PTNSLN cắt thùy phổi an toàn
Sự an toàn và hiệu quả của PTNSLN cắt thùy
phổi đã được chứng minh trong nhiều nghiên
cứu, trong đó có cả các nghiên cứu tiền cứu.
ngẫu nhiên. Độ an toàn của phẫu thuật mổ mở
cắt thùy phổi và PTNSLN cắt thùy phổi là tương
đương nhau, tỷ lệ tử vong là gần tương đượng
theo công trình nghiên cứu của tác giả Mc
Kenna. Phẫu thuật cắt thùy phổi mổ mở: có tỷ lệ
các biến chứng thay đổi từ 28 – 38%, tỷ lệ tử
vong 1,2 – 2,9% bệnh nhân. Trong khi đó
PTNSLN cắt thùy phổi: tỷ lệ biến chứng thay đổi
từ 9 – 19%, tỷ lệ tử vong: 0,8 – 1,2%(4).
Trong kinh nghiệm của tác giả Weber: trong
PTNS cắt thùy phổi ở bệnh phổi lành tính, sự
dính thành ngực, rốn phổi, rãnh liên thùy, hạch
là yếu tố quyết định đến sự thành bại, an toàn
của phhẫu thuật, đòi hỏi sự kiên nhẫn của phẫu
thuật viên(9).
Trong bệnh lý phổi lành tính, thùy phổi
thường bị phá hủy, biến dạng như trong u lao
hay u nấm gây khó khăn cho bóc tách mạch máu
theo giải phẫu, kéo dài thời gian phẫu thuật. Mặt
khác do phổi bệnh lý nên biến chứng dò khí
thường gặp sau phẫu thuật hơn so với bệnh lý
phổi ung thư(3).
Mặc dù nguy cơ chảy máu khi bóc tách mạch
máu gây ra nhiều lo lắng cho các phẫu thuật
viên, tỷ lệ xảy ra biến chứng này rất thấp, không
có nhiều nghiên cứu báo cáo biến chứng chảy
máu khi phẫu thuật. Mặt khác, tổn thương động
mạch phổi trong lúc phẫu thuật có thể kiểm soát
tốt bằng cách đè nơi tổn thương bằng gạc, sau đó
khâu cầm máu qua nội soi hay chuyển mổ mở
khi cần thiết.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy số liệu
còn ít, nhưng tỷ lệ biến chứng hầu như không
đáng kể: 1 bệnh nhân (4,2%) bị tràn khí dưới da
sau mổ, 1 bệnh nhân (4,2%) bị chảy máu từ
đường mổ bóc tách sau mổ, được mổ cầm máu
qua nội soi.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi trong điều trị bệnh phổi lành tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 302
PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT THÙY PHỔI
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH PHỔI LÀNH TÍNH
Nguyễn Hoàng Bình*. Vũ Hữu Vĩnh*. Đỗ Kim Quế**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá những kinh nghiệm ban đầu của PTNSLN cắt thùy phổi trong
điều trị bệnh phổi lành tính tại khoa Ngoại Lồng ngực - Bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng & Phương pháp: Tiền cứu các biểu hiện lâm sàng, chỉ định phương pháp phẫu thuật và kết quả
sớm PTNSLN cắt thùy phổi tại Bệnh Viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Trong thời gian từ 1/2010 đến 12/2012. chúng tôi đã PTNSLN cắt thùy phổi cho 24 bệnh nhân.
Giới: 12 nữ. 12 nam. Tuổi trung bình là 46,5. Trong đó: u lao: 15; dãn phế quản: 3; u nấm: 2; hamartoma: 2; phổi
biệt trí: 1; dị dạng động mạch phổi: 1. Tất cả bệnh nhân ra viện tốt. 2 bệnh nhân chuyển mổ mở. 1 bệnh nhân chảy
máu sau mổ.
Kết luận: PTNSLN cắt thùy phổi an toàn, hiệu quả được chỉ định trong các bệnh phổi lành tính. Nguy cơ
chảy máu chuyển mổ mở với bệnh nhân bị bệnh phổi viêm dính nhiều, hạch viêm dính mạch máu.
Từ khóa: PTNSLN cắt thùy phổi
ABSTRACT
THORACOSCOPIC LOBECTOMY IN BENIGN LUNG DISEASE
Nguyen Hoang Binh. Vu Huu Vinh. Do Kim Que
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 302-306
Objective: Evaluate ability. effectiveness of thoracoscopic lobectomy for treatment benign lung diseases at
Cho Ray hospital
Method: Prospective study of patients were operated thoracoscopic lobectomy at Cho Ray hospital
Results: During 3 years (1/2010-12/2012). there were 24 patients were operated. Males: 12. females: 12.
