Phẫu thuật nội soi điều trị nang ruột đôi ở trẻ em

Tỷ lệ chuyển mổ mở được báo cáo là tới 32% trong một nghiên cứu đa trung tâm(3).Trong loạt bệnh nhân của chúng tôi không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Theo kinh nghiệm của chúng tôi cắt toàn bộ nang hay mở chỏm nang có thể thực hiện được bởi cả PTNSTB hoặc PTNSHT. PTNSHT thực hiện dễ dàng hơn khi các thao tác phẫu thuật được tiến hành ngoài ổ bụng giống như phẫu thuật mổ mở kinh điển. Khi cần cắt ruột, PTNSHT sẽ là sự lựa chọn hàng đầu. Tất cả các trường hợp cắt ruột của chúng tôi đều thực hiện bằng PTNSHT. Với mở rộng tối thiểu vết mổ rốn, kết quả thẩm mỹ sau mổ là rất tốt. Chúng tôi nhận thấy ở đa số các trường hợp NRĐ, PTNSHT có thể thực hiện được với 1 trocar duy nhất. Kinh nghiệm tương tự cũng được báo cáo bởi một số tác giả khác(1,8). Theo kinh nghiệm của chúng tôi, camera 10mm có kèm kênh 5mm cho dụng cụ là một phương tiện rất hữu ích để thực hiện kỹ thuật này. Kết quả nghiên cứu này cho thấy PTNS là an toàn trong điều trị NRĐ ở trẻ em. Trong khi nhiều nhóm trung tâm báo cáo biến chứng thường gặp nhất trong mổ là mở ống tiêu hóa không mong muốn (gần 9%)(2), trong loạt bệnh nhân của chúng tôi không có biến chứng trong mổ nào. Tắc ruột là biến chứng khác thường gặp sau mổ(2), nhưng chúng tôi cũng không có bệnh nhân nào bị tắc ruột trong thời gian theo dõi.

pdf5 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi điều trị nang ruột đôi ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  41 PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ NANG RUỘT ĐÔI Ở TRẺ EM  Trần Ngọc Sơn*, Vũ Xuân Hoàn*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi trong điều trị nang  ruột đôi ở trẻ em.  Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng là nang ruột đôi được phẫu  thuật nội soi tại bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 3/2009 đến tháng 3/2013. Hai phương pháp phẫu thuật  nội soi được ứng dụng: Phẫu thuật nội soi toàn bộ khi toàn bộ ca mổ được thực hiện trong ổ bụng, và Phẫu thuật  nội soi hỗ trợ khi nang ruột đôi được đưa ra ngoài qua đường rạch rốn và thực hiện cắt nang (cùng với cắt ruột  hoặc không) ở ngoài ổ bụng.  Kết quả: Có 29 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu với tuổi trung vị là 24 tháng (dao động 10 ngày đến 9  tuổi). Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau bụng (89,7%), nôn (62,1%), chướng bụng (27,6%). Vị trí của  nang  ruột  đôi  ở hồi  tràng  là 72,4%, manh  tràng  (17,2%),  tá  tràng  (3,4%), hỗng  tràng  (3,4%) và  đại  tràng  ngang (3,4%). Cắt toàn bộ nang ruột đôi được thực hiện trên 34,5%, mở chỏm nang ở 42,4% và cắt đoạn ruột  cùng với nang ở 24,1%. phẫu thuật nội soi hỗ trợ được thực hiện ở 58,6% và phẫu thuật nội soi toàn bộ – ở  41,4%. Cắt toàn bộ nang hoặc mở chỏm nang đều được thực hiện tương đương với 2 phương pháp nhưng cắt  ruột chỉ được thực hiện bởi phẫu thuật