Về mặt cấu trúc giải phẫu thì thành bên sống
mũi chiếm 2/3 trên của mũi là phần cố định, được
cấu tạo bởi xương. Ở bệnh nhân này khuyết hoàn
hoàn thành bên trái chúng tôi sử dụng mảnh ghép
sụn vách mũi kích thước 1.3*2.3 cm, được lấy từ
vùng lấy vạt lật xoay niêm mạc ở vách mũi. Chúng
tôi sử dụng cách này bởi mảnh sụn lấy dễ dàng,
khuyết hổng sụn bé, sụn dủ dày, đủ vững và đặc
biệt không phải lấy xương ở vị trí khác ghép vào
(lấy bản ngoài xương sọ, bản ngoài xương chầy ).
Vạt da cân trán: Theo y văn Converse, Gillis,
Buger [3,6,7] khuyết hổng toàn bộ chiều dày một
phần hay toàn bộ mũi thì chất liệu tạo hình là vạt
da cân trán luôn luôn được ưu tiên lựa chọn. Do
vậy chúng tôi đã sử dụng vạt da cân trán chếch
trái, với cuống mạch liền ở phía đầu cung mày
phải, kích thước 1,7* 5.4 cm, phía đầu vạt được
bóc sát lớp hạ bì nhằm tạo độ mỏng vạt da , giúp
dễ dàng tái tạo cánh và đầu mũi. Vạt được bóc
tách sâu dần , tới lớp mỡ, lớp cân và phần gần gốc
vạt bao gồm cả cơ trán, kèm động mạch trán trên
cấp máu cho vạt. Với việc lấy vạt và kích thước vạt
theo tỷ lệ 3:1 luôn đảm bảo cho vạt có sức sống
tốt, nguồn cấp máu phong phú. Do vậy, mặc dù
góc quay vạt trán 150 độ vẫn không ảnh hưởng
đến sự cấp máu vạt.
Ống silicone lỗ mũi đủ lớn và cứng được giữ
trong 10 ngày giúp định hình kiểu dáng lỗ mũi
tạo hình, giúp bệnh nhân thở dễ dàng hơn.
Phẫu thuật thì 2:
Theo thường lệ chúng tôi tiến hành tập vạt sau 3
tuần để làm giảm nguồn cấp máu cho vạt. Tuy nhiên
chúng tôi nhân thấy sau 3 tuần vạt da được nuôi
dưỡng rất tốt, mặc dù kẹp tập vạt trong khoảng thời
gian dài mà không có hiện tượng thiểu dưỡng, thiếu
máu xảy ra. Hiện tượng này được tái khẳng định ở
diện cắt đầu xa vạt chảy máu nhiều khi cắt cuống
vạt. Điều đó chứng tỏ ở trẻ em mạch máu tân tạo
tăng sinh rất nhanh và phong phú. Ngoài ra một yếu
tố rất quan trọng giúp đạt kết quả tốt đó là tất cả các
diện cắt của nền nhận vạt da cân trán ở vùng mũi
tạo hình được cấp máu tốt.
Sau khi cắt cuống vạt da trán, chúng tôi tiếp
tục làm mỏng vạt, khâu tạo hình che phủ vùng
sống mũi và tạo hình đầu cung mày phải bằng
các vạt tam giác chèn tạo sự cân đối cung mày hai
bên. Các biến dạng như hai mắt lệch nhau, 2 mắt
xa nhau tiếp tục được chúng tôi theo dõi và phẫu
thuật trong thì tiếp theo.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật tái tạo mũi bằng vạt trán trên bệnh nhân khe hở mặt số 3 hiếm gặp khuyết toàn bộ 1/2 mũi, nhân 1 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
phần nghiên cứu
1. Đặt vấn Đề
Khe hở mặt là dị tật bẩm sinh hiếm gặp trong
các dị tật bẩm sinh vùng sọ mặt. Với tần suất
xuất hiện 0,7-5.4/1000 so với di tật khe hở môi và
vòm miệng 1,43-4.85/100.000 trẻ được sinh ra.
