Xạ trị
Trong y văn có rất ít tài liệu đề cập đến xạ trị
cho mêlanôm hậu môn-trực tràng, mặc dù xạ trị
có mang lại kết quả cho mêlanôm ở vị trí khác
như mêlanôm da và vùng đầu cổ. Được chỉ định
điều trị tạm bợ khi bướu đã xâm lấn tại chỗ
nhiều, không thể phẫu thuật được. Vì được xem
là kháng tia nên các tác giả khuyến cáo nên tăng
liều xạ. Các tác giả thường chọn phác đồ xạ trị
với 3 trường chiếu (một trường chiếu sau và 2
trường chiếu bên); với tổng liều xạ là 25-30Gy,
phân liều là 5Gy(13,33,6,6,28,33). Tại MD Anderson
Cancer Centre. Thường dùng phác đồ xạ trị cho
mêlanôm với tổng liều là 30Gy, phân liều 6Gy
trong thời gian 2,5 tuần(6).
Tiên lượng
Mêlanôm hậu môn-trực tràng có tiên lượng
xấu, vì thường do phát hiện trễ, bướu có kích
thước lớn, độ xâm lấn sâu.Thibault và cộng sự
(1997) ghi nhận 16-33% bệnh đã lan tràn ở thời
điểm chẩn đoán(35).
Bất kể phương pháp điều trị, tiên lượng sống
thêm 5 năm < 20%(1,2,11,33). Thậm chí có các báo cáo
ghi nhận tỉ lệ sống 5 năm chỉ từ 6-10%(11,13,6,27,20).
Mặc dù có tiên lượng đen tối nhưng có một số
báo cáo ghi nhận một số trường hợp riêng lẽ có
thời gian sống thêm kéo dài một cách đáng ngạc
nhiên. Theo y văn, trong 11 nghiên cứu với 390
trường hợp, có 29 bệnh nhân (7%) sống thêm >
10 năm sau khi được chẩn đoán. Người ta chưa
rõ được những yếu tố tiên lượng tỉ lệ sống thêm
kéo dài trong những trường hợp như thế, tuy
nhiên có lẽ có liên quan đến bề sâu xâm lấn của
khối bướu và tình trạng di căn xa. Bốn bệnh
nhân của chúng tôi có tình trạng bệnh ổn định
và còn sống với thời gian là 7 tháng, 28 tháng, 34
tháng và 35 tháng. Trong đó có 2 trường hợp
được làm phẫu thuật Miles có thời gian sống 34
và 35 tháng.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu trị Mêlanôm hậu môn - trực tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 1
PHẪU TRỊ MÊLANÔM HẬU MÔN-TRỰC TRÀNG
Bùi Chí Viết* , Nguyễn Bá Trung*, Diệp Bảo Tuấn
TÓM TắT
Mở đầu: Mêlanôm hậu môn-trực tràng là một bệnh hiếm gặp, chiếm 1% tất cả các bướu mêlanôm và 1-3% các
bướu vùng hậu môn-trực tràng.
Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và các phương thức điều trị.
Phương pháp: hồi cứu 10 trường hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng được điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu TP.
HCM từ 11/2001 – 11/2007.
Kết quả: Từ 2001 – 2007 chúng tôi đã điều trị 10 trường hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng (phẫu thuât Miles).
Về giới tính, tỉ lệ nam/nữ (3/7): 1/2,33. Tuổi trung bình 61,2 ± 12,8. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là đi tiêu
ra máu (80%), bướu phòi ra ở hậu môn khi đi tiêu là 2 trường hợp (20%) và 1 trường hợp bướu ở rìa hậu môn (10%).
Kích thước bướu nhỏ nhất là 2,5cm và lớn nhất là 8cm, trung bình 4,8cm. Có 5 trường hợp được điều trị bằng phẫu
thuât Miles. 4 bệnh nhân xuất hiện di căn xa sau mổ trung bình là 6,8 tháng.
Kết luận:. Bệnh nhân thường có các triệu chứng tiêu phân vấy máu và có khối bướu ở hậu môn nên dễ chẩn đoán
nhầm là búi trĩ thuyên tắc. Tiên lượng bệnh rất xấu. Phẫu thuật cắt đoàn trực tràng qua ngã bụng-hội âm (phẫu thuật
Miles) giúp kiêm soát bệnh tốt hơn.
ABSTRACT
SURGICAL THERAPY FOR ANORECTAL MELANOMA.
Bui ChiViet, Nguyen Ba Trung*, Diep Bao Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 348 - 355
Background: Anorectal melanoma is a rare disease, comprising less than 1% of all melanoma and 1% of all
malignant tumors of the anus and rectum.
Objectives:we reviewed the specific clinical presentations, diagnsis and treatment modalities.
Method: We studied retrospectively 10 cases of anorectal melanoma operated at HCMC Cancer Hospital from
11/2001 -11/ 2007.
Results: Between 2001 and 2007, we treated 10 cases of anorectal melanoma. Female/Male ratio is 2.33/1; mean
age is 61.2. common signs and symptoms are bloody defecation (80%) and tumors protruding at the anus (20%).
Mean size of the tumors is 4.8 cm. 5 cases were treated by Miles’procedure. There were 4 cases appearing symptoms of
metastases (inguinal lymph nodes and lung, liver and bone) in 6.8 months mean time.
