Bàn luận về kỹ thuật khâu chủ mô thận qua
nội soi
Khâu chủ mô thận như thế nào? Vết xẻ chủ
mô thận được khâu lại tốt nhất bằng mũi chỉ
hình chữ U, vừa kín và vừa ít thương tổn thêm
chủ mô thận. Chúng tôi thực hiện mũi khâu
hình chữ U một cách khá dễ dàng qua nội soi mà
không gặp trở ngại nào. Hơn nữa, chúng tôi
chọn chỉ chromic 1.0 để khâu mà không cần
thêm trocart để giữ mối chỉ khâu, vì chỉ chromic
có độ bám dính rất tốt, và có lẽ thích hợp cho
chủ mô thận mỏng do ứ nước. Những lợi điểm
này khó có được, nếu chúng ta sử dụng chỉ
vicryl để khâu chủ mô thận.
Bàn luận về ống thông lưu niệu quản
Đặt ống thông lưu niệu quản trong lúc mổ
hay không? Trong 12 bệnh nhân của chúng tôi,
có 02 trường hợp không được đặt thông niệu
quản lưu, 01 bệnh nhân đầu tiên và sau đó thêm
01 bệnh nhân nam do thông niệu quản quá dài
sau khi đặt xong phát hiện ống thông ra bên
ngoài qua niệu đạo nên được rút bỏ. Trong thời
gian hậu phẫu, đến ngày thứ 05 vẫn còn dò rỉ
nước tiểu qua dẫn lưu sau phúc mạc và phải đặt
thêm thông JJ lưu niệu quản. Có lẽ do vị trí xẻ
chủ mô thận không được khâu kín gây ra dò
nước tiểu kéo dài qua vết mổ. Như vậy, chúng
tôi quyết định nên đặt ống thông niệu quản lưu
trong mổ sẽ giúp thời gian nằm viện ngắn hơn
nhiều, lúc tái khám sẽ rút bỏ ống thông niệu
quản mà không gặp khó khăn nào.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi đài thận và niệu quản đoạn lưng kinh nghiệm bước đầu qua 12 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 1
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC LẤY SỎI ĐÀI THẬN
VÀ NIỆU QUẢN ĐOẠN LƯNG KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU
QUA 12 TRƯỜNG HỢP
Nguyễn Đạo Thuấn*, Nguyễn Văn Ân*, Vĩnh Tuấn*, Đỗ Anh Toàn*, Văn Thành Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu phẫu thuật lấy sỏi đài thận và niệu quản đoạn lưng qua
nội soi sau phúc mạc, góp phần bàn luận ưu - khuyết điểm của phương pháp để có thể áp dụng rộng rãi
trong thực hành lâm sàng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân chưa phẫu thuật vùng hông lưng có sỏi
lớn niệu quản đoạn lưng gây thận ứ nước độ 3 kèm sỏi đài thận.
Kết quả: có 12 bệnh nhân thỏa điều kiện chọn bệnh. Số lượng sỏi đài thận trung bình là 2,54 (1- 5). Số
đài thận chứa sỏi nhiều nhất là 3. Số vị trí đài thận được mở nhiều nhất là 3, tất cả đều có nước tiểu vàng
trong. 10 bệnh nhân có số lượng sỏi lấy ra bằng với số lượng sỏi trên phim chụp KUB trước mổ, 2 bệnh
nhân còn sót 01 viên sỏi đài thận. Không có tai biến - biến chứng trong và sau mổ. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 68,7 phút (50 – 82). Có 10 trong 12 bệnh nhân được đặt ống thông lưu niệu quản. Thời gian
nằm viện trung bình là 4,3 ngày (2 – 7 ngày). Ống thông niệu quản được rút sau phẫu thuật 4 tuần. Kết
quả siêu âm sau 01 tháng, tất cả 12 bệnh nhân đều có độ ứ nước giảm xuống độ 2. có 10 bệnh nhân (83,4%)
không sỏi sót trên phim chụp KUB sau phẫu thuật.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi đài thận và niệu quản đoạn lưng là phẫu thuật an
toàn, hiệu quả nếu được chỉ định chặt chẽ, thao tác kỹ thuật của phẫu thuật viên khá tốt. Phẫu thuật này có
thể thay thế cho mổ mở trong trường hợp thận ứ nước độ 3, không quá viêm dính, sỏi khu trú trong các
nhóm đài thận giãn nở.