nội soi phẫu thuật nội soi hỗ trợ. Ở 31% bệnh nhân phẫu thuật được  thực hiện bằng 1 trocar duy nhất. Thời gian mổ trung bình là 64 ± 17,0 phút. Không có biến chứng nào trong và  sau mổ, không có trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Thời gian trung vị nằm viện sau mổ là 4 ngày (giao động  2 ‐ 6 ngày). Với thời gian theo dõi 1 ‐ 36 tháng (trung vị 12 tháng), tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt và  không có tái phát.  Kết luận: Phẫu thuật nội soi có tính khả thi, an toàn, hiệu quả và là lựa chọn hàng đầu trong điều trị nang  ruột đôi ở trẻ em. Cả 2 phương pháp phẫu thuật nội soi toàn bộ và phẫu thuật nội soi hỗ trợ có thể ứng dụng  trong các trường hợp chọn lọc, tuy nhiên phẫu thuật nội soi hỗ trợ có ưu thế hơn trong trường hợp phải cắt ruột.  Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, nang ruột đôi, trẻ em.  ABSTRACT   LAPAROSCOPIC MANAGEMENT OF INTESTINAL DUPLICATION CYST IN CHILDREN   Tran Ngoc Son, Vu Xuan Hoan   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 40 ‐ 44  Objectives: To investigate the feasibility, safety and efficacy of laparoscopic surgery (LS) in management of  intestinal duplication cyst in children.  Methods: The medical records of all patients diagnosed with intestinal duplication cyst undergoing LS at  our center from March, 2009 to March, 2013 were reviewed. All patients underwent either of the two types of  laparoscopic procedures: complete laparoscopic when the entire operation was carried out inside the abdomen and  laparoscopic‐assisted (LA) when the intestinal duplication cyst was exteriorized through an umbilical incision for  extracorporeal excision.   Results: 29 patients were identified with a median age of 24 months (range 10 days – 9 years). The most  common clinical presentations were abdominal pain (89.7%), vomiting (62.1%), abdominal distention (27.6%).  * Bệnh viện nhi Trung Ương.  Tác giả liên hệ: TS BS Trần Ngọc Sơn  ĐT: 0462738854   Email: drtranson@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  42 The  locations  of  the  intestinal  duplication  cyst were  the  ileum  (72.4%),  the  caecum  (17.2 %),  the  jejunum  (3.4%), the transverse colon (3.4%) and the duodenum (3.4%). Complete cyst excision was carried out in 34.5%,  cystic unroofing in 41.4% and intestinal resection in 24.1%. Laparoscopic‐assisted was performed in 58.6% and  complete  laparoscopic  in  41.4%.  Cyst  excision  and  cyst  unroofing  were  equally  performed  through  either  techniques, but all intestinal resections were performed only by the laparoscopic‐assisted approach. In 31%, only  a  single umbilical port was used. The mean  operative  time was 64 ± 17.0 minutes. There were no  intra‐  or  postoperative complications, no conversion to open surgery. The median postoperative hospital stay was 4 days  (range 2‐6 days). At follow up 1‐ 36 months (median 12 months), all patients were in good health and without  recurrence.   