Conclusion:Patients generally present with a sensation of mass and rectal bleeding that wrongly diagnosed as
hemorrhoids. The prognosis is very poor. Any operations couldn’t change the prognosis of anorectal melanoma.
However, abdomino-perineal resection (Miles’s procedure) could locally control the disease better.
Khoa Ngoại 2 BV Ung Bướu TP HCM.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mêlanôm hậu môn-trực tràng là một bệnh lý
hiếm gặp, chiếm # 1% tất cả các trường hợp
mêlanôm và chiếm khoảng 1% - 3% tất cả các
ung thư vùng hậu môn-trực tràng(10,1,2,11,15,15).
Do không có triệu chứng lâm sàng gợi ý, nên
mêlanôm hậu môn-trực tràng thường được chẩn
đoán nhầm là trĩ thuyên tắc và được điều trị sai
lầm trong một thời gian dài trước khi bệnh nhân
được nhập viện. Vì được chẩn đoán trễ và chưa
có một phương thức điều trị quy ước nào nên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 2
tiên lượng của mêlanôm hậu môn-trực tràng còn
rất xấu, tỉ lệ sống thêm 5 năm dưới 20%(2,11,33,15).
Trong y văn đã có những công trình nghiên
cứu về lọai bệnh lý hiếm gặp này, nhưng tất cả
các tác giả đều cho thấy sự hạn chế của đề tài vì
toàn bộ đều là nghiên cứu hồi cứu, nên không
thể đưa ra phương thức phẫu thuật nào là tối
ưu.
Các loại phẫu thuật bao gồm cắt rộng bướu
bảo tồn cơ vòng hoặc phẫu thuật cắt bỏ trực
tràng qua ngã bụng-hội âm (phẫu thuật Miles).
Chọn lựa phương pháp phẫu thuật nào là tốt
nhất hiện nay vẫn còn đang bàn cãi. Vì thời gian
sống thêm của bệnh nhân phụ thuộc vào giai
đọan lâm sàng hơn là phương thức phẫu thuật,
phần lớn bệnh nhân di căn xa và tử vong trong
khỏang thời gian sống không bệnh ngắn.
Thực hiện đề tài này nhằm khảo sát về đặc
điểm lâm sàng, chẩn đoán và điều trị bệnh lý
mêlanôm hậu môn trực tràng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 10 bệnh nhân được chẩn đoán xác định
mêlanôm hậu môn-trực tràng nguyên phát hoặc
di căn, được điều trị tại Bệnh Viện Ung Bướu
Thành Phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2001 đến
tháng 11/2007.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu, mô tả cắt ngang.
Thu thập số liệu dựa vào hồ sơ bệnh án.
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 12.0
for Windows. Theo dõi tình trạng bệnh nhân
dựa vào thông tin qua tái khám định kỳ, qua số
điện thọai và gửi thư.
KẾT QUẢ
Chúng tôi ghi nhận kết quả qua 10 trường
hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng như sau:
Về giới tính, tỉ lệ nam/nữ (3/7): 1/2,33. Tuổi
trung bình 61,2 ± 12,8. Triệu chứng lâm sàng
thường gặp nhất là đi tiêu ra máu (80%), bướu
phòi ra ở hậu môn khi đi tiêu là 2 trường hợp
(20%) và 1 trường hợp bướu ở rìa hậu môn
(10%). Kích thước bướu nhỏ nhất là 2,5cm và lớn
nhất là 8cm, trung bình 4,8cm. Hầu hết các
trường hợp của chúng tôi ghi nhận bướu nằm
ngay và dưới đường lược, có 2 trường hợp do
bướu quá lớn nên vượt quá đường lược, 75% các
trường hợp bướu chiếm ¾ hoặc hết chu vi trực
tràng. Có 5/8 trường hợp (62,5%) có giải phẫu
bệnh là mêlanôm hậu môn trực tràng; ba trường
hợp được chẩn đoán là carcinôm tế bào gai ,
carcinôm không biệt hoá và một trường hợp là
lymphôm; hai trường hợp đầu được xác định
sau mổ là mêlanôm, trường hợp chẩn đoán là
lymphôm, do diễn tiến bệnh không phù hợp
trên lâm sàng nên chúng tôi đề nghị làm hoá mô
miễn dịch, với kết quả EMA (-), LCA (-), B-CELL
(-), S100 (+), và Mêlanôm (+). Hai trường hợp còn
lại được nhập viện điều trị vì một bị di căn hạch
bẹn và một bị di căn hạch chậu sau khi được cắt
bướu ở bệnh viện khác, cả hai đều có chẩn đoán
xác định là mêlanôm hậu môn trực tràng. Siêu
âm bụng trước mổ cho tất cả các trường hợp, có
một trường hợp di căn gan đa ổ, một trường hợp
di căn hạch chậu; siêu âm qua ngã trực tràng chỉ
thực hiện cho 2 trường hợp cho thấy bướu đã
xâm lấn gần hết lớp cơ và một trường hợp ghi
nhận hạch cạnh trực tràng. Về điều trị được tóm
tắt dưới đây (bảng 1):
Bảng 1: Các phương pháp mổ.
Phương pháp mổ Số ca Tỉ lệ(%)
Phẫu thuật Miles.
Phẫu thuật Miles + NHB.
4
1
40%
10%
Cắt bướu.
Cắt bướu + NHB.
Cắt bướu + NHC.