Nguyên nhân đến nay vẫn chưa rõ ràng. Có hai
cách phân loại khe hở mặt khác nhau, theo Paul
Tessier và Maulen. Trong đó phân loại các hình
thái khe hở mặt được Paul Tessier đề xuất vào
năm 1976[7, 6] được áp dụng cho đến ngày nay
với 14 loại khe hở mặt với các mức độ khác nhau,
từ số 0 đến số13. Khe hở mặt số 3 được đặc trưng
bởi các biến dạng mũi, cánh mũi, hai góc mắt xa
nhau - hai mắt không cân đối, mắt bên khe hở
lệch thấp, trễ mi.
Phẫu thuật tạo hình điều trị dị tật khe hở mặt
hiếm gặp, phức tạp Tessier số 3-4 luôn là thách
thức với mỗi phẫu thuật viên tạo hình bởi hình
thái lâm sàng đa dạng, độ tuổi tốt nhất can
thiệp?, lựa chọn phương pháp phẫu thuật phù
hợp [3,4,6,7]. Nhân một trường hợp bệnh nhi 2
tuổi bị di tật khe hở mặt số 3 phức tạp hiếm gặp
được tạo hình mũi bằng vạt trán, ghép sụn vách
mũi, sụn tai Chúng tôi muốn tìm hiểu lại y văn,
hệ thống lại phương pháp điều trị và thời điểm
phẫu thuật với dị tật này.
PHẪU tHUẬt tÁI tẠO MŨI BẰnG vẠt tRÁn tRÊn BỆnH nHÂn
KHE HỞ Mặt SỐ 3 HIẾM GặP KHUYẾt tOÀn BỘ 1/2 MŨI,
nHÂn 1 tRƯỜnG HỢP
Đặng Hoàng thơm, tô Mạnh tuân, trần thị Hạnh
Khoa Sọ mặt và Tạo hình, BV Nhi TW
tÓM tẮt
Đặt vấn đề: Khe hở sọ mặt hiếm gặp, phức tạp được phân loại theo Tessier, bao gồm khe hở
tổ chức phần mềm và phần cứng( xương, sụn). Phẫu thuật điều trị di tật khe hở mặt hiếm gặp
Tessier số 3-4 luôn là thách thức với mỗi phẫu thuật viên tạo hình.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, bàn luận về kế hoạch phẫu thuật và đánh giá kết quả
điều trị bệnh nhân khe hở mặt số 3 khuyết toàn bộ 1/2 mũi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả ca bệnh, nhân một trường hợp bệnh nhi 2
tuổi bị di tật khe hở mặt số 3 phức tạp khuyết toàn bộ 1/2 mũi bên trái được phẫu tái tạo cấu
trúc bằng vạt trán, ghép sụn vách mũi, sụn tai tại khoa Sọ mặt và Tạo hình Bệnh viện Nhi Trung
ương. Theo dõi kết quả 6 tháng sau mổ: mũi có cấu trúc, hình thể phù hợp và chức năng tốt.
Kết luận: Đây là giải pháp tốt có thể được lựa chọn điều trị cho khe hở mặt số 3 với khuyết
hổng mũi rộng, tiến hành phẫu thuật sớm tại trẻ nhỏ. Vạt trán ở trẻ em là nơi cung cấp chất liệu
tạo hình tốt, vạt có sức sống cao, ổn định, dạng vạt sử dụng đa dạng, linh hoạt khi kết hợp với
các chất liệu tạo hình khác khi tái tạo mũi.
Từ khoá: Khe hở mặt, tessier số 3, vạt trán.
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 2
66
2. Ca lÂM SÀnG
Bệnh nhân Nguyễn Diễm Ph 2 tuổi/ nữ, được
chẩn đoán bị dị tật bẩm sinh khe hở mặt số 3,
hiếm gặp và phức tạp với các triệu chứng lâm
sàng: khuyết toàn bộ 1/2 mũi bên trái (Từ gốc mũi
đến đầu mũi, khuyết cánh mũi, thành trái sống
mũi) lộ toàn bộ cuốn mũi bên trái. Hai góc mắt xa
nhau, hai mắt lệch nhau( góc mắt bên trái thấp
hơn bên phải, bờ mi dưới mắt trái lộn nhẹ. Bệnh
nhân được khám, theo dõi và điều trị phẫu thuật
tại khoa Phẫu thuật tạo hình sọ mặt, Bệnh viện
Nhi Trung ương.
Kế hoạch điều trị:
- Thì 1: Phẫu thuật tạo hình dựng mũi bằng vạt
da cân trán chếch trái cuống liền.