Conclusions: Laparoscopic management is feasible, safe, effective and should be the treatment of choice for  most  cases  of  intestinal  duplication  cyst  in  children.  Both  complete  laparoscopic  and  laparoscopic‐assisted  approaches  could  be  used  in  selected  cases  but  laparoscopic‐assisted would  be  preferred  in  case  of  intestinal  resection.  Key words: Laparoscopic surgery, intestinal duplication, children.  ĐẶT VẤN ĐỀ   Dị tật ống tiêu hóa đôi khá hiếm gặp, với tần  suất được báo cáo là 1/4500. Mặc dù dị tật này có  thể gặp ở mọi vị trí từ hầu họng cho tới hậu môn,  nhưng hay gặp nhất  là ở hồi  tràng, hỗng  tràng,  đại tràng, dạ dày và tá tràng(2,4,5,7,9,). Ruột đôi hay  gặp ở dạng nang (cystic type) và hiếm khi hơn – ở  dạng ống (tubular type)(2). Điều trị qui chuẩn đối  với nang ruột đôi (NRĐ)  là phẫu thuật cắt nang  (có cắt hoặc không cắt ruột) và mổ mở bụng vẫn  là phương pháp phẫu thuật phổ biến nhất(4,5,9). Vai  trò của phẫu  thuật nội soi  (PTNS)  trong điều  trị  thường qui cho NRĐ vẫn còn chưa được xác định  rõ do  chỉ  có  số  ít báo  cáo về  chủ  đề này(2,3,6,7,10).  Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  báo  cáo  kinh  nghiệm của mình trong PTNS điều trị NRĐ ở trẻ  em và đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả  của phương pháp này.   Mục tiêu nghiên cứu  Nghiên cứu đánh giá tính khả thi, an toàn và  hiệu quả  của phẫu  thuật nội  soi  trong  điều  trị  nang ruột đôi ở trẻ em.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Chúng  tôi hồi  cứu  lại  tất  cả  các bệnh nhân  với chẩn đoán NRĐ được phẫu thuật nọi soi tại  bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 3/2009 đến  tháng 3/2013. Về kỹ thuật mổ, chúng tôi sử dụng  một  trocar 10 mm ở  rốn và 0 – 2  trocar khác 5  mm.  Hai  loại  PTNS  được  thực  hiện  là  phẫu  thuật nội  soi  toàn bộ  (PTNSTB) khi  toàn bộ  ca  mổ được thực hiện trong ổ bụng và phẫu thuật  nội soi hỗ trợ (PTNSHT) khi NRĐ cùng với quai  ruột  liền kề được đưa ra ngoài ổ bụng qua rốn  và  cắt  nang  ±  cắt  ruột  được  thực  hiện  ở  bên  ngoài. Chọc kim qua thành bụng hút dịch nang  dưới  sự kiểm  soát  của nội  soi  làm giảm  tối  đa  thể tích nang và giúp đưa nang ra ngoài dễ dàng  hơn. Giải phóng manh tràng được thực hiện cho  đại đa số các trường hợp NRĐ ở góc hồi manh  tràng,  làm  cho  NRĐ  cùng manh  tràng  đủ  di  động để có thể đưa ra ngoài qua rốn. Ở vị trí này  của NRĐ, chúng tôi cắt ruột thừa thường qui.  Trong  trường  hợp  cắt  chỏm  nang,  phần  thành nang  tự do  của NRĐ được  cắt  tối  đa  có  thể, niêm mạc của thành nang còn lại được đốt  bằng dao điện và khi thành nang phồng ra ngoài  nhiều như túi thừa, chúng tôi khâu xếp nếp  lại  thành nang đó.  Sau  khi  ra  viện,  bệnh  nhân  được  theo  dõi  định kỳ bằng khám lâm sàng và siêu âm bụng.  