1
1
1
10%
10%
10%
Hậu môn nhân tạo 2 20%
Tổng số 10 100%
NHB: nạo hạch bẹn; NHC: nạo hạch chậu.
Về đại thể, chỉ có 2 trường hợp bướu chưa
xâm lấn qua lớp niêm mạc. Có 7 trường hợp di
căn hạch (N+), trong đó 3 ca di căn hạch bẹn, 3 ca
di căn hạch cạnh trực tràng và 1 ca di căn hạch
chậu sau một thời gian cắt bướu.
Không tai biến và biến chứng phẫu thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 3
Bảng 2: Đặc điểm bệnh nhân.
Bệnh
nhân
Tuổi Giới PP mổ Ngày mổ Diễn tiến Tình trạng hiện tại
của B/N.
1 70 Nữ PT Miles 11/12/01 Di căn gan. Theo dõi 10/02
2 62 Nữ PT Miles 12/3/02 Di căn gan.. Theo dõi 10/02
3 39 Nam Cắt bướu + NHB 13/01/03 Di căn rốn lách, mào
chậu
Theo dõi 02/ 04
4 65 Nam PT Miles+NHB 18/3/04 Di căn gan, phổi,
xương.
Theo dõi 5 / 04
5 54 Nữ Cắt bướu+ PT Miles 1/12/04
16/12/04
On định. Còn sống
6 69 Nữ PT Miles 27/12/04 On định. Còn sống
7 52 Nam Hậu môn nhân tạo 03/01/07 d/c gan, phổi. Theo dõi 9/ 3/ 07
8 48 Nữ Hậu môn nhân tạo 10/8/07 d/c phần mềm mào
chậu.
Theo dõi 24/ 8/ 07
9 80 Nữ Cắt bướu 27/4/07 On định. Còn sống
10 54 Nữ Cắt bướu + NHC 8/05
5/07
On định. Còn sống
Cho đến thời điểm chấm dứt nghiên cứu là
tháng 11/2007. Với thời gian theo dõi trung bình
là 14 tháng, chúng tôi chỉ có được thông tin 4/10
bệnh nhân và tình trạng hiện nay đều ổn định.
Những trường hợp bệnh tiếp tục tiến triển tái
phát, di căn hoặc chỉ điều trị triệu chứng đều
không tiếp nhận được thông tin từ lúc xuất viện,
là ngày theo dõi cuối được ghi nhận trong hồ sơ
bệnh án.
BÀN LUẬN
Dịch tễ học
Mêlanôm niêm mạc được Weber và cộng sự
mô tả lần đầu tiên vào năm 1856, và sau đó được
xếp lọai là một thực thể riêng biệt. Kể từ bài báo
cáo đầu tiên của Moore 1857 cho đến nay có
khoảng 500 trường hợp được báo cáo trong y
văn(33,24,20,33). Tại Mỹ, 1997 có 3400 trường hợp ung
thư vùng hậu môn loại carcinôm tế bào gai
nhưng chỉ có vài mươi trường hợp mêlanôm
hậu môn-trực tràng(19,37). Tại các trung tâm ung
thư lớn như Memorial Sloan-Kettering Cancer
Center ở New York mỗi năm trung bình chỉ phát
hiện được 2 trường hợp loại bệnh này(19). Tại
Bệnh viện Ung Bướu, chúng tôi đã tiếp nhận
điều trị 10 trường hợp từ tháng 11/2001 đến
tháng 11/2007.
Mêlanôm hậu môn-trực tràng là một bệnh
hiếm gặp, chiếm 1%-3% các ung thư xuất phát từ
vùng này, và 0,4%-1,6% các mêlanôm, đứng
hàng thứ ba về vị trí các mêlanôm sau da và
mắt(1,2,11,15,35). Bệnh thường gặp ở người 60-70 tuổi,
cao hơn so với mêlanôm da. Bệnh thường gặp ở
người Mỹ da trắng hơn là người Mỹ da đen(11,33).
Bệnh nhân của chúng tôi có tuổi trung bình là 61,
phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác, nhưng thấp hơn so với ghi nhận của John
T Droesch và cộng sự, với tuổi trung bình là 66
tuổi(11); Saiprasad và cộng sự cũng ghi nhận tuổi
trung bình là 66(28).
Về giới tính, nữ giới có tỉ lệ vượt trội hơn
nam giới: 2,33/1. Kết quả này cũng được ghi
nhận tương tự với các tác giả khác(33,11,28). Ofer
Ben-Izhak và cộng sự cũng ghi nhận tỉ lệ nư/
nam là 2:1(15).
Yếu tố nguy cơ
Tia cực tím, một tác nhân sinh ung thường
gặp đối với mêlanôm da, nhưng rõ ràng không
phải là một yếu tố nguy cơ đối với mêlanôm hậu
môn-trực tràng(20,33).
Một cuộc nghiên cứu gần đây gồm 117
trường hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng trong
vòng 20 năm theo ghi nhận ung thư của Viện
Ung thư Quốc gia Mỹ(11), cho thấy có sự tăng vọt
về tần suất mắc bệnh ở người trẻ sống ở San
Francisco giữa năm 1988 – 1992, cho thấy có mối
liên quan giữa bệnh lý này và tình trạng nhiễm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 4
HIV. Trong nghiên cứu cho thấy tất cả bệnh
nhân của chúng tôi đều có xét nghiệm âm tính.
