Phẫu thuật nẹp vít cuống sống trong điều trị lao cột sống ngực và thắt lưng

Mức độ hàn xương đóng vai trò quan trọng trong sự hồi phục hoàn toàn của bệnh lí lao cột sống. Dobson báo cáo tỉ lệ hàn xương trên các bệnh nhân được điều trị nội khoa đơn thuần là 27%(1). Một số báo cáo cho thấy tỉ lệ hàn xương trên các bệnh nhân không phẫu thuật là 65 – 79%(2). Zili L. Báo cáo tỉ lệ hàn xương đạt 100% trong 1 nghiên cứu gồm 37 bệnh nhân lao cột sống ngực lưng được điều trị phẫu thuật nẹp vít cuống cung và hàn xương liên thân sống(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ hàn xương đạt 57,1% với thời gian trung bình 4,6 ± 0,9 tháng. Trong nghiên cứu, các bệnh nhân được điều trị nội khoa bằng thuốc kháng lao trước khi phẫu thuật, sau phẫu thuật tiếp tục điều trị thuốc đủ phác đồ và tái khám theo hẹn. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, chỉ định phẫu thuật lao cột sống cần được xem xét trên các bệnh nhân có: 1) có dấu thần kinh khu trú và mất vững cột sống cơ học hoặc biến dạng cột sống; 2) kém đáp ứng với điều trị nội khoa; 3) dấu thần kinh khu trú tiến triển trong quá trình điều trị; 4) tăng kích thước tổn thương trên MRI; 5) không dung nạp thuốc kháng lao. Kỹ thuật nẹp vít cuống cung vẫn có một số hạn chế trong điều trị lao cột sống. Tiếp cận lối sau có thể làm lan rộng tổn thương lao từ phía trước đến phần mô bình thường. Thêm nữa, để nạo sạch mô viêm và giải ép ống sống, cần phải mở rộng phần cột sau nguyên vẹn của cột sống, ảnh hưởng đến độ vững cột sống. Nghiên cứu cần thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá chính xác hơn khả năng liền xương và lành bệnh.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nẹp vít cuống sống trong điều trị lao cột sống ngực và thắt lưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 68 PHẪU THUẬT NẸP VÍT CUỐNG SỐNG TRONG ĐIỀU TRỊ   LAO CỘT SỐNG NGỰC VÀ THẮT LƯNG  Phan Quang Sơn*, Nguyễn Đình Tùng*, Nguyễn Tấn Hùng*, Phan Minh Đức*, Nguyễn Trọng Hiếu*,  Trịnh Đình Lợi*  TÓM TẮT   Đặt vấn đề: Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nẹp vít cuống cung trong điều trị lao cột sống ngực và thắt lưng.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu 21 trường hợp được chẩn đoán lao cột sống  ngực và thắt lưng, được phẫu thuật lối trước bên  tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 6/2013 đến tháng 6/2014. Các  đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học, chỉ định và phương pháp phẫu thuật, kết quả phẫu thuật được đánh giá trước  và sau mổ. Phương pháp phẫu thuật: nạo sạch mô viêm, làm cứng khớp bằng nẹp vít cuống cung, có hoặc không  kèm ghép liên thân sống.  Kết quả: 21 bệnh nhân bao gồm 10 nam và 11 nữ, tuổi trung bình 43,2 tuổi. Thời gian theo dõi trung bình  6.6 tháng. Chỉ định phẫu thuật gồm: áp xe ngoài màng tủy, hủy xương mất vững, gù tiến triển, dấu thần kinh  khu trú mới. Hồi phục vận động ghi nhận trong 81,3% trường hợp. Góc gù được chỉnh từ 38,3⁰ ± 7,2⁰ xuống  còn 8,5⁰ ± 7,4⁰. Không ghi nhận trường hợp nào tái phát hay gù tiến triển sau mổ.  