
chấn thương ở trẻ em. Nghiên cứu này với cỡ
mẫu nhỏ, chưa đại diện cần có các nghiên cứu
tiếp theo để có những bằng chứng tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Caldarelli M, Di Rocco C, Romani R (2000). Surgical treatment
of chronic subdural hygroma in infants and children. Acta
Neurochir, 144:581‐588.
2. Ersahin Y, Tabur E, Kocaman S, Mutluer S (2000).
Complications of subduroperitoneal shunting. Child Nerv Syst,
16:433‐36.
3. Greenberg MS (2010). Traumatic subdural hygroma. In:
Greenberg MS (ed) Handbook of Neurosurgery,7th edition,
pp903‐905, Thieme.
4. Jayawant S, Rawlinson A, Gibbon F, Price J, Schulte J,
Sharples P (1998) Subdural haemorrhages in infants:
population based study. BMJ 317: 1558‐1561.
5. Jun Beom Cho, Ki Hong Cho, Se Hyuk Kim, Yong Sam Shin,
Wonchung Lee & Soo Han Yoon (2005). Surgical Treatment of
Subdural Hygromas in Infants and Children. J Korean
Neurosurg Soc, 38:273‐280.
6. Klimo P Jr, Matthews A, Lew SM, Zwienenberg‐Lee M &
Kaufman BA (2011). Minicraniotomy versus bur holes for
evacuation of chronic subdural collections in infants‐a
preliminary single‐institution experience. J Neurosurg Pediatr,
8(5):423‐429.
7. Lee KS, Bae WK, Bae HG & Yun IG (2000). The fate of
traumatic subdural hygroma in serial computed tomographic
scan. J Korean Med Sci, 15:560‐568.
8. Litofsky NS, Raffel C, McComb JG (1992). Management of
symptomatic chronic extra‐axial fluid collections in pediatric
patients. Neurosurgery 31:445–450.
9. Tolias C, Sgouros S, Walsh AR, Hockley AD (2000). Outcome
of surgical treatment for subdural fluid collections in infants.
Pediatr Neurosurg 33:194–197.
Ngày nhận bài báo: 21/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 2/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 5/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_dan_luu_dich_trong_dieu_tri_tu_dich_duoi_mang_cun.pdf