Phương pháp phẫu thuật tạo hình mũi thì 1
gồm 4 bước:
+ Bước 1: Tạo hình lỗ mũi trái và lớp niêm mạc
mũi bằng vạt niêm mạc vách ngăn mũi.
+ Bước 2: Lấy sụn tai ghép tạo hình khung sụn
cánh mũi trái.
+ Bước 3: Lấy sụn vách mũi tạo hình thành
bên sống mũi.
+ Bước 4: Lấy vạt da cân trán cuống mạch liền
quay xuống che phủ mặt ngoài 1/2 mũi bên trái.
Lỗ mũi trái đặt sonde silicone trong 10 ngày.
- Thì 2: Phẫu thuật cắt cuống vạt, tạo hình mũi
(sau 3 tuần) và dự kiến chỉnh 2 góc mắt sau 6
tháng.
3. BÀn lUẬn
3.1. theo Buget và Menic [2,7], Gillis và
Millar [6] về mặt hình thể chức năng và thẩm mỹ,
thì mắt là cơ quan quan trọng nhất trên khuôn
mặt, tiếp đến là môi và mũi. Theo Tessier [8], khe
hở sọ mặt luôn liên quan đến tất cả các tổ chức
phần mềm và xương, sụn bởi sự thiếu hụt nhiều
tổ chức và bất thường cấu trúc tồn tại ở khe sọ
mặt, Phẫu thuật điều trị với các hình thái khe hở
mặt phức tạp luôn khó khăn và đầy thách thức.
Trong trường hợp này, đây là khe hở mặt số 3
dạng hiếm gặp và phức tạp theo phân loại của
Tessier có biểu hiện biến dạng cả vùng mắt và
mũi; trong đó ở vùng mắt (bao gồm hai mắt xa
nhau; 2 mắt lệch nhau, mắt trái thấp hơn bên
phái, bờ mi trễ) và thị lực bình thường [6,7]. Tuy
nhiên với dị tật mũi với tình trạng khuyết toàn bộ
nửa mũi trái, các cuốn mũi thông và lộ hoàn toàn
ra bên ngoai, ảnh hưởng thẩm mỹ và chức năng,
trẻ liên tục bị viêm mũi họng, các cuốn mũi nề đỏ
nếu để lâu sẽ gây tổn thương và biến dạng thêm.
Do vậy chúng tôi cho rằng cần thiết phải phẫu
thuật tạo hình mũi đồng thời che phủ các cuốn
mũi càng sớm càng tốt. Tuy nhiên việc lựa chọn
phương pháp phẫu thuật nào, chất liệu tạo hình
gì, kế hoạch điều trị phải phù hợp với bệnh nhân.
Thương tổn không chỉ ảnh hưởng đến thẩm
mỹ, tâm lý trẻ, ngại tiếp xúc với bạn bè khi đến
tuổi đi nhà trẻ, ảnh hưởng đến hành vi của trẻ mà
còn gây sang chấn tâm lý cho bố mẹ và gia đình
nặng nề. vì vậy chúng tôi cho rằng bất kỳ biến
dạng vùng mắt, môi hay mũi luôn không chỉ là yêu
cầu bức thiết của bệnh nhân nhi và gia đình mà
còn đòi hỏi cấp thiết của công tác điều trị nhanh
chóng phục hồi cấu trúc giải phẫu, chức năng và
thẩm mỹ của vùng mũi và mắt bị biến dạng.
3.2. Đặc điểm giải phẫu vạt da trán
Theo Burget và Menic; Converse; Kazanjan
[3,7,9]: Vạt trán có cuống nuôi được lấy dựa trên
một hoặc cả hai động mạch trên ròng rọc hoặc
động mạch trên ổ mắt. Động mạch trên ròng rọc
thường nằm bên đường giữa 1,7-2,2 cm, tương
ứng với đường tiếp tuyến với cung mày; động
mạch trên ổ mắt nằm cách động mạch trên ròng
rọc 1,5 cm [ 1][2][3].