Kết luận: Phẫu thuật nẹp vít cuống cung là phẫu thuật hợp lý cho các trường hợp lao cột sống ngực và thắt  lưng có chỉ định mổ. Phẫu thuật giúp điều chỉnh góc gù, tạo độ vững cho cột sống, giúp bệnh nhân vận động  sớm. Sự hiện diện của nẹp vít trong ổ nhiễm không cản trở điều trị hay gây tái phát lao cột sống.  Từ khóa: lao cột sống ngực và thắt lưng, biến dạng gù, phẫu thuật nẹp vít cuống cung .  ABSTRACT TREATMENT OF THORACIC AND LUMBAR TUBERCULOUS SPONDYLITIS   WITH TRANSPEDICULAR SCREW FIXATION  Phan Quang Son, Nguyen Dinh Tung, Nguyen Tan Hung, Phan Minh Duc, Nguyen Trong Hieu,   Trinh Dinh Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 68 – 72  Objectives: To  assess  the  efficacy  of  transpedicular  fixation  as  an  alternative  treatment  for  thoracic  and  lumbar spinal tuberculosis.  Methods: Between 6/2013 and 6/2014, 21 patients with thoracic and lumbar tuberculous spondylitis were  diagnosed and operated  in Neurosurgical department, Cho Ray hospital. The patients’  symptoms,  images and  surgical  results  were  evaluated.  Surgical  technique:  posterior  débridement,  transpedicular  fixation,  with  or  without interbody fusion.   Results: 21 patients consisted of 11 females and 10 males. The average age was 43.2. The mean follow‐up  time in this group  was 6.6 months. Indications for surgery included epidural abscess, structural destruction with  instability, progressive kyphosis, and/or neurologic deterioration. Neurologic improvement was 81.3%. Kyphotic  angle was reducted from 38.3⁰ ± 7.2⁰ ‐൐ 8.5⁰ ± 7.4⁰. No recurrence of infection or construct failure was recorded.  Conclusion: Transpedicular  fixation  is  effective after proper  radical débridement, deformity  correction  in  cases of thoracic and lumbar spinal tuberculosis. The presence of screws in an area of mycobacterial infection did  not preclude infection control or lead to recurrence.  * Khoa Ngoại thần kinh – Bệnh viện Chợ Rẫy  Tác giả liên lạc: ThS BS Phan Quang Sơn,   ĐT: 0913727145,  Email: drquangson@yahoo.com.vn  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Phẫu Thuật Cột Sống  69 Key words: thoracic and lumbar spinal tuberculosis, kyphotic, transpedicular fixation.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Lao cột sống là một tình trạng viêm mãn tính  do  trực khuẩn  lao Mycobacteria tuberculosis  (còn  gọi là BK) gây ra. Viêm gây tổn thương thân đốt  sống trong hầu hết các trường hợp. Lao cột sống  là bệnh chữa lành được, nhất là trong giai đoạn  hiện  nay  với  phương  tiện  điều  trị  gồm  thuốc  kháng lao tốt và các phương pháp điều trị phẫu  thuật  để  giải  quyết  các  vấn  đề  cơ  học,  chỉnh  hình. Tiên  lượng phục hồi  các  chức năng  thần  kinh  tùy  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố: mức  độ  tổn  thương  thần  kinh  khi  nhập  viện,  các  phương  tiện điều trị nội khoa và phẫu thuật. Phẫu thuật  nạo mô viêm, giải ép ống sống, chỉnh gù và làm  cứng  cột  sống  bằng nẹp  vít  kết hợp  với  thuốc  kháng  lao  đúng  phác  đồ  giúp  giảm  đau,  cải  thiện chức năng thần kinh và ngăn ngừa các biến  dạng  tiến  triển(1,4). Chúng  tôi  tiến  hành  nghiên  cứu này nhằm đánh hiệu quả của phương pháp  phẫu thuật nẹp vít cuống cung trong điều chỉnh  biến  dạng  gù  cột  sống  và  khả  năng  hồi  phục  chức năng  thần kinh  trong bệnh  lý  lao  lao   cột  sống ngực và thắt lưng.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Hồi  cứu mô  tả  các  trường  hợp  được  chẩn  đoán và phẫu  thuật  lao   cột  sống ngực và  thắt  lưng bằng phương pháp nẹp vít cuống cung tại  khoa Ngoại Thần Kinh  ‐ Bệnh viện Chợ Rẫy từ  tháng 6/2013 đến tháng 6/2014.  Tiêu  chuẩn  chọn  bệnh: Các  bệnh  nhân  lao  cột sống với các dấu hiệu lâm sàng và hình ảnh  học  điển hình  của  lao  cột  sống  với góc  gù  cột  sống  >  300 hoặc  độ di  lệch  thân  sống  >  2,5mm  trên cột sống ngực và > 4,5mm (15% thân sống)  trên cột sống lưng trên phim đứng dọc.  Các khiếm khuyết thần kinh được ghi nhận  ở mỗi  lần khám và  tái khám. Sức  cơ  được ghi  nhận ở các mức độ  từ 0 đến 5 và xếp  loại  theo  thang điểm Fankel. Chẩn đoán dựa trên các dấu  hiệu lâm sàng, hình ảnh học (X quang, CT scan,  MRI  cột  sống). Các bệnh nhân  cũng  được  làm  xét  nghiệm  công  thức máu,  tốc  độ máu  lắng,  CRP, phản ứng lao tố, BK đàm, X quang ngực.  Các  dấu  hiệu  được  ghi  nhận  bao  gồm:  khuyết thân sống, áp xe cạnh sống, mất khoang  đĩa đệm, mòn tấm tận cùng, phá hủy thân sống  vùng  xương  sườn  kế  cận,  biến dạng  cột  sống.  Biến dạng gù cột sống được đo bằng góc Cobb  giữa 2 tấm tận cùng của đốt sống bị xẹp.   Tất  cả  bệnh  nhân  đều  được  điều  trị  theo  phác  đồ  kháng  lao  trong  2‐3  tuần  trước  phẫu  thuật. Các yếu tố liên quan đến điều trị nội khoa  và phẫu  thuật  để giải  thích  rõ  cho bệnh nhân.  Phương  pháp  phẫu  thuật:  nạo  sạch mô  viêm,  giải ép ống sống,    làm cứng khớp bằng nẹp vít  cuống cung, có hoặc không kèm ghép  liên thân  sống. X quang cột sống, công  thức máu,  tốc độ  máu  lắng  và CRP  được  thực  hiện  tại  các  thời  điểm ngay  sau mổ, 6  tuần và 6  tháng. Điều  trị  được đánh giá đáp ứng khi bệnh nhân hết đau,  độ cong cột sống ổn định, không bị  lỏng vít tại  các tư thế gập và ưỡn tại thời điểm tái khám, tốc  độ  máu  lắng  và  CRP  về  mức  bình  thường,  không  tái phát  tổn  thương  lao cột sống  tại  thời  điểm  6  tháng  sau mổ. Mức  độ  giảm  đau  khi  không dùng thuốc giảm đau được đánh giá trên  thang  điểm VAS,  với  điểm  0  là  không  đau  và  điểm 10 là đau rất nhiều.  Các  số  liệu  được  thống kê bằng phần mềm  SPSS 16.0. Góc Cobb và thang điểm VAS trước và  sau mổ được so sánh bằng phép kiểm ANOVA.  