Chẩn đoán
Đa số bệnh nhân có các triệu chứng đau
vùng hậu môn, ngứa hậu môn, thay đổi thói
quen đi tiêu, giảm cân không rõ lý do(2,4,15,26,24,30).
Bệnh nhân của chúng tôi nhập viện với triệu
chứng đi tiêu ra máu, có hai bệnh nhân khi đi
tiêu khối bướu lồi hẵn ra lỗ hậu môn, cho thấy
đây là dạng pôlyp, hai bệnh nhân có khối bướu
nằm ngay ở bờ hậu môn.
Đa số bướu thường xuất phát phía dưới
đường lược ở ống hậu môn(1,11,26,28,33). Tuy nhiên,
Christin Werdin, trong nghiên cứu của mình(38),
đã phát hiện những trường hợp bướu xuất phát
ở phía trên đường lược. Trong nghiên cứu của
mình, Amara Malik và cộng sự ghi nhận 47%
bướu nằm trên đường lượt và 36% bướu nằm
dưới đường lượt(11) (hình 1).
Bướu có dạng pôlýp hoặc dạng mảng, lồi ra
khỏi lỗ hậu môn hoặc có dạng loét(19,33). Khối
bướu thường đạt kích thước khá lớn khi được
chẩn đoán, thường là 3-5 cm, có trường hợp đến
12 cm(19). Bệnh nhân của chúng tôi nhập viện với
khối bướu có kích thước 4 - 5cm và 75% số
trường hợp bướu chiếm 3/4 chu vi trực tràng .
Hình 1: Bệnh phẩm sau mổ cho thấy bướu ở hậu môn
lan lên trực tràng, màu đen, d # 5cm
Mặc dù người ta thường nghĩ bướu
mêlanôm có màu đen, nhưng chỉ có 1/3 trường
hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng là có sắc tố
mêlanin(15,19). Khi bướu có sắc tố và dạng pôlýp
thì trên đại thể giống như là một búi trĩ bị
thuyên tắc. Một nghiên cứu tại Memorial Sloan-
Kettering Cancer Center cho thấy có 8%
mêlanôm được phát hiện nhờ vào mẫu mô bệnh
học được xét nghiệm sau khi cắt búi trĩ(28). Khảo
sát của chúng tôi, đa số bướu đều có màu đen
điển hình của mêlanôm. Có ba trường hợp được
chẩn đoán là carcinôm tế bào gai , carcinôm
không biệt hoá và một trường hợp là lymphôm;
hai trường hợp đầu được xác định sau mổ là
mêlanôm, trường hợp chẩn đoán là lymphôm,
do diễn tiến bệnh không phù hợp trên lâm sàng
nên chúng tôi đề nghị làm hoá mô miễn dịch,
với kết quả EMA (-), LCA (-), B-CELL (-), S100
(+), và Mêlanôm (+).
Về vi thể, các tế bào bướu sắp xếp thành
cụm, các tế bào có dạng biểu mô hoặc hình trụ.
Các cụm tế bào xâm lấn lớp niêm mạc gồm các
tế bào gai lót bên dưới theo kiểu Paget(35).
Vào lúc chẩn đoán có 20% - 62% bệnh nhân
đã bị di căn xa. Sự dẫn lưu bạch huyết phong
phú của vùng hậu môn-trực tràng làm cho bệnh
dễ di căn đến hạch bẹn và hạch chậu. Vào lúc
chẩn đoán có khoảng 20% trường hợp có di căn
hạch bẹn; 65% di căn đến hạch mạc treo tràng
dưới(13,19,32). Chúng tôi có ba trường hợp di căn
hạch cạnh trực tràng với kích thước khá to (d =
1,5 cm) (hình 2 và 3), một trường hợp di căn
hạch chậu sau một thời gian cắt rộng bướu và ba
trường hợp di căn hạch bẹn vào lúc chẩn đoán,
tính chất đại thể của tất cả các hạch rất điển hình
của loại mêlanôm _ một bệnh lý dễ cho di căn.
Di căn hạch là một trong những yếu tố tiên
lượng rất quan trọng, và số lượng hạch bị di căn
có ý nghĩa hơn là kích thước hạch. Theo hệ
thống xếp hạng mới về mêlanôm thì những
bệnh nhân có tổn thương in-transit metastasis
hay sang thương vệ tinh (satellite) mà không có
hạch được xem như là có hạch di căn về mặt tiên
lượng (10), những bệnh nhân này nâng lên giai
đọan là N2c theo hệ thống xếp hạng lâm sàng
1997). Lượt qua y văn, mêlanôm da được biết rõ
về nguy cơ của sự xâm lấn sâu vơi sự gia tăng
các tổn thương vệ tinh và di căn xa. Có 10% di
căn hạch khi bướu xâm lấn dưới 1mm, 20-25%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 5
khi xâm lấn từ 1-4mm và trên 50% khi bướu xâm
lấn trên 4mm; nhưng không may là mêlanôm
hậu môn trực tràng được chẩn đoán ở giai đọan
tiến xa(11).
Hình 2: Bệnh phẩm sau mổ phẫu thuật Miles, cho
thấy hạch cạnh trực tràng, màu đen.