67
phần nghiên cứu
Nguyên tắc để vạt sống tốt và an toàn đó là tỷ
lệ chiều dài vạt / chiều rộng vạt phù hợp và động
mạch cấp máu cho vạt. Trong tất cả các trường
hợp tạo hình mũi bằng vạt trán thì vạt trán đều
được sử dụng dưới dạng vạt xoay; do đó cuống
vạt phải nằm ở vùng gian mày, động mạch trên
ròng rọc và động mạch trên ổ mắt cấp máu cho
vạt luôn được lấy cùng bên. Vạt trán xiên được
dựa trên động mạch trên ròng rọc, cuống sống
thường rộng 0,5-2 cm và nằm ở vùng trên ổ mắt.
Đoạn xa có thể lấy rộng hơn tuy nhiên, không
nên quá 3 cm vì đóng tổn khuyết nơi lấy vạt dễ.
Vạt trán giữa nằm phần giữa trên ổ mắt, có thể
sử dụng 1 hoặc cả 2 động mạch trên ròng rọc
[9]. Trong trường hợp này chúng tôi sử dụng vạt
da cân trán chếch, với cuống vạt là động mạch
trên ròng rọc. Tỷ lệ chiều dài/ chiều rộng vạt 3:1;
chúng tôi bóc vạt theo nguyên tắc sâu dần từ xa
đến gần, phần xa vạt mỏng, phần gần cuống vạt
dày lấy cả cơ trán, điều này phù hợp với nguyên
lý bóc vạt trán thường quy. Tuy nhiên nơi cho vạt
khoảng cách xa nhất gần 5 cm khó đóng trực tiếp
đòi hỏi chúng tôi phải sử dụng kỹ thuật bóc tách
rộng vùng trán 2 bên, trượt từ 2 bên vào che phủ
nơi cho vạt.
3.3. Kế hoạch phương pháp điều trị[1][2][6][9]
Theo các tác giả Menic [ 7] và Converse [3]:
Nguyên tắc trong Phẫu thuật tạo hình mũi phải phục
hồi về hình thể mũi vừa phải đảm bảo chức năng của
mũi. Trong trường hợp này các yếu tố quan trọng đó
là dựng được hình thể đầu mũi, lỗ mũi và thành bên
sống mũi và che phủ bề mặt ngoài.
Dựng hình thể đầu mũi: Chúng tôi nhận thấy
toàn bộ mũi bên trái khuyết để lộ cuốn và niêm
mạc vách mũi, đây chính là chất liệu tốt nhất để
tạo hình lớp niêm mạc lỗ mũi cần được tạo hình,
được sử dụng dưới dạng vạt niêm mạc lật, xoay
hướng ra ngoài theo không gian 3 chiều, cố định
vào vị trí chân cánh mũi mới. Dạng vạt niêm mạc
lật xoay này có nhiều ưu điểm vì lấy kèm cả mạc
sụn và cuống liền nên sức sống cao, vạt đủ lớn -
cứng cáp để che phủ và tạo hình lỗ mũi.
Theo Burget, Menic [3]: Vạt niêm mạc tại chỗ
ưu điểm nổi trội hơn so với giải pháp ghép da
tự do (phải lấy da, ghép da, nền ghép phải đảm
bảo nuôi dưỡng tốt), và ghép niêm mạc tự do
(sức sống kém, mỏng..). Tuy nhiên vì vạt lật xoay
niêm mạc vách mũi được sử dụng cả mạc sụn do
vậy nguy cơ co rút mạc sụn có thể xảy ra làm biến
dạng lỗ và đầu mũi. Chính vì vậy dựng hình khung
sụn cánh mũi phải được tăng cường đủ vững.
Khung sụn định hình sụn cánh mũi: Được
chúng tôi sử dụng sụn vành tai cùng bên, vị trí
lấy tại hõm xoăn tai, với đường mổ ở rãnh sau tai
trái đảm bảo không làm biến dạng vành tai và
sẹo được che dấu hoàn toàn trong rãnh sau tai.
Sụn tai sau khi lấy được làm vững và khâu gập tạo
góc sụn cánh mũi - sụn trụ mũi bằng chỉ PDS 5.0.
phần sụn trụ mũi được cố định và kết hợp với sụn
trụ mũi bên lành, phần sụn cánh mũi nằm phía
trên vạt niêm mạc cuộn lỗ mũi. Chính việc khâu
chỉ làm vững - tạo góc (dome lỗ mũi) sụn cánh
mũi và cố định sụn vào sụn trụ mũi bên đối diện
giúp khung sụn thêm vững chắc, ổn định không
di lệch và tạo giá để nâng đỡ vạt da trán che phủ
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 2
68
phía trên. Theo y văn thế giới Atina, Burget và Menic;
Converse, Kazanjan [1,2,3,7,9] sụn vành tai luôn
được lựa chọn là nguồn cung cấp chất liệu sụn
cho tạo hình sụn cánh mũi, bởi độ dày tương
đồng dộ dày sụn cánh mũi, sụn mềm mại, dễ uốn.