Phục hồi chức năng thần kinh được đánh giá với  phép kiểm Chi bình phương. Giá trị p<0,05 được  xem là khác biệt có ý nghĩa thống kê.  KẾT QUẢ  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  gồm  21  bệnh  nhân, trong đó gồm 11 bệnh nhân nữ (52,4%) và  10 bệnh nhân nam (47,.6%), tuổi trung bình 43,2  (17  đến  64  tuổi). Tất  cả  các  bệnh  nhân  đều  có  biểu hiện đau  lưng kéo dài, với thời gian trung  bình 8,2 tháng (dao động từ 0,7 đến 36 tháng). 3  bệnh nhân đã được điều trị lao phổi trước đó, 4  bệnh nhân có tiểu đường, 9 bệnh nhân có tiền sử  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 70 hút thuốc lá. Các bệnh nhân lao cột sống có dấu  hiệu thần kinh khu trú ở các mức độ khác nhau  (bảng 1).   Bảng 1: Các đặc điểm của bệnh nhân trong nghiên cứu  Đặc điểm Giá trị Giới -Nam -Nữ 10 (47,6%) 11 (52,4%) Tuổi 43,2 (17 - 64 tuổi) Thời gian khởi phát đau 8,2 tháng (0,7 - 36 tháng) Đốt sống tổn thương -Ngực -Bản lề ngực – thắt lưng -Thắt lưng 8 (38,1%) 9 (42,9%) 4 (19%) Kiểu tổn thương -Áp xe chèn ép ống sống -Mất vững cơ học -Kết hợp 4 (19,1%) 7 (33,3%) 10 (47,6%) Góc Cobb -Trước mổ -Sau mổ 38,3⁰ ± 7,2⁰ 8,5⁰ ± 7,4⁰ Điểm VAS: -Trước mổ -Sau mổ 6,9 ± 1,2 1,7 ± 0,6 Bảng 2: Thang điểm Frankel tại thời điểm trước mổ  và tái khám  Frankel A B C D E Trước mổ 5 2 6 5 3 Sau mổ 5 0 4 2 8 Giá trị λ2 Giá trị p 22,28 0,035 Trên hình ảnh học, vị trí tổn thương cột sống  gồm 8  trường hợp  tại cột sống ngực  (38,1%), 9  trường  hợp  tại  vùng  bản  lề  ngực  –  thắt  lưng  (42,9%) và 4  trường hợp  tại  cột  sống  thắt  lưng  (19%). 17  trường hợp (81%) có áp xe cạnh sống  với  các  kích  thước  khác  nhau,  14  trường  hợp  (71,4%) có áp xe ngoài màng cứng chèn ép ống  sống.  Tổn  thương  1  thân  sống  gồm  14  trường  hợp  (66,7%),  tổn  thương  2  thân  sống  gồm  7  trường hợp (33,3%). Có 3 trường hợp tổn thương  tại 2 vị trí cách xa nhau, tuy nhiên chúng tôi chỉ  phẫu  thuật  tại vị  trí gây  chèn  ép  thần kinh và  mất  vững.  Chỉ  định  mổ  gồm:  7  trường  hợp  (33,3%) có biểu hiện mất vững cơ học, 4 trường  hợp (19%) có áp xe ngoài màng tủy gây chèn ép  tủy và 10 trường hợp (47,6%) vừa mất vững cơ  học vừa  có áp xe ngoài màng  tủy. Biến  chứng  sau mổ ghi nhận  trong 3  trường hợp  (14,3%). 2  trường  hợp  đau  thần  kinh  liên  sườn  sau mổ,  được  điều  trị bằng kháng viêm Non‐steroid và  có đáp ứng. 1 trường hợp nhiễm trùng nông vết  mổ, được điều trị cắt lọc và kháng sinh. Về giải  phẫu  thuật bệnh  lý và vi  trùng học,  chúng  tôi  chẩn đoán xác định được 9  trường hợp (42,9%)  sau mổ.  Hình 1: Bệnh nhân nữ, 47 tuổi, chẩn đoán Lao cột sống D7D8, được phẫu thuật  cắt bản sống, nạo mô viêm, làm  cứng bằng nẹp vít cuống cung và liên thân sống lối sau. A,B: Hình ảnh MRI lát cắt đứng dọc cho thấy thương  tổn thân sống D7D8, áp xe cạnh sống và ngoài màng cứng gây chèn ép tủy. C,D: X quang tư thế thẳng, nghiêng  sau mổ với nẹp vít cuống cung và lồng Titanium liên thân sống. (Nguồn: Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy).  