Các dữ liệu về đặc điểm bệnh nhân, triệu chứng  lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm, mô  tả  trong mổ, kỹ  thuật mổ, diễn biến sau mổ và  thời gian nằm viện được tập hợp và phân tích.  KẾT QUẢ   Có 29 bệnh nhân thuộc diện nghiên cứu, 17  nam (58,6%) và 12 nữ (41,4%), với độ tuổi trung  vị  là 24  tháng  (dao động  từ 10 ngày cho đến 9  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  43 tuổi). Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là đau  bụng  (89,7%),  nôn  (62,1%),  chướng  bụng  (27,6%), sốt (13,8%). Siêu âm và CT cho thấy cấu  trúc nang dạng ống tiêu hóa ở đa số các trường  hợp và chẩn đoán trước mổ chính xác đạt được  ở 25 bệnh nhân (86,2%). Các bệnh nhân còn  lại  có  các  chẩn  đoán  không  chính  xác  như  nang  bạch huyết ổ bụng, viêm ruột thừa, nang buồng  trứng và nang  ống mật  chủ. Kích  thước  trung  bình của NRĐ là 4,2 ± 1,8 cm (dao động từ 2 cm  đến 9 cm). Vị trí của NRĐ phổ biến nhất là ở hồi  tràng  (72,4%  ‐  21  bệnh  nhân)  sau  đó  là manh  tràng  (17,2%  ‐ 5 bệnh nhân),  tá  tràng  (3,4%  ‐ 1  bệnh nhân), hỗng tràng (3,4% ‐ 1 bệnh nhân) và  đại tràng ngang (3,4% ‐ 1 bệnh nhân). PTNSHT  được  thực  hiện  ở  58,6%  ‐  17  bệnh  nhân)  và  PTNSTB  (41,4%  ‐  12  bệnh  nhân).  Cắt  toàn  bộ  NRĐ được thực hiện trên 34,5%, mở chỏm nang  ở 42,4% và cắt đoạn ruột cùng với nang ở 24,1%.  Ở  31%  bệnh  nhân  phẫu  thuật  được  thực  hiện  bằng 1  trocar duy nhất. Tất  cả  các  trường hợp  cắt ruột đều được thực hiện bởi PTNSHT.   Thời gian mổ  trung bình  là  64  ±  17,0 phút  (dao động 30  ‐ 90 phút). Không có biến chứng  nào trong và sau mổ, không có trường hợp nào  phải  chuyển mổ mở.  Thời  gian  trung  vị  nằm  viện sau mổ là 4 ngày (dao động 2 ‐ 6 ngày). Với  thời  gian  theo  dõi  1  ‐  36  tháng  (trung  vị  12  tháng), tất cả bệnh nhân đều có sức khỏe tốt và  không có tái phát.  Bảng 1. Phẫu thuật nội soi hỗ trợ và phẫu thuật nội  soi toàn bộ trong điều trị NRĐ.  Biến nghiên cứu Phẫu thuật nội soi hỗ trợ (n=17) Phẫu thuật nội soi toàn bộ (n=12) Đặc điểm bệnh nhân: Tuổi (tháng). 31,0 ± 29,0 26,7 ± 22,8 Giới: nam/nữ. 12/5 5/7 Cân nặng (kg) 11,9 ± 4,9 10,9 ± 4,9 Vị trí nang ruột đôi Hồi tràng 11 10 Manh tràng 5 0 Hỗng tràng 0 1 Đại tràng ngang 0 1 Tá tràng 0 1 Kích thước (cm) 4,1 ± 2,2 4,3 ± 1,0 Biến nghiên cứu Phẫu thuật nội soi hỗ trợ (n=17) Phẫu thuật nội soi toàn bộ (n=12) Phẫu thuật Cắt toàn bộ NRĐ 6 4 Mở chỏm nang 4 8 Cắt đoạn ruột với NRĐ* 7 0 Cắt ruột thừa 9 7 Số lượng trocar trung bình* 1,9 3 Thời gian mổ (phút) 63,8 ± 17,5 64,6 ± 17,1 Ngày nằm viện sau mổ 4,0 ± 1,2 4,4 ± 1,2 * Biến nghiên cứu với khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <  0,05).  Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm  PTNSHT  và PTNSTB  về  đặc  điểm  bệnh  nhân,  kích thước NRĐ, thời gian mổ và thời gian nằm  viện  sau mổ  (Bảng  1).  