Trong trường hợp này chúng tôi lựa chọn vị trí lấy
tại hõm xoăn tai bởi bệnh nhân nhỏ tuổi 2 tuổi
(11kg); tại vị trí đó mới có thể lấy được mảnh sụn
đủ lớn và đủ dài đáp ứng được yêu cầu.
Về mặt cấu trúc giải phẫu thì thành bên sống
mũi chiếm 2/3 trên của mũi là phần cố định, được
cấu tạo bởi xương. Ở bệnh nhân này khuyết hoàn
hoàn thành bên trái chúng tôi sử dụng mảnh ghép
sụn vách mũi kích thước 1.3*2.3 cm, được lấy từ
vùng lấy vạt lật xoay niêm mạc ở vách mũi. Chúng
tôi sử dụng cách này bởi mảnh sụn lấy dễ dàng,
khuyết hổng sụn bé, sụn dủ dày, đủ vững và đặc
biệt không phải lấy xương ở vị trí khác ghép vào
(lấy bản ngoài xương sọ, bản ngoài xương chầy).
Vạt da cân trán: Theo y văn Converse, Gillis,
Buger [3,6,7] khuyết hổng toàn bộ chiều dày một
phần hay toàn bộ mũi thì chất liệu tạo hình là vạt
da cân trán luôn luôn được ưu tiên lựa chọn. Do
vậy chúng tôi đã sử dụng vạt da cân trán chếch
trái, với cuống mạch liền ở phía đầu cung mày
phải, kích thước 1,7* 5.4 cm, phía đầu vạt được
bóc sát lớp hạ bì nhằm tạo độ mỏng vạt da , giúp
dễ dàng tái tạo cánh và đầu mũi. Vạt được bóc
tách sâu dần , tới lớp mỡ, lớp cân và phần gần gốc
vạt bao gồm cả cơ trán, kèm động mạch trán trên
cấp máu cho vạt. Với việc lấy vạt và kích thước vạt
theo tỷ lệ 3:1 luôn đảm bảo cho vạt có sức sống
tốt, nguồn cấp máu phong phú. Do vậy, mặc dù
góc quay vạt trán 150 độ vẫn không ảnh hưởng
đến sự cấp máu vạt.
Ống silicone lỗ mũi đủ lớn và cứng được giữ
trong 10 ngày giúp định hình kiểu dáng lỗ mũi
tạo hình, giúp bệnh nhân thở dễ dàng hơn.
Phẫu thuật thì 2:
Theo thường lệ chúng tôi tiến hành tập vạt sau 3
tuần để làm giảm nguồn cấp máu cho vạt. Tuy nhiên
chúng tôi nhân thấy sau 3 tuần vạt da được nuôi
dưỡng rất tốt, mặc dù kẹp tập vạt trong khoảng thời
gian dài mà không có hiện tượng thiểu dưỡng, thiếu
máu xảy ra. Hiện tượng này được tái khẳng định ở
diện cắt đầu xa vạt chảy máu nhiều khi cắt cuống
vạt. Điều đó chứng tỏ ở trẻ em mạch máu tân tạo
tăng sinh rất nhanh và phong phú. Ngoài ra một yếu
tố rất quan trọng giúp đạt kết quả tốt đó là tất cả các
diện cắt của nền nhận vạt da cân trán ở vùng mũi
tạo hình được cấp máu tốt.
Sau khi cắt cuống vạt da trán, chúng tôi tiếp
tục làm mỏng vạt, khâu tạo hình che phủ vùng
sống mũi và tạo hình đầu cung mày phải bằng
các vạt tam giác chèn tạo sự cân đối cung mày hai
bên. Các biến dạng như hai mắt lệch nhau, 2 mắt
xa nhau tiếp tục được chúng tôi theo dõi và phẫu
thuật trong thì tiếp theo.