Sự hồi phục vận  động  được ghi nhận  theo  thang điểm Fankel tại thời điểm trước mổ và tái  khám (bảng 2). 5 bệnh nhân vào viện trong tình  trạng liệt mềm 2 chân kèm rối loạn cơ vòng, tại  thời điểm tái khám chưa thấy thay đổi. 5 trường  hợp này bao gồm 3 trường hợp  tổn thương cột  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Phẫu Thuật Cột Sống  71 sống  ngực,  1  trường  hợp  tổn  thương  tại  vùng  bản  lề và 1 trường hợp tổn thương  tại cột sống  thắt lưng. Không trường hợp nào xuất hiện dấu  thần kinh tiến triển mới. Trong 16 bệnh nhân còn  lại,  sức  cơ  2  chân  hồi  phục  trong  81,3%  bệnh  nhân.  Thang  điểm  VAS  cải  thiện  từ  6,9  ±  1,2  điểm trước điều trị xuống 1,7 ± 0,6 điểm tại thời  điểm tái khám.   Trên hình ảnh học, vị trí nẹp vít đúng vị trí  trong  tất  cả  các  trường  hợp,  có  biểu  hiện  hàn  xương  trong 12  trường hợp  (57,1%). Góc Cobb  trung bình trước mổ là 38,3⁰ ± 7,2⁰ và sau mổ là  8,5⁰ ± 7,4⁰. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê  (p<0,05). Sau thời gian theo dõi, không có trường  hợp nào bị tăng góc Cobb.  BÀN LUẬN  Lao cột sống là dạng thường gặp nhất trong  lao  xương  khớp  tại  các  nước  đang  phát  triển,  chiếm  1‐3%  trường  hợp  bệnh  lao. Vai  trò  của  phẫu  thuật  trong  điều  trị  lao  cột  sống vẫn  còn  bàn cãi. Xuất độ bệnh lao cao hơn ở nhóm bệnh  nhân  suy giảm miễn dịch, và  đã  có nhiều báo  cáo về lâm sàng và kết quả điều trị lao cột sống  trên các bệnh nhân bị nhiễm HIV(3,1). Tuy nhiên  trong  lô  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  không  có  trường hợp nào nhiễm HIV.  Lao  cột  sống  là một dạng  nguy  hiểm  nhất  của  lao xương khớp do phá hủy  cấu  trúc  thân  sống,  biến  dạng  và  gây  tàn  phế.  Thương  tổn  thường gặp ở vùng bản lề cột sống ngực‐lưng và  giảm dần về phía  trên và phía dưới. Vùng  cột  sống  thắt  lưng‐cùng  có  những  đặc  điểm  phù  hợp  cho  điều  trị  nội  khoa:  ống  sống  rộng,  các  dây  thần kinh  tương đối  tự do, dễ  tương  thích  với  các  chèn  ép do  ổ  áp  xe  hay mô  hạt  viêm.  Bệnh  thường khởi phát  thầm  lặng và  tiến  triển  chậm,  bệnh  nhân  thường  đến  khám  trong  vài  tuần hoặc vài tháng sau những triệu chứng đầu  tiên(3,1,2). Thời gian  trung bình  từ  lúc nhập viện  đến lúc khởi phát trong nghiên cứu là 8,2 tháng  (0,7 ‐ 36 tháng).   Phẫu  thuật  lao  cột  sống  trong  giai  đoạn  bệnh còn diễn  tiến cho  thấy an  toàn hơn, đáp  ứng nhanh hơn và  tốt hơn  so với phẫu  thuật  khi  bệnh  đã  lành.  