ABSTRACT
RETROPERITONIAL LAPAROSCOPIC NEPHRO-URETEROLITHOTOMY:
INITIAL EXPERIENCE IN 12 PATIENTS
Nguyen Dao Thuan, Nguyen Van An, Vinh Tuan, Do Anh Toan, Van Thanh Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 221 - 226
Purposes: We analysed method of the retroperitonial laparoscopic nephro-ureterolithotomy, so that can
spreadly use in clinics of urology.
Materials and methods: Patients with the calix and upper ureter calculi that caused serious
hydronephrosis. No evidences for former surgery of the isolateral kidney and upper ureter.
Results: We had 12 patients for the indication. The mean calix stones was 2.54 (1-5). Highest number
of calix with stones was 3. Highest number of calix incisions was 3. No evidence of UTI. No complications.
Mean operatively time was 68.7 mins (50 – 82). There were 10 patients with uerteral stent. Mean
postoperatively time was 4.3 days (2 – 7). The ureteral stent was removed at 4th week postoperatively. Follow
up postoperatively 1 month, all the patients were less hydronephrosis on ultrasound, free stone rate gained
10/12 (83.4%) the patients on postoperatively KUB.
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 2
Conclusions: The retroperitonial laparoscopic nephro-ureterolithotomy had good results with safeness.
In our opinion, if there is serious hydronephrosis and located nephrolithiasis, the procedure will can take
place for the open surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời của những kỹ thuật ít xâm hại trong
Niệu Khoa như nội soi niệu quản ngược dòng,
tán sỏi ngoài cơ thể, lấy sỏi thận qua da đã mang
lại những lợi điểm lớn lao trong việc điều trị sỏi
đường niệu trên. Tuy nhiên, cho đến nay, những
kỹ thuật này vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn
được kỹ thuật mổ mở ở những bệnh nhân có sỏi
niệu quản lớn, cứng và dính chặt vào niêm mạc(2).
Từ khi báo cáo đầu tiên của Clayman và cộng
sự(1), phẫu thuật nội soi trong niệu khoa đã được
ứng dụng điều trị khá rộng rãi trong nhiều bệnh
lý, trong đó có phẫu thuật nội soi lấy sỏi niệu
quản đoạn lưng xuyên phúc mạc. Đặc biệt, sau
khi Gaur(3) giới thiệu và phát triển khuynh hướng
phẫu thuật lấy sỏi niệu quản qua nội soi sau phúc
mạc, ngày nay ở một số trung tâm niệu khoa trên
thế giới đã chọn làm phương pháp phẫu thuật
thường qui cho sỏi niệu quản đoạn lưng.
Hiện nay, tại bệnh viện Bình Dân thành phố
Hồ Chí Minh, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
lấy sỏi niệu quản đoạn lưng đã rất phổ biến, khi
không thể chỉ định bằng các kỹ thuật ít xâm hại
như trên được. Tuy nhiên, tình huống sỏi niệu
quản đoạn lưng gây thận ứ nước độ 3, kèm sỏi
đài thận cùng bên, chúng tôi vẫn còn phẫu thuật
mổ mở để phẫu thuật dứt điểm một lần cho
bệnh nhân. Qua những trường hợp này, chúng
tôi nhận thấy có thể thực hiện được phẫu thuật
này bằng kỹ thuật nội soi sau phúc mạc. Chính
vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi đài thận và
niệu quản đoạn lưng cho những bệnh nhân này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn lựa
Những bệnh nhân có sỏi lớn niệu quản đoạn
lưng, gây thận ứ nước độ 3, kèm sỏi đài thận
cùng bên. Thận bên bệnh còn phân tiết trên
phim chụp UIV.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Những bệnh nhân có vết mổ cũ vùng hông
lưng bên bị bệnh.
- Những bệnh nhân chống chỉ định phẫu
thuật nội soi.
- Những bệnh nhân có thận ứ nước không
phân tiết trên UIV hoặc có bằng chứng mất chức
năng trên kết quả xạ hình thận.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại khoa
Niệu A, bệnh viện Bình Dân từ tháng 04 năm
2007 đến tháng 11 năm 2007, sau đó theo dõi
bệnh nhân tái khám sau 01 tháng.
Kỹ thuật mổ
- Bệnh nhân nằm tư thế nghiêng 90 độ, đối
bên với thận – niệu quản bị sỏi.