Mean age: 46.5. Almost patients are tuberculous tumor.
24 patients were discharged safely. 2 patients: convert to open operation due to adhesive lymph nodes.
Conclusion: Thoracoscopic lobectomy is good and safety procedure and is indicated in benign lung diseases.
Key word: Thoracoscopic lobectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với sự phát triển của các dụng cụ, phương
tiện nội soi lồng ngực, gây mê hồi sức, phẫu
thuật nội soi lồng ngực đã phát triển mạnh mẽ
trong 2 thập kỷ gần đây. Phẫu thuật nội soi lồng
ngực cắt thùy phổi (PTNSLN) được thực hiện
đầu tiên vào những năm đầu của thập niên 1990.
Trong giai đoạn đầu. PTNSLN cắt thùy phổi
được thực hiện chủ yếu đối với các bệnh phổi
lành tính hay ung thư phổi giai đoạn sớm.
PTNSLN cắt thùy phổi đã cho thấy có thể thực
hiện khả thi, an toàn có hiệu quả và có nhiều ưu
điểm so với phẫu thuật mổ mở như: giảm đau
sau mổ, ít suy giảm chức năng hô hấp sau mổ.
Tuy nhiên các báo cáo về PTNSLN cắt thùy phổi
trong bệnh lý phổi lành tính còn ít.
Trong chỉ định để PTNSLN cắt thùy phổi.
* Khoa Ngoại Lồng Ngực BV Chợ Rẫy, ** Khoa Ngoại Lồng ngực - Tim mạch BV Thống Nhất TP HCM
Tác giả liên lạc: Nguyễn Hoàng Bình, ĐT: 0908334789, Email: nguyenhoangbinh06@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 303
nhiễm trùng phổi mạn tính là được chỉ định
chính. Một vấn đề khác về kỹ thuật mổ được đặt
ra ở đây là phổi dính, hạch tăng sinh phản ứng
lớn. dính. tăng sinh mạch máu, làm tăng nguy cơ
chảy máu. nguy cơ thất bại của phẫu thuật(4).
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
để đánh giá những chỉ định phẫu thuật, những
giới hạn của PTNSLN cắt thùy phổi ở bệnh phổi
lành tính nhằm rút ra một số kinh nghiệm bước
đầu về phương pháp phẫu thuật, sự an toàn, kết
quả sớm.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng
Tất cả bệnh nhân bệnh lý phổi lành tính (u
lao, dãn phế quản, u nấm, phổi biệt trí, u phổi
không ung thư, bệnh mạch máu phổi bẩm sinh)
thất bại điều trị nội, có chỉ định phẫu thuật cắt
thùy phổi, đủ điều kiện phẫu thuật và gây mê
nội khí quản một phổi.
Loại trừ: bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
phổi.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả
Phương pháp
Bệnh nhân được chụp X quang phổi, chụp
cắt lớp (CT Scans), nội soi phế quản, chức năng
phổi, PET, các xét nghiệm tiền phẫu.
Phương pháp phẫu thuật
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản 1 phổi,
nằm nghiêng. Đặt 3 trocar qua đường rạch da
khoảng 1cm: trong đó 1 trocar cho camera
khoang liên sườn 6 nách giữa, 1 trocar cho dụng
cụ kéo phổi khoảng liên sườn, 1 trocar để thao
tác - thường được mở rộng 4cm để thao tác khi
cần thiết cũng như lấy phổi ra.
Sinh thiết lạnh trước nếu cần.
Dùng stapler cắt phế quản, tĩnh mạch,
động mạch.
Lấy bệnh phẩm với túi nylon để tránh mô
tiếp xúc thành ngực gây nhiễm trùng
Hậu phẫu
Thời gian hậu phẫu, rút ống dẫn lưu, ra viện.
Bệnh nhân được đánh giá mức độ đau: bn
được chia theo tiêu chuẩn sử dụng thuốc giảm
đau như: mức độ 1: thuốc giảm đau paracetamol,
mức độ 2: Paracetamol có sử dụng thêm thuốc
kháng viêm không steroid, mức độ 3: sử dụng
hoàn toàn thuốc kháng viêm không steroid hay
thuốc á phiện.
Phân tích các yếu tố: chỉ định, kỹ thuật, thùy
phổi được cắt, dính phổi, thời gian phẫu thuật,
lượng máu mất, thời gian dẫn lưu, thời gian nằm
viện hậu phẫu.