Tuy  nhiên  cắt  ruột  chỉ  thực hiện ở nhóm PTNSHT (p < 0,05). Số lượng  trocar trung bình dùng trong nhóm PTNSHT là  ít hơn có ý nghĩa so với nhóm PTNSTB  (1,9 so  với 3,0; p < 0,05) và nội soi 1 trocar duy nhất chỉ  sử dụng ở nhóm PTNSHT.  Bảng 2. Phẫu thuật nội soi cắt bỏ toàn bộ nang ±  cắt ruột so với mở chỏm nang.  Biến nghiên cứu Cắt toàn bộ (n=17) Mở chỏm nang (n=12) Đặc điểm bệnh nhân Tuổi (tháng) 38,2 ± 28,9 20,5 ± 19,3 Giới: nam/ nữ* 13/4 4/8 Cân nặng (kg) 12,8 ± 4,5 9,9 ± 4,9 Vị trí nang ruột đôi Hồi tràng 13 8 Manh tràng 2 3 Hỗng tràng 0 1 Đại tràng ngang 1 0 Tá tràng 1 0 Kích thước (cm) 4,1 ± 2,3 4,4 ± 1,0 Phẫu thuật: * Phẫu thuật nội soi toàn bộ 4 8 Phẫu thuật nội soi hỗ trợ 13 4 Số lượng trocar trung bình 2,3 2,5 Thời gian mổ (phút) 63,5 ± 18,9 65,0 ± 14,9 Ngày nằm viện sau mổ 4,0 ± 1,3 4,3 ± 1,2 * Variable with statistical significant difference (p < 0,05).  So sánh giữa nhóm bệnh nhân được cắt bỏ  toàn  bộ NRĐ  (có  cắt  hoặc  không  cắt  ruột),  và  nhóm bệnh nhân được mở chỏm nang  thấy có  sự  khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  về  phương  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  44 pháp phẫu thuật: PTNSTB thường ít cắt toàn bộ  nang hơn so với PTNSHT. Các biến còn lại (với  loại trừ về giới) không có sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê, kể cả ngày nằm viện sau mổ.   BÀN LUẬN   Cho  đến  nay  số  lượng  các  nghiên  cứu  về  PTNS trong điều trị NRĐ là rất hạn chế và đa số  các nghiên cứu này là dựa trên số lượng một vài  bệnh nhân(7,8,9). Một báo cáo  số  lượng  lớn bệnh  nhân  là  nghiên  cứu  đa  trung  tâm  từ  18  bệnh  viện  trong  vòng  15  năm(2).  Nghiên  cứu  của  chúng tôi là trên số lượng bệnh nhi lớn nhất tại  một trung tâm cho tới nay.  Biểu hiện lâm sàng của NRĐ ở trẻ em là tùy  thuộc  vào  vị  trí  của  nang(2,4).  Tất  cả NRĐ  của  trong  nghiên  cứu  này  đều  là  trong  ổ  bụng  và  không có  triệu chứng  lâm sàng đặc hiệu. Chẩn  đoán xác định NRĐ trong báo cáo này chủ yếu  dựa vào  siêu âm và/hoặc CT. Tuy nhiên  trong  một số  trường hợp các phương  tiện chẩn đoán  hình ảnh này cũng không phân biệt được NRĐ  với các bệnh lý khác như u nang buồng trứng, u  nang bạch huyết ổ bụng, nang ống mật chủ như  đã thấy ở nghiên cứu này cũng như các báo cáo  khác(1,7). Mặc dù xạ đồ với 99 mTc‐pertechnetate  có  thể có  ích  trong phát hiện niêm mạc dạ dày  lạc  chỗ  trong  NRĐ,  phương  pháp  này  cũng  không  thể  phân  biệt  được  NRĐ  với  túi  thừa  Mecjkel(10). Theo kinh nghiệm  của  chúng  tôi và  các  tác giả khác, nội soi ổ bụng có  thể được sử  dụng  như  phương  tiện  chẩn  đoán  hữu  hiệu  trong các trường hợp như vây.   