- Mê nội khí quản
- Rạnh da 1cm tại điểm giao của đường nách
sau và đường song song ngay hoặc dưới xương
sường 12 cùng bên thận – niệu quản bị sỏi. Dùng
kèm kelly tách cơ thẳng góc mặt phẳng hông
lưng cho đến khi vào khoang sau phúc mạc.
nong khoang sau phúc mạc bằng bong bóng tự
tạo. Đưa trocart 10mm vào khoang.
- Bơm khí CO2 vào khoang sau phúc mạc với
áp lực khoảng 14 cmH2O.
- Đưa thêm 1 trocart 10mm và 1 trocart 5mm
lần lượt vào khoang sau phúc mạc tại điểm trên
mào chậu ngay đường nách giữa, và tại điểm giao
giữa xương sườn 12 kéo dài và đường nách trước.
- Dưới sự hướng dẫn của camera nội soi,
dùng kềm kelly và kéo nội soi tìm và bóc tách
niệu quản lên vị trí sỏi. Bóc tách bao mỡ quanh
thận để bộc lộ vùng thận nghi ngờ có sỏi.
- Tìm vị trí chủ mô thận mỏng trong vùng
nghi ngờ có sỏi đài thận. Dùng kéo xẻ chủ mô
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 3
thận đủ rộng thấy sỏi đài thận, hút hết nước tiểu,
tìm thấy và gắp sỏi đài thận ra, kiểm tra kỹ các
đài thận, đối chiếu số lượng sỏi lấy ra và số
lượng sỏi trên phim chụp KUB để đảm bảo hết
sỏi, nếu chưa lấy đủ sỏi, tìm và xẻ chủ mô đài
khác để lấy hết sỏi đài thận.
- Xẻ niệu quản lấy sỏi niệu quản. Có thể đặt
ống thông lưu niệu quản.
- Khâu lại chủ mô thận mũi chủ U bằng chỉ
chromic 1.0, khâu lại niệu quản bằng chỉ vicryl
4.0. Lau khô khoang sau phúc mạc và đặt dẫn
lưu quanh thận qua đường vào trocart. Khâu lại
vết rạch da lỗ trocart bằng chỉ soi 3.0, cố định
ống dẫn lưu.
Các thông số trước phẫu thuật
- Tuổi và giới của bệnh nhân
- Số lượng sỏi đài thận
- Vị trí các nhóm đài chứa sỏi
Các thông số trong phẫu thuật
- Số trocart đưa vào khoang sau phúc mạc
- Tai biến thủng phúc mạc và thương tổn cơ
quan trong ổ bụng
- Tình trạng dày dính lúc bóc tách thận và
niệu quản
- Tình chất nước tiểu
- Tình trạng chủ mô thận, số vị trí mở chủ mô
- Số lượng sỏi đài thận
- Tai biến chảy máu khi mở chủ mô thận
- Tình trạng bám dính của sỏi niệu quản
- Đặt ống thông lưu niệu quản
- Thời gian phẫu thuật
Các thông số trong thời gian hậu phẫu
- Tai biến nhiễm khuẩn
- Chảy máu sau phẫu thuật
- Thời gian nằm viện hậu phẫu
- Thời gian dò nước tiểu và rút bỏ thông dẫn
lưu vết mổ
Theo dõi 1 tháng sau phẫu thuật
- Siêu âm hệ niệu.
- Chụp phim KUB.
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian 08 tháng, chúng tôi
đã chọn lựa, thực hiện và theo dõi được 12 bệnh
nhân thoả điều kiện nghiên cứu. Tuổi trung bình
của bệnh nhân là 54,6 (43 – 66). trong đó có 7
bệnh nhân nam (58,33%) và 5 bệnh nhân nữ
(41,66%).
Tất cả 12 bệnh nhân đều có sỏi lớn niệu quản
đoạn lưng gây thận ứ nước độ 3, kèm theo sỏi
nhóm đài thận dưới. Số lượng sỏi đài thận trung
bình là 2,54 (1- 5). Số đài thận chứa sỏi nhiều
nhất là 3.
Số vị trí đài thận được mở nhiều nhất là 3, tất
cả các trường hợp đều có nước tiểu vàng trong,
thận và niệu quản không viêm dính. 10 bệnh
nhân có số lượng sỏi lấy ra bằng với số lượng sỏi
trên phim chụp KUB trước mổ, 02 bệnh nhân
còn sót 01 viên sỏi đài thận. Không có tai biến
thủng phúc mạc hay chảy máu chủ mô thận.
Không có trường hợp nào cần thêm trocart thứ 4
hay chuyển sang mổ mở. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 68,7 phút (50 – 82). Có 10 trong 12
bệnh nhân được đặt ống thông lưu niệu quản.