Hình3: Bệnh nhân Nguyễn thị B, nữ, 70 tuổi; số hồ
sơ: 18714/01 ∆: Mêlanôm hậu môn-trực tràng; Mổ
Phẫu thuật Miles.Bệnh phẩm sau mổ cho thấy hạch
cạnh trực tràng (mũi tên) màu đen tuyền
Hệ thống mạch máu dồi dào của vùng này
cũng làm cho bệnh dễ bị di căn theo đường máu
đến gan, phổi, xương, não và các cơ quan
khác(1,2,15,22,33).Trong nghiên cứu của chúng tôi, có
một bệnh nhân phát hiện di căn gan đa ổ cả hai
thùy vào lúc chẩn đoán. Trong quá trình theo
dõi sau điều trị có ba bệnh nhân đã xuất hiện di
căn gan, trong đó có một trường hợp vừa di căn
gan vừa di căn phổi và đốt sống D11; một
trường hợp tiến triển di căn vào hạch chậu và
vùng rốn lách. Thời gian di căn xa trung bình là
6,8 ± 1,7 tháng sau khi mổ. Điều này giải thích
được cơ chế di căn theo đường máu của các tổn
thương ác tính vùng hậu môn-trực tràng.
Việc chẩn đoán xác định dựa vào phương
tiện chẩn đoán hình ảnh như nội soi trực tràng,
siêu âm qua ngã trực tràng, chụp cộng hưởng từ.
Siêu âm qua ngã trực tràng cho phép xác định
được độ xâm lấn sâu của tổn thương nguyên
phát; chụp cộng hưởng từ giúp ích cho việc xác
định bướu ở giai đọan T1 và T2(15). Đối với
mêlanôm da thì động tác sinh thiết làm tăng nguy
cơ di căn xa, nhưng đối với mêlanôm hậu môn
trực tràng trên đại thể bướu thường không có sắc
tố, do đó việc sinh thiết là không thể tránh
khỏi(15,5). Hiện nay hoá mô miễn dịch giúp chẩn
đoán xác định mêlanôm hậu môn trực tràng và
phân biệt với những bệnh lý khác như lymphôm.
Chúng tôi có một trường hợp phải dựa vào
nhuộm hoá mô miễn dịch mới xác định được.
Điều trị
Phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật nào là tối ưu để
điều trị bệnh mêlanôm hậu môn-trực tràng vẫn
đang được các tác giả bàn cãi. Các loại phẫu
thuật bao gồm cắt rộng bướu bảo tồn cơ vòng
hoặc phẫu thuật Miles (cắt bỏ trực tràng qua ngã
bụng-hội âm). Tuy nhiên, do sự hiếm hoi và tiên
lượng xấu của bệnh lý này đã gây trở ngại cho
việc chọn lựa phương pháp phẫu thuật tối
ưu(2,19,33).
Theo y văn, từ 1929 – 1995 trên toàn thế giới
có 610 trường hợp mêlanôm hậu môn-trực tràng
và các nghiên cứu cho thấy rằng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa phẫu thuật
Miles (có hay không có nạo hạch bẹn) và phẫu
thuật cắt rộng bướu. Những phương thức điều
trị đã có nhiều thay đổi từ hơn 20 năm qua, nhất
là từ năm 1997 đến nay. Một công trình nghiên
cứu của JEN JEN.Y tại Memorial Sloan-
Kettering Cancer Center, bệnh nhân được chỉ
định hoặc là phẫu thuật cắt đọan trực tràng qua
ngã bụng-hội âm (phẫu thuật Miles), hoặc là
phẫu thuật cắt rộng bướu vào hai khỏang thời
gian khác nhau: từ 1984-1996, có 15/19 (71%)
trường hợp được chỉ định làm phẫu thuật cắt
đọan trực tràng qua ngã bụng-hội âm; và từ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 6
1997-2003, có 21/27 (84%) bệnh nhân được tiến
hành phẫu thuật cắt rộng bướu (p<0,001). Kết
quả khảo sát từ hai nhóm này cho thấy sự xâm
lấn sâu, kích thước bướu nguyên phát, sự tái
phát, thới gian tái phát và tử vong do diễn tiến
của bệnh thì giống nhau(33).
Tuy nhiên, lại có tác giả cho rằng nếu kết
luận thời gian sống thêm giống nhau giữa phẫu
thuật cắt đọan trực tràng qua ngã bụng-hội âm
và phẫu thuật cắt rộng bướu thì chỉ là cái nhìn về
một phía(35,36). Chỉ định phẫu thuật dựa vào giai
đọan lâm sàng cũng như độ xâm lấn sâu của tổn
thương nguyên phát, còn việc chọn lựa phương
thức phẫu thuật nào phải đạt được mục tiêu
phục hồi tốt nhất có thể được, nghĩa là giảm
nguy cơ tái phát đến mức thấp nhất, kéo dài thời
gian sống không bệnh. Đối với mêlanôm hậu
môn-trực tràng, đó là quyết định chọn lựa giữa
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân với hậu
môn nhân tạo sau phẫu thuật cắt đọan trực tràng
qua ngã bụng-hội âm hay là nguy cơ tái phát tại
chỗ với các triệu chứng rầm rộ sau khi cắt rộng
bướu(13,20,32).
Mêlanôm hậu môn-trực tràng có tiên lượng
xấu là do phát hiện muộn, vì vậy phương thức
phẫu thuật nào cũng không làm thay đổi thời
gian sống thêm cho bệnh nhân. Tuy nhiên các
chứng cứ cho thấy rằng phẫu thuật cắt đọan trực
tràng qua ngã bụng-hội âm kiểm soát bệnh tại
chỗ tốt hơn là phẫu thuật cắt rộng bướu.