Điều  trị  tối  ưu  cho NRĐ  là phẫu  thuật  cắt  toàn  bộ  nang  nhưng  điều  này  không  phải  lúc  nào cũng đạt được vì nhiều vị trí khác nhau và  mối  liên  quan  của NRĐ  với  các  tổ  chức  xung  quanh(2,4). Các kỹ thuật khác nhau trong điều trị  NRĐ đã được báo cáo trong y văn bao gồm cắt  nang có cắt hoặc không cắt  ruột  liền kề, mở  lỗ  thông thành nang vào lòng ruột liền kề, cắt nang  một phần và bóc niêm mạc nang còn lại, nối ruột  với  nang  chủ  yếu  được  thực  hiện  bằng  mổ  mở(4,5,9). Trong một nghiên cứu đa trung tâm về  PTNS điều trị đường tiêu hóa đôi(2), kỹ thuật phổ  biến nhất là bóc cắt nang ‐ 48%, cắt ruột 28% và  mở  chỏm  nang  –  24%,  với  PTNSTB  được  sử  dụng  nhiều  hơn  PTNSHT.  Trong  nghiên  cứu  của chúng  tôi cả PTNSTB và PTNSHT được sử  dụng và lựa chọn giữa 2 kỹ thuật này phụ thuộc  vào chủ quan của phẫu thuật viên. Kết quả của  chúng tôi cho thấy vị trí của NRĐ có thể có vai  trò trong  lựa chọn kỹ thuật, khi tất cả các nang  manh  tràng  đôi  được  điều  trị  bằng  PTNSHT  trong khi NRĐ của hổng tràng, đại tràng ngang  và tá tràng được điều trị bởi PTNSTB. Tất nhiên  là PTNSHT có thể ứng dụng cho các trường hợp  NRĐ  di  động  hoặc  có  thể  giải  phóng  làm  di  động đủ để đưa ra ngoài qua rốn (cùng với quai  ruột sát kề).  Cắt  toàn  bộ NRĐ  được  thực  hiện  ở  58,6%  trong  loạt bệnh nhân của chúng  tôi và  tỷ  lệ cắt  ruột chỉ 23%, thấp hơn so với một nghiên cứu đã  công  bố(2).  Mở  chỏm  nang  là  kỹ  thuật  được  chúng  tôi  sử  dụng  trên  gần một  nửa  số  bệnh  nhân,  trong  trường  hợp  NRĐ  dích  không  rõ  ranh  giới  với  ruột  lành  liền  kề.  Kết  quả  của  chúng  tôi  cho  thấy mở  chỏm  nang  có  thể  cho  hiệu  quả  như  cắt  toàn  bộ  nang  nhưng  có  ưu  điểm hơn  là không phải cắt  ruột. Trong khi có  tác giả thông báo tỷ lệ tổ chức NRĐ còn lại sau  cắt có thể siêu âm thấy là 18% ở các bệnh nhân  cắt nang một phần(2),  trong  loạt bệnh nhân của  chúng  tôi  không  có  trường  hợp  nào  như  vậy.  Chúng  tôi khuyến cáo cắt  toàn bộ NRĐ khi có  thể  cắt  được  không  cần  cắt  ruột.  Trong  các  trường  hợp  còn  lại  có  thể  cân  nhắc mở  chỏm  nang là một sự lựa chọn thích hợp.   Tỷ lệ chuyển mổ mở được báo cáo là tới 32%  trong một nghiên cứu đa trung tâm(3).Trong loạt  bệnh nhân của chúng  tôi không có  trường hợp  nào phải chuyển mổ mở. Theo kinh nghiệm của  chúng  tôi cắt  toàn bộ nang hay mở chỏm nang  có  thể  thực  hiện  được  bởi  cả  PTNSTB  hoặc  PTNSHT. PTNSHT  thực hiện dễ dàng hơn khi  các thao tác phẫu thuật được tiến hành ngoài ổ  bụng giống như phẫu  thuật mổ mở kinh  điển.  Khi cần cắt ruột, PTNSHT sẽ là sự lựa chọn hàng  đầu. Tất cả các  trường hợp cắt  ruột  của  chúng  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  45 tôi  đều  thực hiện bằng PTNSHT. Với mở  rộng  tối thiểu vết mổ rốn, kết quả thẩm mỹ sau mổ là  rất tốt. Chúng tôi nhận thấy ở đa số các trường  hợp NRĐ, PTNSHT có thể thực hiện được với 1  trocar  duy  nhất.  Kinh  nghiệm  tương  tự  cũng  được báo  cáo bởi một  số  tác giả khác(1,8). Theo  kinh  nghiệm  của  chúng  tôi,  camera  10mm  có  kèm kênh 5mm cho dụng cụ là một phương tiện  rất hữu ích để thực hiện kỹ thuật này.   