Khả  năng  phục  hồi  chức  năng thần kinh có tương quan với phẫu thuật  giải ép và làm cứng cột sống. Tuy nhiên, mảnh  ghép (liên thân sống, nẹp vít) có thể di trú vào  thân sống, gây biến dạng cột sống, đặc biệt ở  các  bệnh nhân  có  thương  tổn  từ  2  thân  sống  trở lên và mảnh ghép liên thân sống vượt quá  2 khoảng đĩa đệm. Trong các nghiên cứu gần  đây tại Hoa Kỳ, các tác giả khuyến cáo điều trị  thuốc kèm phẫu  thuật  làm cứng cột  sống  đối  với  các  trường hợp  lao  cột  sống  có biểu hiện  thần kinh khu trú do chèn ép tủy. Có thể tiến  hành chọc hút ổ áp xe qua da đối với các áp xe  lạnh  có  kích  thước  lớn  để  giúp  giảm  triệu  chứng đau tại chỗ và hạn chế sự lan rộng ổ áp  xe  dọc  theo  khoang  cạnh  sống.  Có  thể  sinh  thiết  sang  thương  bằng  kim  nhỏ  hoặc  phẫu  thuật mở để hỗ trợ chẩn đoán xác định. Các kỹ  thuật  chẩn  đoán hình  ảnh hiện  đại  (CT Scan,  MRI)  đã  làm  thay  đổi  tiên  lượng  của  bệnh  nhân lao cột sống do giúp chẩn đoán bệnh lí ở  giai  đoạn  sớm.  Những  năm  gần  đây,  MRI  được  xem  là  phương  tiện  chính  trong  chẩn  đoán các bệnh  lí cột sống. Áp xe cạnh sống  là  đặc  điểm  thường gặp  của  lao  cột  sống  chiếm  khoảng 50% các  trường hợp. MRI có  thể giúp  chẩn  đoán  phân  biệt  lao  cột  sống  với  các  trường  hợp  u  tân  sinh,  tuy  nhiên  các  u  hạt  viêm ngoài màng cứng do lao mà không có tổn  thương  xương  sẽ  khó  phân  biệt  với  các  tổn  thương di căn ngoài màng cứng(1,2).  Theo y văn, dấu thần kinh khu trú trong lao  cột sống thay đổi từ 10 đến 61%, tỉ lệ liệt 2 chân  thường  gặp  hơn  trong  viêm  thân  sống  vùng  ngực và cổ(2). Các dấu hiệu thần kinh có thể cải  thiện  dần  sau  khi  điều  trị  nội  khoa  và  phẫu  thuật. Các  kỹ  thuật  chẩn  đoán  có  giá  trị  nhất  gồm cấy mô viêm, xét nghiệm huyết thanh, PCR  lao. Tuy nhiên,  trong nghiên cứu chúng  tôi chỉ  ghi  nhận  chẩn  đoán  xác  định  9  trường  hợp  (42,9%) bằng kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ.  Các ổ áp xe cột sống không nhất thiết phải dẫn  lưu  toàn bộ vì  thường đáp ứng với điều  trị nội  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 72 khoa, chỉ chỉ định dẫn lưu khi bệnh nhân có kích  thước ổ áp xe quá lớn hoặc vị trí ổ áp xe chèn ép  gây triệu chứng.  Biến  dạng  và  gù  là  đặc  điểm  quan  trọng  trong  lao  cột  sống. Sự  tiến  triển  của biến dạng  cột sống xảy ra trong 2 giai đoạn riêng biệt: giai  đoạn  1  gồm  các  thay  đổi  trong  lúc  bệnh  diễn  tiến; giai đoạn 2 gồm các thay đổi lúc lành bệnh.  Sự  tiến  triển  của  các biến dạng  cột  sống bị  ảnh  hưởng bởi mức độ gù cột sống trước khi điều trị,  vị trí thương tổn và tuổi của bệnh nhân. Các bệnh  nhân  có góc gù < 300  trong giai  đoạn bệnh  tiến  triển không cần thiết phải phẫu thuật. Ở các bệnh  nhân  được  điều  trị  bảo  tồn,  góc  gù  trung  bình  tăng khoảng 150 và  trong khoảng 3‐5%  số bệnh  nhân này có thế tiến triển đến góc gù > 600(1).  Mức  độ  hàn  xương  đóng  vai  trò  quan  trọng trong sự hồi phục hoàn toàn của bệnh lí  lao cột  sống. Dobson báo cáo  tỉ  lệ hàn xương  trên các bệnh nhân được điều trị nội khoa đơn  thuần  là 27%(1). Một  số báo  cáo  cho  thấy  tỉ  lệ  hàn  xương  trên  các  bệnh  nhân  không  phẫu  thuật  là  65  –  79%(2). Zili  L.  