Thibault và cộng sự báo cáo tái phát tại chỗ sau
phẫu thuật cắt đọan trực tràng qua ngã bụng-hội
âm là rất hiếm(36). Roumen đã khảo sát 34 trường
hợp, gồm 18 bệnh nhân được phẫu thuật cắt
đọan trực tràng qua ngã bụng-hội âm và 16 bệnh
nhân phẫu thuật cắt rộng bướu; cho thấy có một
trường hợp tái phát tại chỗ sau phẫu thuật cắt
đọan trực tràng qua ngã bụng-hội âm, trái lại có
đến 12 bệnh nhân tái phát sau phẫu thuật cắt
rộng bướu(27). Tương tự, John T. Droesch và cộng
sự ghi nhận tỉ lệ tái phát sau phẫu thuật cắt đọan
trực tràng qua ngã bụng-hội âm và sau phẫu
thuật cắt rộng bướu là 23% và 47%(11); còn Kelli
M Bullard và cộng sự ghi nhận tỉ lệ này là 29%
và 58%(6).
Một nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ kiểm soát
tại chỗ – tại vùng đạt đến 70% sau phẫu thuật cắt
đọan trực tràng qua ngã bụng-hội âm và 30%
sau phẫu thuật cắt rộng bướu(6).
Chúng tôi có 5 trường hợp được điều trị
bằng phẫu thuật Miles do bướu lớn xâm lấn sâu,
trong đó có một trường hợp được làm phẫu
thuật Miles sau khi cắt bướu 2 tuần và một
trường hợp có kèm theo nạo hạch bẹn. Ba trường
hợp cắt rộng bướu, một trường hợp có kèm theo
nạo hạch bẹn và một trường hợp nạo hạch chậu
sau một thời gian cắt bướu. Hai trường hợp chỉ
làm hậu môn nhân tạo do đã di căn xa.
Có những tác giả, trong đó chính Miles, “cha
đẻ” của phẫu thuật cắt đọan trực tràng qua ngã
bụng-hội âm đã ủng hộ phương pháp cắt rộng
bướu vì thấy rằng bệnh nhân sẽ bị di căn xa bất
kể cách mổ như thế nào(30) .
Trường phái khác lại khuyến cáo nên dùng
phẫu thuật Miles để điều trị mêlanôm hậu môn-
trực tràng nếu như không có di căn xa hoặc để
điều trị tạm bợ giảm triệu chứng(11).
Đa số các phẫu thuật viên đều đồng ý chỉ
nạo hạch bẹn khi có hạch di căn, vì nạo hạch bẹn
phòng ngừa không có hiệu quả và biến chứng lại
cao(30,33). Việc sinh thiết hạch lính gác (sentinel
node biopsy) đã được đề cập nhiều đối với
mêlanôm da, góp phần làm giảm tỉ lệ tái phát và
tránh việc nạo hạch một cách thái quá ngay cả
trong trường hợp sinh thiết dương tính(12).
Mêlanôm hậu môn-trực tràng, sinh thiết hạch
lính gác có thể phát hiện hạch di căn mà không
phát hiện trên lâm sàng(13,11).
Hoá trị và miễn dịch liệu pháp
Trên quan điểm ung thư học, có một số hoá
chất cho thấy có hiệu quả để điều trị mêlanôm ở
da có di căn xa. Dacarbazine, Carmustine và
Cisplatine cho tỉ lệ đáp ứng bướu đối với đơn
hoá chất < 25% trường hợp(11,6).
Việc kết hợp IFN-α, IL-2 với các thuốc độc tế
bào, gọi là “sinh hoá liệu pháp” hoặc “hoá miễn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 7
dịch liệu pháp” dường như có hiệu quả hơn là
chỉ dùng đơn hoá chất. Nhưng vì số bệnh nhân
ít nên chưa có một cuộc nghiên cứu ngẫu nhiên
nào được thực hiện đối với mêlanôm hậu môn-
trực tràng. Khuynh hướng trong tương lai là nên
phối hợp đa mô thức giữa hoá trị, miễn dịch và
xạ trị(11).
Việc sử dụng vaccine để điều trị bệnh nhân
bị mêlanôm dựa trên bản chất sinh miễn dịch
của loại bướu này. Các loại vaccine được nghiên
cứu nhiều nhất là những loại tế bào toàn phần
(dị chủng hay tự thân), các chế phẩm lysate tế
bào chứa nhiều loại kháng nguyên, các chế
phẩm loại bỏ kháng nguyên, các kháng nguyên
carbohydrate (gồm cả ganglioside) và các kháng
nguyên tinh khiết có khả năng kích thích sự đáp
ứng miễn dịch ở các bệnh nhân bị mêlanôm. Tuy
nhiên cho đến nay chưa có cuộc nghiên cứu nào
so sánh giữa việc dùng vaccine với hoá chất đối
với bệnh mêlanôm cho thấy có lợi ích sống thêm
có ý nghĩa thống kê(11). Chúng tôi có bốn bệnh
nhân được điều trị hỗ trợ: hoá trị (Dacarbazine,
Cisplatin), Interferon, Tamoxifen, nhưng tất cả
đều không được điều trị đầy đủ nên không thể
đánh giá dược.