Kết quả nghiên cứu này cho thấy PTNS là an  toàn  trong  điều  trị NRĐ  ở  trẻ  em.  Trong  khi  nhiều  nhóm  trung  tâm  báo  cáo  biến  chứng  thường gặp nhất  trong mổ  là mở ống  tiêu hóa  không mong muốn  (gần 9%)(2),  trong  loạt bệnh  nhân của chúng  tôi không có biến chứng  trong  mổ nào. Tắc ruột là biến chứng khác thường gặp  sau mổ(2), nhưng chúng tôi cũng không có bệnh  nhân nào bị tắc ruột trong thời gian theo dõi.  KẾT LUẬN  Phẫu  thuật nội soi có  tính khả  thi, an  toàn,  hiệu quả và là lựa chọn hàng đầu trong điều trị  NRĐ ở  trẻ em. Cả 2 phương pháp PTNSTB và  PTNSHT có thể ứng dụng trong các trường hợp  chọn  lọc,  tuy  nhiên  PTNSHT  có  ưu  thế  hơn  trong trường hợp phải cắt ruột.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Al‐Zaiem MM (2011). Assisted laparoscopic excision of huge  abdominal cysts in newborns and infants using the umbilical  laparoscopic port incision. J Pediatr Surg,46(7): pp 1459‐1463.  2. Guérin F, PodevinG, Petit T  (2012). Outcome of  alimentary  tract duplications operated on by minimally invasive surgery:  a  retrospective  multicenter  study  by  the  GECI  (Groupe  dʹEtude en Coeliochirurgie Infantile). Surg Endosc,26(10): pp  2848‐2855.   3. Hartin  CW,  Lau  ST,  Escobar  MA,  Glick  PL  (2008).  Laparoscopic excision of a newborn rectal duplication cyst. J  Pediatr Surg,43(8): pp 1572‐1574.  4. Iyer CP, Mahour GH  (1995). Duplications of  the alimentary  tract  in  infants  and  children.  J  Pediatr  Surg,30(9):  pp  1267‐ 1270.  5. Laje P, Flake AW, Adzick NS (2010). Prenatal diagnosis and  postnatal  resection of  intraabdominal  enteric duplications.  J  Pediatr Surg,45(7): pp 1554‐1558.  6. Lee  KH,  Tam  YH,  Yeung  CK  (2000).  Laparoscopy  in  the  management of intestinal duplication in childhood. Aust N Z  J Surg,70(7): pp 542‐544.  7. Lima M, Molinaro F, Ruggeri G, Gargano T, Randi B (2012).  Role  of  mini‐invasive  surgery  in  the  treatment  of  enteric  duplications  in paediatric age: A survey of 15 years. Pediatr  Med Chir,34(5): pp 217‐222.  8. Martino A, Zamparelli M, Cobellis G, Mastroianni L, Amici  G(2001).  One‐trocar  surgery:  A  less  invasive  videosurgical  approach in childhood. J Pediatr Surg, 36(5): pp 811‐814.  9. Schalamon J, Schleef J, Höllwarth ME (2000). Experience with  gastro‐intestinal  duplications  in  childhood.  Langenbecks  Arch Surg,385(6): pp 402‐405.  10. Schleef J, Schalamon J (2000). The role of  laparoscopy  in  the  diagnosis  and  treatment  of  intestinal  duplication  in  childhood. A report of two cases. Surg Endosc,14(9): pp 865.  Ngày nhận bài         01/07/2013.  Ngày phản biện nhận xét bài báo   15/07/2013.  Ngày bài báo được đăng:    15–09‐2013 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphau_thuat_noi_soi_dieu_tri_nang_ruot_doi_o_tre_em.pdf
Tài liệu liên quan