Đánh giá, ghi nhận các biến chứng như: rung
nhĩ, suy hô hấp, mủ màng phổibiến chứng
nhỏ: dò khí, rung nhĩ không đặt máy, viêm phổi
không suy hô hấp, nhiễm trùng tiểu, viêm mô tế
bào.
Đánh giá lí do chuyển mổ mở. Định nghĩa
mổ mở là khi phẫu thuật đã được tiến hành bóc
tách, cắt động mạch hay tĩnh mạch sau đó
chuyển mổ mở. Loại trừ những trường hợp phải
chuyển mổ mở ngay từ đầu do gây mê thất bại
hay do phổi quá dính không phẫu thuật được.
Đánh giá, phân tích nguyên nhân tử vong.
KẾT QUẢ
24 bệnh nhân bệnh phổi lành tính được
PTNSLN cắt thùy phổi trong thời gian từ 1/2010
– 12/2012 tại khoa Ngoại Lồng ngực - Bệnh viện
Chợ Rẫy.
- Nam: 12 (50%) Nữ: 12 (50%)
- Tuổi: lớn nhất: 79 tuổi, nhỏ nhất: 23. Tuổi
trung bình: 46,5
Triệu chứng lâm sàng:
- Ho và ho ra máu: 6 bệnh nhân (25%); Đau
ngực: 16 bệnh nhân (66,7%)
Vị trí u phổi
Vị trí u Số lượng Phần trăm
Thùy trên phổi phải 5 20,8%
Thùy giữa phổi phải 1 4,2%
Thùy dưới phổi phải 9 37,5%
Thùy trên phổi trái 3 12,5%
Thùy dưới phổi trái 6 25%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 304
Mô học
Loại tế bào Số lượng bệnh
nhân
Phần trăm
U lao 15 62,5%
Dãn phế quản
U nấm
3
2
12,5%
8,3%
Hamartoma 2 8,3%
Phổi biệt trí 1 4,2%
Dò động tĩnh mạch phổi 1 4,2%
Thời gian phẫu thuật: trung bình 3,69 giờ
- Lâu nhất: 6 giờ.
- Nhanh nhất: 3 giờ
Thời gian nằm viện sau mổ: 5,58 ngày
- Lâu nhất: 7 ngày.
- Nhanh nhất: 3 ngày
Lượng máu mất
- Trung bình: 82,1 ml.
- Nhiều nhất: 400 ml
- Thấp nhất: 10 ml
Giảm đau sau mổ
Thuốc giảm đau sau mổ Số lượng bệnh
nhân
Phần trăm
Mức độ 1 10 41,7%
Mức độ II 8 33,3%
Mức độ III 6 25%
Biến chứng: không ghi nhận biến chứng
trầm trọng
Biến chứng Số lượng bệnh
nhân
Phần trăm
Tràn khí dưới da 1 4,2%
Chảy máu vết mổ sau mổ 1 4,2%
Chuyển mổ mở: 2 bệnh nhân do chảy máu
từ nhánh động mạch phổi khi bóc tách hạch
dính vào động mạch.
BÀN LUẬN
Những năm đầu thập niên 1990. những khó
khăn trong PTNSLN cắt thùy phổi là do dụng cụ
phẫu thuật không thích hợp. với sự phát triển
của các dụng cụ PTNSLN. chỉ định PTNSLN cắt
thùy phổi đã đựợc chỉ định rộng rãi hơn và ngày
càng phổ biến trên thế giới. PTNSLN cắt thùy
phổi có thể thực hiện an toàn với nhiều ưu điểm
như ít đau sau mổ. xuất viện sớm(2).
Chỉ định PTNSLN cắt thùy phổi trong
bệnh lý phổi lành tính
Theo MC Kenna. PTNSLN cắt thùy phổi
được chỉ định trong các bệnh lý phổi như: dãn
phế quản, kén khí phổi lớn, hay một số u phổi
lành tính lớn gần mạch máu phổi không thể cắt
không điển hình(4,5). Trong nghiên cứu của
Anthony Yim, 20% bệnh nhân được chỉ định cắt
thùy phổi nội soi là bệnh lành tính: dãn phế
quản, lao kháng thuốc. Theo Giancarlo Roviaro:
PTNSLN cắt thùy phổi được chỉ định ở cả bệnh
phổi bẩm sinh như: phổi biệt trí. trong 20 bệnh
nhân được PTNSLN của ông có 25% là bệnh
phổi lành tính(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi: PTNSLN
cắt thùy phổi đa số bệnh nhân là u lao (15 bệnh
nhân 62,5%). Điều này cũng phù hợp tình hình
bệnh lý ở nước ta với lao là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây nên bệnh phổi, có 3
bệnh nhân dãn phế quản, 2 trường hợp u nấm, 1
bệnh nhân bị dò động tĩnh mạch phổi thùy dưới,
1 bệnh nhân bị phổi biệt trí và 2 trường hợp u
hamartoma.