Xạ trị
Trong y văn có rất ít tài liệu đề cập đến xạ trị
cho mêlanôm hậu môn-trực tràng, mặc dù xạ trị
có mang lại kết quả cho mêlanôm ở vị trí khác
như mêlanôm da và vùng đầu cổ. Được chỉ định
điều trị tạm bợ khi bướu đã xâm lấn tại chỗ
nhiều, không thể phẫu thuật được. Vì được xem
là kháng tia nên các tác giả khuyến cáo nên tăng
liều xạ. Các tác giả thường chọn phác đồ xạ trị
với 3 trường chiếu (một trường chiếu sau và 2
trường chiếu bên); với tổng liều xạ là 25-30Gy,
phân liều là 5Gy(13,33,6,6,28,33). Tại MD Anderson
Cancer Centre. Thường dùng phác đồ xạ trị cho
mêlanôm với tổng liều là 30Gy, phân liều 6Gy
trong thời gian 2,5 tuần(6).
Tiên lượng
Mêlanôm hậu môn-trực tràng có tiên lượng
xấu, vì thường do phát hiện trễ, bướu có kích
thước lớn, độ xâm lấn sâu.Thibault và cộng sự
(1997) ghi nhận 16-33% bệnh đã lan tràn ở thời
điểm chẩn đoán(35).
Bất kể phương pháp điều trị, tiên lượng sống
thêm 5 năm < 20%(1,2,11,33). Thậm chí có các báo cáo
ghi nhận tỉ lệ sống 5 năm chỉ từ 6-10%(11,13,6,27,20).
Mặc dù có tiên lượng đen tối nhưng có một số
báo cáo ghi nhận một số trường hợp riêng lẽ có
thời gian sống thêm kéo dài một cách đáng ngạc
nhiên. Theo y văn, trong 11 nghiên cứu với 390
trường hợp, có 29 bệnh nhân (7%) sống thêm >
10 năm sau khi được chẩn đoán. Người ta chưa
rõ được những yếu tố tiên lượng tỉ lệ sống thêm
kéo dài trong những trường hợp như thế, tuy
nhiên có lẽ có liên quan đến bề sâu xâm lấn của
khối bướu và tình trạng di căn xa. Bốn bệnh
nhân của chúng tôi có tình trạng bệnh ổn định
và còn sống với thời gian là 7 tháng, 28 tháng, 34
tháng và 35 tháng. Trong đó có 2 trường hợp
được làm phẫu thuật Miles có thời gian sống 34
và 35 tháng.
KẾT LUẬN
Mêlanôm hậu môn-trực tràng là một bệnh
hiếm gặp, chẩn đoán thường trễ và dễ nhầm lẫn
với trĩ thuyên tắc, do đó phải thử mô bệnh học
từ tất cả các mẫu mô được phẫu tích ở vùng hậu
môn trực tràng. Việc điều trị bao gồm sự phối
hợp đa mô thức. Phẫu thuật cắt bỏ trực tràng
qua ngã bụng-hội âm (Phẫu thuật Miles) kiểm
soát bệnh tại chỗ. Nhưng cho đến nay chưa có
phương thức phẫu thuật nào góp phần cải thiện
tiên lượng sống còn. Sự phối hợp giữa hoá trị và
miễn dịch liệu pháp chưa thấy có hiệu quả. Xạ
trị phối hợp trong điều trị đa mô thức có vai trò
kiểm soát tại chỗ trong trường hợp mong muốn
bảo tồn cơ thắt. Diễn tiến tự nhiên thường cho di
căn hạch và cho di căn xa đến các cơ quan nội
tạng. Tiên lượng bệnh rất đen tối, tỉ lệ sống thêm
5 năm là rất thấp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Ung Thư Học 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barnett JL: Anorectal diseases. Textbook of
Gastroenterology. YamadaT (ed). Philadelphia, JB
Lippincott Co1999; 2083-2086,.
2. Balicevic D, Tomic K, Beslin MB, et al. Synchronous
anorectal melanoma. Word J Gastroenterol 2006; 12: 3453-
3455.
3. Birnbaum E, Myerson RJ: Carcinoma of the anus. In :
Zinner MJ (eds). Maingot’s Abdominal Operations..
Appleton & Lange, A simon & Schuster Company. 1997.
Vol 2, 10th : 1506-1507.
4. Blecker D, Abraham S, Furth EE and Kochman ML:
Melanoma in the gastrointestinal tract. Am J Gastroentero
1999; l 94(12):3427-3433,.
5. Bryan J and Nieweg OE.. New boundaries for lymphatic
mapping-report of the fifth International Sentinel Node
Conference. Melanoma research 2007; 17: 261-263.
6. Ballo MT., Gerbenwald JE., Zagas GK., et al. Sphinter-
sparing local excision and adjuvant radiation for anal-
rectal melanoma. J Clin Oncol 2002; 20:4555-4558.
7. Bujko K, Nowacki MP. and Dalecki PL. Radiation therapy
for anorectal melanoma. Acta oncologica 1998; Vol.
37(3):497-499.
8. Bullard KM, Turtle TM, Rothenberger DA, et al. Surgical
therapy for anorectal melanoma. J Am Coll Sur 2003; 196:
206-211.
9. Cagir B, Whiteford MH, Topham A, et al: Changing
epidemiology of anal melanoma. Dis Colon Rectum 1999;
42:1203-1208,.