Sau phẫu thuật không có tai biến - biến
chứng chảy máu hay nhiễm khuẩn niệu. Có 2
bệnh nhân không được đặt ống thông lưu niệu
quản, bị dò nước tiểu vết mổ phải đặt ống thông
JJ niệu quản trong thời gian hậu phẫu. Thời gian
nằm viện trung bình là 4,3 ngày (2 – 7 ngày).
Ống thông niệu quản và ống thông JJ được rút
sau phẫu thuật 4 tuần, lúc bệnh nhân tái khám.
Kết quả siêu âm sau 01 tháng, tất cả 12 bệnh
nhân đều có độ ứ nước giảm từ độ 3 xuống độ 2.
10 bệnh nhân không còn bằng chứng sỏi sót trên
phim chụp KUB sau phẫu thuật, 02 bệnh nhân
còn sót 01 viên sỏi nhỏ đài thận.
BÀN LUẬN
Sỏi đường tiết niệu là bệnh lý thường gặp
trong niệu khoa. Với sự ra đời của các kỹ thuật
can thiệp ít xâm hại như, tán sỏi ngoài cơ thể, tán
sỏi qua nội soi niệu quản ngược dòng, lấy sỏi
thận qua da, điều trị sỏi đường niệu trên có
nhiều chọn lựa hơn. Tuy nhiên, trong trường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 4
hợp sỏi niệu quản đoạn lưng có kích thước lớn,
cứng và dính chặt vào niêm mạc niệu quản thì
vai trò của phẫu thuật lấy sỏi qua nội soi xuyên
và sau phúc mạc có những ưu điểm trội bật(2).
Mặt khác, những sỏi lớn niệu quản kèm sỏi các
đài thận thường gây ra những khó khăn trong
việc chọn lựa phương pháp điều trị, bởi sự quan
ngại về tỉ lệ sạch sỏi của phương pháp được
chọn lựa. Do vậy, vai trò của mổ mở trong
những trường hợp này vẫn còn được ưa chuộng
ở một vài trung tâm niệu khoa. Trong quá trình
mổ mở, cùng với sự phát triển của phẫu thuật
nội soi sau phúc mạc, chúng tôi nhận thấy, có
thể tốt hơn cho bệnh nhân khi chọn lựa phẫu
thuật nội soi sau phúc mạc lấy sỏi đài thận và
niệu quản đoạn lưng, trong trường hợp thận ứ
nước lớn nhưng còn chức năng. Qua tham khảo
tài liệu hiện thời, chúng tôi chưa tìm được
nghiên cứu nào tương tự trước đây kể cả trong
và ngoài nước. Vì vậy, chúng tôi cũng phân tích
một vài khía cạnh nổi bật của phẫu thuật này.
Bàn luận về xẻ chủ mô thận lấy sỏi
Với sự hạn chế của phương tiện kỹ thuật có
được, chúng tôi lựa chọn phẫu thuật mở chủ mô
thận tại vị trí đài thận giãn nở và chứa sỏi. Dưới
sự quan sát trực tiếp của camera nội soi, chúng
tôi tìm và lấy sỏi đài thận qua đối chiếu với số
lượng và vị trí sỏi đài thận trên phim chụp KUB
và UIV trước mổ, để xác định đã lấy hết sỏi đài
thận hay chưa. Khi chúng tôi bộc lộ chủ mô thận
qua việc bóc tách mô mỡ quanh thận và vị trí
thận được xẻ là vùng chủ mô mỏng, thường là
mặt sau cực dưới thận nên hầu như không gây
chảy máu. Đã có những nghiên cứu báo cáo
thành công trong thực nghiệm trên lợn, lấy sỏi
thận qua nội soi xẻ chủ mô thận theo đường vô
mạch(4). Trong lô nghiên cứu của chúng tôi việc
xẻ chủ mô có vài đặc điểm khác biệt, không dựa
trên đường vô mạch của chủ mô thận mà vẫn
không gây chảy máu chủ mô, do chủ mô thận
mỏng, vị trí chủ mô được xẻ thường là mặt sau
cực dưới thận. Vấn đền này cũng được F. J. B.
Sampaio(5) khẳng định khi báo cáo tỉ lệ tổn
thương mạch máu lúc chọc dò lấy sỏi thận qua
da giảm dần theo vị trí chọc dò vào chủ mô thận.