PTNSLN cắt thùy phổi ở bệnh phổi lành tính
thường được các phẫu thuật viên lồng ngực lựa
chọn khi bắt đầu tiến hành PTNSLN. Theo tác
giả Yim và cs: có 3 điểm khác biệt chính trong
PTNSLN cắt thùy phổi bệnh phổi không ung thư
so với bệnh ung thư là(2,9, 10).
Không cần kiểm tra cắt sạch tận gốc u (bao
gồm cả nạo hạch).
Những thay đổi do viêm nhiễm gây ra có thể
gây khó khăn cho bóc tách hơn trong bệnh lý ác
tính, đặc biệt khi bóc tách mạch máu phổi.
Nếu trong ung thư: sự gieo rắc tế bào ung
thư là nguy cơ khi phẫu thuật; lấy bệnh phẩm thì
nhiễm trùng vết thương là nguy cơ trong
PTNSLN bệnh phổi không ung thư.
Trong nghiên cứu của Rovario và cs. ông
nhận thấy rằng: PTNSLN cắt thùy phổi trong các
bệnh dãn phế quản, u lao hay u nấm, sự viêm
nhiễm, dính mô làm thay đổi cấu trúc giải phẫu
mạch máu, rãnh liên thùy. Mặt khác các hạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 305
viêm lớn, dính gây khó khăn bóc tách cho phẫu
thuật viên. tăng nguy cơ chảy máu, thất bại của
phẫu thuật(7).
PTNSLN cắt thùy phổi an toàn
Sự an toàn và hiệu quả của PTNSLN cắt thùy
phổi đã được chứng minh trong nhiều nghiên
cứu, trong đó có cả các nghiên cứu tiền cứu.
ngẫu nhiên. Độ an toàn của phẫu thuật mổ mở
cắt thùy phổi và PTNSLN cắt thùy phổi là tương
đương nhau, tỷ lệ tử vong là gần tương đượng
theo công trình nghiên cứu của tác giả Mc
Kenna. Phẫu thuật cắt thùy phổi mổ mở: có tỷ lệ
các biến chứng thay đổi từ 28 – 38%, tỷ lệ tử
vong 1,2 – 2,9% bệnh nhân. Trong khi đó
PTNSLN cắt thùy phổi: tỷ lệ biến chứng thay đổi
từ 9 – 19%, tỷ lệ tử vong: 0,8 – 1,2%(4).
Trong kinh nghiệm của tác giả Weber: trong
PTNS cắt thùy phổi ở bệnh phổi lành tính, sự
dính thành ngực, rốn phổi, rãnh liên thùy, hạch
là yếu tố quyết định đến sự thành bại, an toàn
của phhẫu thuật, đòi hỏi sự kiên nhẫn của phẫu
thuật viên(9).
Trong bệnh lý phổi lành tính, thùy phổi
thường bị phá hủy, biến dạng như trong u lao
hay u nấm gây khó khăn cho bóc tách mạch máu
theo giải phẫu, kéo dài thời gian phẫu thuật. Mặt
khác do phổi bệnh lý nên biến chứng dò khí
thường gặp sau phẫu thuật hơn so với bệnh lý
phổi ung thư(3).
Mặc dù nguy cơ chảy máu khi bóc tách mạch
máu gây ra nhiều lo lắng cho các phẫu thuật
viên, tỷ lệ xảy ra biến chứng này rất thấp, không
có nhiều nghiên cứu báo cáo biến chứng chảy
máu khi phẫu thuật. Mặt khác, tổn thương động
mạch phổi trong lúc phẫu thuật có thể kiểm soát
tốt bằng cách đè nơi tổn thương bằng gạc, sau đó
khâu cầm máu qua nội soi hay chuyển mổ mở
khi cần thiết.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuy số liệu
còn ít, nhưng tỷ lệ biến chứng hầu như không
đáng kể: 1 bệnh nhân (4,2%) bị tràn khí dưới da
sau mổ, 1 bệnh nhân (4,2%) bị chảy máu từ
đường mổ bóc tách sau mổ, được mổ cầm máu
qua nội soi.