10. Chang AE., Karnell LHA, Menck HR., M.B.A. The
national cancer data base rep(ort on cutaneous and
noncutaneous melanoma. Cancer 1998; 83: 1664-78.
11. Droesch JT., Flum DR., Mann GN.. Wide local excision or
abdominoperineal resection as the initial treatment for
anorectal melanoma? The American journal of surgery
2005; 189: 446-449.
12. Felz MW, Winburn GB, Kallab AM and Lee JR: Anal
Melanoma: An Aggressive Malignant Masquerading as
Hemorrhoids. South Med J 2001; 94(9):880-885.
13. Fukui R, Hata F, Yasoshima T, et al. Malignant melanoma
of the anorectal: Report of four cases. Surg Today 2002;
32:555-558.
14. Homsi J, Garrett C, Melanoma of the Anal Canal: A Case
Series. Dis Colon Rectum 2007; Vol. 50(7): 1004-1010.
15. Izack OB, Levy R, Weill S, et al. Anorectal Malignant
Melanoma: A clinicopathologic study, including
immunohistochemistry and DNA flow cytometry. Cancer
1997; 79: 18-25.
16. Kodner IJ et al: Colon, Rectum and Anus. In : SCHWARZT
(eds). Principles of Surgery. McGRAW-HILL Company,
New York 1999; Vol. 2. 7th ed: 1376.
17. Konstadoulakis MM, Ricaniadis N, Walsh D, et al:
Malignant melanoma of the anorectal region. J Surg Oncol
1995; 58:118-120,
18. Malik A, Hull TL., Floruta C. What is the best surgical
treatment for anorectal melanoma? Int J Colorectal Dis
2004; 19: 121-123.
19. Moss R: treatment of anorectal melanoma.
melanoma.shtml.
20. Mostafapour SP., Morris J, Sherk, JP.. Anorectal melanoma
successful palliation in a 59-Year old woman. West J Med
1996; 164:448-450.
21. Ooi BS, Eu KW and Seow CF: Primary Anorectal
Malignant Melanoma: Clinical Features and Results of
Surgical Therapy in Singapore — A case Series. Ann Acad
Med Singapore 2001; 30:203-205.
22. Ozguroglu M et al: Anorectal melanoma metastatic to the
breast. J Clin Gastroenterol 1999; 29(2):197-199.
23. Pandey M, Aleyama M, Elizabeth K., et al. Primary
malignant melanoma of the mucous membranes.
European Journal of Surgical Oncology 1998; 24:303-307.
24. Patrick RJ., Fenske NA., and Messina JL. Primary mucosal
melanoma. J Am Acad Dermatol 2007; 56: 828-34.
25. Pessaux P., Pocard M., Elias M., et al. Surgical
management of primary anorectal melanoma. Britsh
journal of Surgery 2004; 91:1183-1187.
26. Remigio PA, Der BK, Forsberg RT: Anorectal melanoma:
report of two cases. Dis Colon Rectum 1976; 19:350-356.
27. Roumen R. M. H. Anorectal melanoma in the Netherlands:
a report of 63 patients. European Journal of surgical
Oncology 1996; 22:598-6
28. Saiprasad B.R., Prasad M. S, Ravishankar T.H.S., and
Mathur K,. Rectal polyp: Can it be a malignant melanoma?
Surgery 2006; 140; 474-475.
29. Sashiyama H, Takayama W, Miyazaki SI, et al. The
diagnostic value of endoscopic ultrasonography and
magnetic resonance imaging for anorectal malignangt
melanoma: Report of case. Surg. Today 2003; 33: 209-213.
30. Shank B, Cohen AM and Kelsen D: Cancer of the Anal
region. In: DeVita (eds). CANCER: Principles & Practice of
Oncology, Vol. 2, 7th ed: 967. Lippincott-Raven Publishers.
Philadelphia.
31. Siegal B, Cohen D, Jacob ET: Surgical treatment of
anorectal melanomas. Am J Surg 1983; 146:336-338.
32. Takahashi T, Velasco L, Zarate X, et al. Anorectal
melanoma: report of three cases with extended follow-up.
Southern Medical Journal 2004; 97(3): 311-313.
33. Tomicic J, Wanebo HJ., Mucosal melanomas. Surg Clin N
Am 2003 VT.; 83: 237-252.
34. Wanebo JH, Woodruff JM, Farr GH, et al: Anorectal
melanoma. Cancer 1981; 47:1891-1900.
35. Wayandt G.H., Eggert AO, Houf M, et al. Anorectal
melanoma: surgical management guidelines according to
tumour thickness. British Journal of cancer 2003; 89:2019-
2002.
36. Wayandt G.H., Becker J. C. Prognostic factor and therapy
for primary anorectal melanoma. Int J Colorectal Dis 2006;
21: 488-489.
37. Weinstock MA: Epidemiology and prognosis of anorectal
melanoma. Gastroenterology 1993;104:174-178.
38. Werdin C, Limas C, Knodell RG: Primary malignant
melanoma of the rectum. evidence for origination from
rectal mucosal melanocytes. Cancer; 61:1364-1370, 1988.
39. Yeh JJ, Shia J, Hwu WJ, et al. The role of abdominoperineal
resection as surgical therapy for anorectal melanoma. Anal of
surgery 2006; Vol. 244: 1012-1017.
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ung Thư Học 9
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ung Thư Học 10
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Ung Thư Học 11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_tri_melanom_hau_mon_truc_trang.pdf