Tỉ lệ này tương ứng nhóm đài thận trên là 26%,
nhóm đài thận giữa là 23% và nhóm đài thận
dưới là 13%.
Bàn luận về chỉ định phẫu thuật
Phẫu thuật này có thể được chỉ định cho tất
cả các bệnh nhân có sỏi niệu quản đoạn lưng gây
thận ứ nước độ 3 kèm sỏi đài thận hay không?
Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều có thận ứ
nước độ 3 nhưng còn phân tiết trên phim UIV
trước mổ. Hơn nữa, trong lô nghiên cứu này, số
lượng sỏi đài thận nhiều nhất là 05 viên và số
lượng đài thận chứa sỏi riêng biệt nhiều nhất là
03 đài, nên khá dễ dàng để lấy hết sỏi qua đường
rạch xẻ chủ mô thận. 02 trường hợp còn sót lại
sỏi là do 01 trường hợp sỏi nằm vào một đài
thận khác và 01 trường hợp còn lại có sỏi chạy
lên đài thận trên, mặc dù đã mở rông nhóm đài
rhận dưới và cố gắng tìm, chỉ kiểm tra lại được
viên sỏi qua phim chụp KUB sau phẫu thuật
.Tuy nhiên, những trường hợp có sỏi lớn đài
thận, bám dính hoặc nằm rãi rác nhiều nhóm đài
thận thì quá trình phẫu thuật sẽ khó khăn hơn
nhiều. Những trường hợp này, sẽ tốt hơn khi có
ống nội soi mềm để tìm và lấy hết sỏi đài thận.
Như vậy, chỉ định cho kỹ thuật này nên dựa vào
số lượng sỏi đài thận (dễ dàng xác định trên
phim chụp KUB), và số lượng đài thận riêng biệt
chứa sỏi (xác định trên phim chụp UIV và siêu
âm thận) không quá nhiều.
Bàn luận về thứ tự lấy sỏi thận – niệu quản
Nên lấy sỏi niệu quản hay sỏi đài thận trước?
Chúng tôi nhận thấy, khi xẻ chủ mô thận để lấy
sỏi đài thận trước khi lấy sỏi niệu quản, chúng
tôi đã gặp được nhiều thuận lợi hơn. khi đó,
thận đang chướng nước, qua nội soi trực tiếp
bên ngoài thận sẽ thấy được vùng chủ mô thận
mỏng, vị trí sỏi tương ứng với vị trí trên phim
chụp UIV. Đặc biệt, khi xẻ chủ mô thận đang còn
chướng nước, thì chúng ta chủ động nhìn thấy
và lấy sỏi đài thận dễ dàng hơn vì sỏi chưa di
chuyển qua các nhóm đài thận khác. Những lợi
điểm này khó có được khi chúng ta thực hiện lấy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 5
sỏi niệu quản trước, quá trình này sẽ làm thoát
nước tiểu quá sớm khi chưa lấy được sỏi đài
thận. Trong 12 bệnh nhân của chúng tôi với
bước tiến hành này, chúng tôi không quá khó
khăn khi tìm và lấy đủ sỏi đài thận. Đồng thời,
kết quả KUB sau mổ 01 tháng cũng chứng minh
không còn sỏi đài thận. Tuy nhiên, có 01 trường
hợp chúng tôi lấy sỏi đài thận trước khi bóc tách
niệu quản, và đã gặp phải khó khăn nhỏ trong
việc tìm thấy niệu quản, do phẫu trường không
được rõ ràng để tìm niệu quản vì có tẩm nhuận
nước tiểu từ thận. Chính vì vậy, chúng tôi có
nhận xét, trước tiên nên tìm và bóc tách niệu quản
đến vị trí sỏi, tiếp theo là tìm và lấy sỏi đài thận
rồi trở lại lấy sỏi niệu quản sau cùng, thứ tự này
giúp phẫu thuật của chúng ta có những thuận lợi
hơn nhiều.
Bàn luận về số lượng trocart phẫu thuật
Nên sử dụng bao nhiêu trocart? Trong tất cả
các trường hợp của nghiên cứu này, chúng tôi
chỉ sử dụng 3 trocart để thực hiện. Việc quan
ngại là phải dùng trocart thứ tư khi quá trình
phẫu thuật bị thủng phúc mạc gây khó khăn
trong việc giữ phẫu trường đủ rộng để thao tác,
hoặc cần thiết để giữ mối chỉ trong lúc khâu chủ
mô thận. Tuy nhiên, trong 12 bệnh nhân của
chúng tôi, không có trường hợp nào bị thủng
phúc mạc, bên cạnh đó chúng tôi sử dụng chỉ
chromic 1.0 để khâu chủ mô thận. Do vậy,
không cần thiết để dùng thêm trocart thứ tư.