Hai bệnh nhân (8,3%) bị chảy máu trong
lúc mổ phải chuyển sang mổ mở cầm máu. Cả
hai bệnh nhân đều bị chảy máu khi bóc tách
động mạch cho thùy phổi trong mổ, do hạch
dính sát mạch máu. Cả hai được chuyển qua
mổ mở cầm máu.
Tỷ lệ chuyển mổ mở trong nghiên cứu của
tác giả Weber là 15,3%, đa số các trường hợp là
do phản ứng viêm, dính lan tỏa phải chuyển mổ
mở, trong đó 50% là do u lao. Có 1 trường hợp
do dị dạng động tĩnh mạch thùy giữa lớn(9,2).
Tỷ lệ biến chứng của ông là 18,7%. Trong các
phẫu thuật, phẫu thuật cắt thùy giữa và thùy
dưới của 2 phổi gặp nhiều hơn là thùy trên, điều
này là do phẫu thuật cắt thùy dưới, giữa dễ hơn
cắt thùy trên. Tuy nhiên tất cả các thùy đều có
thể phẫu thuật an toàn.
Không có bệnh nhân nào tử vong trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Thời gian nằm viện, xuất viện
Trong nghiên cứu của chúng tôi: Ngày nằm
viện trung bình là 5, ngày. Trường hợp bệnh
nhân nằm viện lâu nhất ở hậu phẫu là bệnh
nhân đã chuyển mổ mở: 7 ngày. Đa số bệnh
nhân được rút dẫn lưu vào ngày hậu phẫu thứ 2.
Lượng máu mất trung bình khoảng 82,1ml
KẾT LUẬN
PTNSLN cắt thùy phổi là phương pháp phẫu
thuật an toàn, có hiệu quả có thể chỉ định rộng
rãi trong các bệnh phổi lành tính, đặc biệt đối với
các phẫu thuật viên mới bắt đầu PTNS cắt thùy
phổi. Tuy nhiên cần đánh giá kỹ, bóc tách cẩn
thận đối với các bệnh nhân viêm dính nhiều,
hạch dính mạch máu phổi, khi cần thiết có thể
chuyển mổ mở để tránh nguy cơ chảy máu nguy
hiểm cho bệnh nhân.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 306
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Flores RM. and Alam NZ. (2007). Video-Assisted Thorascopic
Surgery. Major Lung Resections. Difficult decision in thoracic
surgery. p 140 -146
2. Gharagozloo F, Tempesta B, Margolis M, Alexander EP
(2003). Video-Assisted Thoracic Surgery Lobectomy for Stage I
Lung Cancer. Ann Thorac Surg.;76:1009 – 15.
3. Ichinose J, Kohno T, Fujimori S. (2010). Video-assisted thoracic
surgery for pulmonary aspergilloma. Interactive
CardioVascular and Thoracic Surgery 10. 927–930
4. Kirby TJ., Priest BP (1994). Video assisted thoracoscopic
lobectomy. Atlas of video-assisted thoracic surgery. p.221-226.
5. Mc Kenna RJ. Jr. (2005). Video-Assisted Thoracic Surgery for
Wedge Resection. Lobectomy. and Pneumonectomy. General
Thoracic Surgery. p524 - 532
6. Mc Kenna RJ. Jr.(2007). Anatomic pulmonary Resections by
videoassisted Thoracic surgery. Advanced theraphy in
thoracic surgery. p68-74
7. Roviaro G, Varoli F, Rebuffat C, el at.(1994) Video
thoracoscopic lobectomy and pneumonectomy. Atlas of
video-assisted thoracic surgery. 226-236.
8. Swanson SJ, Batirel HF. (2002) Video-assisted thoracic surgery
(VATS) resection for lung cancer. The surgical clinics of North
America. p 541-561
9. Weber A, Stammberger U, Inci I, Schmid RA, Dutly A,
Weder W. (2001) Thoracoscopic lobectomy for benign disease:
a single centrestudy on 64 cases. European Journal of Cardio-
thoracic Surgery 20; 443 – 448.
10. Zhang Peng. Zhang Fujun. Jiang Siming. Jiang Gening. Zhou
Xiao. Ding Jiaan.. Gao Wen.(2011) Video-Assisted Thoracic
Surgery for Bronchiectasis. Ann Thorac Surg.;91:239–43
Ngày nhận bài: 16/02/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_noi_soi_cat_thuy_phoi_trong_dieu_tri_benh_phoi_la.pdf