Báo  cáo  tỉ  lệ  hàn  xương  đạt  100%  trong  1  nghiên  cứu  gồm  37  bệnh nhân  lao  cột  sống ngực  lưng  được  điều  trị  phẫu  thuật  nẹp  vít  cuống  cung  và  hàn  xương liên thân sống(4). Trong nghiên cứu của  chúng  tôi,  tỉ  lệ hàn xương  đạt 57,1% với  thời  gian trung bình 4,6 ± 0,9 tháng.  Trong nghiên cứu, các bệnh nhân được điều  trị  nội  khoa  bằng  thuốc  kháng  lao  trước  khi  phẫu  thuật,  sau  phẫu  thuật  tiếp  tục  điều  trị  thuốc  đủ phác  đồ  và  tái  khám  theo hẹn. Theo  kinh nghiệm của chúng tôi, chỉ định phẫu thuật  lao  cột  sống  cần  được  xem  xét  trên  các  bệnh  nhân  có:  1)  có  dấu  thần  kinh  khu  trú  và mất  vững cột sống cơ học hoặc biến dạng cột sống; 2)  kém đáp ứng với điều trị nội khoa; 3) dấu thần  kinh khu trú tiến triển trong quá trình điều trị; 4)  tăng kích  thước  tổn  thương trên MRI; 5) không  dung nạp thuốc kháng lao.  Kỹ thuật nẹp vít cuống cung vẫn có một số  hạn chế trong điều trị  lao cột sống. Tiếp cận  lối  sau có  thể  làm  lan rộng  tổn  thương  lao  từ phía  trước đến phần mô bình thường. Thêm nữa, để  nạo sạch mô viêm và giải ép ống sống, cần phải  mở rộng phần cột sau nguyên vẹn của cột sống,  ảnh hưởng đến  độ vững cột sống. Nghiên cứu  cần thời gian theo dõi lâu hơn để đánh giá chính  xác hơn khả năng liền xương và lành bệnh.  KẾT LUẬN  Điều  trị  lao cột sống cần được xem xét  trên  từng bệnh nhân riêng biệt, điều trị thuốc kháng  lao  đúng  phác  đồ  là  quan  trọng  nhất  và  phải  được bắt  đầu ngay  từ giai  đoạn đầu của bệnh.  Phẫu  thuật  cần  được  chỉ  định  cho  các  trường  hợp  có  biến  dạng  cột  sống  nặng  gây  chèn  ép  thần kinh. Phẫu  thuật nẹp vít cuống cung giúp  điều  chỉnh  góc  gù,  tạo  độ  vững  cho  cột  sống,  giúp bệnh nhân vận động sớm. Sự hiện diện của  nẹp vít trong ổ nhiễm không cản trở điều trị hay  gây tái phát lao cột sống.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Kotil K, Alan MS, Bilge T.  (2007). Medical management of  Pott disease  in  the  thoracic and  lumbar spine: a prospective  clinical study. J Neurosurg Spine 6, pp. 222–228.  2. Khoo  LT,  Mikawa  K,  Fessler  RG.  (2003).  A  surgical  revisitation of Pott distemper of the spine. The Spine Journal  3, pp. 130–145.  3. Lê Đoàn Khắc Di  (2008). Điều  trị  lao cột sống ngực và  thắt  lưng bằng phẫu thuật lối sau. Luận án chuyên khoa II Ngoại  thần kinh, Đại học Y Dược TPHCM.  4. Zili  L.  (2014).  One‐stage  Posterior  Debridement  and  Transpedicular  Screw  Fixation  for Treating Monosegmental  Thoracic  and  Lumbar  Spinal  Tuberculosis  in  Adults.  The  Scientific World Journal, Volume 2014, pp. 1‐6.  Ngày nhận bài báo:       20/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:  2/11/2014  Ngày bài báo được đăng:     05/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphau_thuat_nep_vit_cuong_song_trong_dieu_tri_lao_cot_song_ng.pdf