4. KẾt lUẬn
Khe hở sọ mặt liên quan đến tất cả các tổ chức
phần mềm và xương, sụn. Sử dụng vạt tổ chức
lân cận có vai trò quan trọng trong điều trị tái tạo
cấu trúc vùng khe hở, Phẫu thuật điều trị với các
hình thái khe hở mặt phức tạp luôn khó khăn và
đầy thách thức bởi sự thiếu hụt nhiều tổ chức và
bất thường cấu trúc tồn tại ở khe sọ mặt, đặc biệt
là các hình thái phức tạp, đòi hỏi phải có một kế
hoạch điều trị cụ thể, tuần tự, lựa chọn chất liều
tạo hình phù hợp để tạo ra kết quả lý tưởng. Phẫu
thuật tái tạo mũi điều trị khe hở mặt (Tessier )số
3 hiếm gặp, phức tạp bằng vạt da cân trán , ghé
sụn tai, sụn vách mũi, là giải pháp lựa chọn tốt, có
thể tiến hành phẫu thuật sớm tại trẻ nhỏ. Vạt trán
ở trẻ em có sức sống cao, ổn định, có thể sử dụng
đa dạng, linh hoạt.
69
phần nghiên cứu
tÀI lIỆU tHaM KHảO
1. antia, n. H., and Daver, B. M. Reconstructive
surgery for nasal defects. Clin. Plast. Surg. 8: 535,
1981.
2. Burget, G. C., and Menick, F. J. Aesthetic
Reconstruction of the Nose. St. Louis, Mo.: Mosby,
1994.
3. Converse, J. M. Full thickness nasal loss.
In J. M. Con- verse (Ed.), Reconstructive Plastic
Surgery, Vol. 2, 2nd Ed.Philadelphia: Saunders,
1977
4. Eppley Bl, van aalst Ja, Robey a, Havlik RJ,
Sadove aM. The spectrum of orofacial clefting.
Plast Reconstr Surg 2005; 115:101e-14e.
5. Fearon Ja. Rare craniofacial clefts: a surgical
classification. J Craniofac Surg 2008;19:110-2.
6. Gillies, H., and Millard, R. The Principles and
Art of Plastic Surgery. Boston: Little, Brown, 1957.
7. Menick, F. J. A ten-year experience in nasal
reconstruction with the three-stage forehead
flap. Plast. Reconstr.Surg. 109: 1839, 2002.
8. tessier P. Anatomical classification facial,
cranio-facial and latero-facial clefts. J Maxillofac
Surg 1976;4:69-92.
9. Kazanjian, v. H. The repair of nasal defects
with a median forehead flap: Primary closure of
forehead wound. Surg. Gynecol. Oncol. 83: 37,
1947.
Hình ảnh bệnh nhân sau phẫu thuật
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 2
70
aBStRaCt
RECOnStRUCtIvE SURGERY nOSE wItH FOREHEaD FlaP aMOnG
tREat ClEFt FaCE tESSIER nO. 3 PatIEnt: a CaSE REPORt
thom Đang Hoang, tuan to Manh, Hanh tran thi
Department of Plastic & Reconstructive Surgery,
National Pediatrics Hospital
Back ground: Nasal reconstruction using a paramedian forehead flap is a surgical technique to
reconstruct different kinds of defects of the nose. Surgical treatment of cleft defects rare face Tessier
no 3-4 is always a challenge for all surgeon.
Objective: To explore the clinical features and procedure surgery planning, and evaluate the
treatment outcome of patient with rarely cleft face patients Tessier No3-4.
Method: Case report, we reviewed medical records and clinical images of a two year old child with
cleft malformation complex surface with 3 ½ entire left nostril. Patient was reconstructive
surgery with flap structure forehead, nasal septum cartilage grafting, in the Department of plastic
& reconstructive surgery, National Pediatrics Hospital. Follow up 6 months after surgery: The nose
structure, form fit and nose’s function are well.
Conclusion: Surgical method is a good solution can be selected to treat cleft surface Tessier No. 3.
This procedure need be used early in children. Forehead flap in children which provide good visual
material, flap has high vitality, stability, diverse types flap use, flexibility in combination with other
materials as renewable shaped nose
Key words: Cleft face, Tessier No3, forehead.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_tai_tao_mui_bang_vat_tran_tren_benh_nhan_khe_ho_m.pdf