Bàn luận về kỹ thuật khâu chủ mô thận qua
nội soi
Khâu chủ mô thận như thế nào? Vết xẻ chủ
mô thận được khâu lại tốt nhất bằng mũi chỉ
hình chữ U, vừa kín và vừa ít thương tổn thêm
chủ mô thận. Chúng tôi thực hiện mũi khâu
hình chữ U một cách khá dễ dàng qua nội soi mà
không gặp trở ngại nào. Hơn nữa, chúng tôi
chọn chỉ chromic 1.0 để khâu mà không cần
thêm trocart để giữ mối chỉ khâu, vì chỉ chromic
có độ bám dính rất tốt, và có lẽ thích hợp cho
chủ mô thận mỏng do ứ nước. Những lợi điểm
này khó có được, nếu chúng ta sử dụng chỉ
vicryl để khâu chủ mô thận.
Bàn luận về ống thông lưu niệu quản
Đặt ống thông lưu niệu quản trong lúc mổ
hay không? Trong 12 bệnh nhân của chúng tôi,
có 02 trường hợp không được đặt thông niệu
quản lưu, 01 bệnh nhân đầu tiên và sau đó thêm
01 bệnh nhân nam do thông niệu quản quá dài
sau khi đặt xong phát hiện ống thông ra bên
ngoài qua niệu đạo nên được rút bỏ. Trong thời
gian hậu phẫu, đến ngày thứ 05 vẫn còn dò rỉ
nước tiểu qua dẫn lưu sau phúc mạc và phải đặt
thêm thông JJ lưu niệu quản. Có lẽ do vị trí xẻ
chủ mô thận không được khâu kín gây ra dò
nước tiểu kéo dài qua vết mổ. Như vậy, chúng
tôi quyết định nên đặt ống thông niệu quản lưu
trong mổ sẽ giúp thời gian nằm viện ngắn hơn
nhiều, lúc tái khám sẽ rút bỏ ống thông niệu
quản mà không gặp khó khăn nào.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, tuy số liệu còn ít, chỉ
định còn hẹp nhưng cũng rút ra được một số kết
luận như sau. Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc
lấy sỏi đài thận và niệu quản đoạn lưng là một
phẫu thuật có tính an toàn, hiệu quả chấp nhận
được nếu được chỉ định chặt chẽ, thao tác kỹ
thuật của phẫu thuật viên khá tốt. Phẫu thuật
này có thể thay thế cho mổ mở trong trường hợp
thận ứ nước độ 3, không quá viêm dính, sỏi khu
trú trong các nhóm đài thận giãn nở. Chúng tôi
sẽ tiếp tục đề tài với chỉ định dần dần rộng rãi và
phong phú hơn để góp phần khẳng định thêm
vai trò của phẫu thuật nội soi sau phúc mạc điều
trị các bệnh lý niệu khoa nói chung và sỏi đường
niệu trên nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Clayman R.V., Kavoussi L.R., Soper N.J., Dierks S.M.,
Meretyk S., Darcy M.D., Roemer F.D., Pingleton E.D.,
Thomson P.G., Long S.R.: “Laparoscopic nephrectomy: initial
case report”. J Urol 1991; 146, pp 278-82.
2. Jeong B.C., Park H.K., Byeon S.S., Kim H.H.:
“Retroperitoneal Laparoscopic Ureterolithotomy for Upper
Ureter Stones”, J Korean Med Sci 2006; 21, pp 441-4.
3. Gaur D.D.: “Laparoscopic operative retroperitoneoscopy:
use of a new device”. J Urol 1992; 148, pp 1137-93.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 6
4. Kaouk J.H., Gill I.S., Desai M.M., Banks K. L.W., Raja S.S.,
Skacel M. and Sung G.T.: “Laparoscopic Anatrophic
Nephrolithotomy: Feasibility Study In A Chronic Porcine
Model”, The J Urol. Feb 2003, Vol. 169, pp 691–696.
5. Sampaio F. J. B.: “Renal anatomy. Endourologic
Considerations”. Urol. Clin. North Ame 2000. vol 27, No 4.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_noi_soi_sau_phuc_mac_lay_soi_dai_than_va_nieu_qua.pdf