Phenolic compounds isolated from fruits of cornus officinalis sieb. et Zucc

Hợp chất 5 được phân lập dưới dạng gôm màu vàng. Phổ 1D-NMR của 5 được xác định là một hỗn hợp gồm 2 cấu trúc với tỉ lệ 4 (I) : 3 (II). So sánh dữ liệu phổ của 5 và 4 cho thấy có sự giống nhau với các tín hiệu của vòng benzen đối xứng thế 1,3,4,5 và 2 nhóm methoxy (δH 3,90, δC 56,8) thế tại vị trí 3 và 5 được chứng minh qua các tương tác giữa proton methoxy và các carbon tương ứng (I, II: δH 3,90 → δC 149,1). Ngoài ra, trên phổ của 5 cũng cho thấy sự xuất hiện dẫn xuất của acid 2-hydroxysuccinic với 2 nhóm carbonyl (I: δC 171,1, 171,0; II: δC 171,5, 170,6), 1 nhóm methylen (I: δH 3,06, δC 37,3; II: δH 3,05, δC 37,0) và 1 nhóm hydroxyl methin (I: δH 5,64, δC 70,2; II: δH 5,60, δC 70,3). Tuy nhiên khác với 4, 5 có sự xuất hiện nhóm CH3CH2O- (I: δH 4,20, 1,26, δC 62,2, 14,5; II: δH 4,26, 1,29, δC 62,9, 14,4) thay vì nhóm OCH3 như trong cấu trúc của 4 với các vị trí được hoán đổi cho nhau. Vị trí của nhóm CH3CH2O- được xác định thông qua tương tác HMBC giữa proton methylen của CH3CH2O- với carbon carbonyl (I: δH 4,20 → δC 171,1, II: δH 4,26 → δC 170,6). Vị trí của nhóm - OCH3 còn lại được xác định dựa trên sự tương tác giữa proton methoxy và carbon carbonyl của acid 2-hydroxysuccinic (I: δH 3,79 → δC 171,0; II: δH 3,74 → δC 171,5). Ngoài ra, trên phổ HMBC cũng cho thấy sự tương tác của nhóm benzoyl tại C-2ʹ trong các cấu trúc của 5 (I: δH 5,64 → δC 166,9; II: δH 5,60 → δC 166,8). Phổ HR-ESI-MS của 5 xuất hiện pic ion giả phân tử tại m/z 355,1050 [M-H]- tương ứng với công thức phân tử C16H19O9 (M = 355,1029). Theo tra cứu trên trang SciFinder, cả hai cấu trúc của 5 đều mới, do đó, 5 được đặt tên là coroffester (Hình 1). Hợp chất 6 thu được dưới dạng bột màu vàng nhạt. Phổ 1H-NMR xuất hiện các tín hiệu proton aromatic tại δH 7,02 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-2), 6,92 (1H, dd, J = 8,0; 2,0 Hz, H-6), 6,76 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5) gợi ý vòng benzen thế 1,3,4. Ngoài ra, trên phổ proton còn xuất hiện các tín hiệu olefinic ở dạng trans tại δH 7,52 (1H, d, H- 7), 6,24 (1H, d, H-8) với hằng số tương tác lớn (J = 16,0 Hz) và 1 nhóm methoxy tại δH 3,73 (3H, s, 9-OCH3). Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy sự có mặt của 10 carbon trong đó có 4C (1 aromeric (δC 127,7), 1 carbonyl (δC 169,7) và 2 oxy hóa (δC 149,6 và 146,8)), 5CH (δC 146,9, 122,9, 116,5, 114,8 và 115,1) và 1 OCH3 (δC 52,0). So sánh dữ liệu phổ của 6 và hợp chất methyl caffeat trong tài liệu [18] cho thấy có sự trùng khớp. Do đó, 6 được xác định là methyl caffeat (Hình 1).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phenolic compounds isolated from fruits of cornus officinalis sieb. et Zucc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 33 Original Article Phenolic Compounds Isolated from Fruits of Cornus officinalis Sieb. et Zucc. Nguyen The Hung1, Nguyen Thi Thu2, Bui Thi Binh3, Do Thi Ha2,* 1Ha Noi University of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 2National Institute of Medicinal Materials, 3B Quang Trung, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 3Thai Binh University of Medicine and Pharmacy, 373 Ly Bon, Thai Binh, Vietnam Received 04 March 2020 Revised 06 April 2020; Accepted 06 April 2020 Abstract: In this study, six phenolic compounds were isolated from the ethyl acetate of Cornus officinalis, including: Gallic acid (1), dimethyl malate (2), 1,4-dimethyl ester 2-(2-formyl-1H- pyrrol-1-yl)butanedioic acid (3), stageobester A (4), coroffester (5), and methyl caffeate (6). The structure of the compounds was determined by such spectroscopic methods as MS, NMR and by comparison with the published NMR data. This is the first time compounds 3-5 have been isolated from this species. Keywords: Cornus officinalis, gallic acid, dimethyl malate, 1,4-dimethyl ester 2-(2-formyl-1H-pyrrol-1- yl)butanedioic acid, stageobester A, coroffester, methyl caffeate. * Corresponding author. E-mail address: hado.nimms@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4216 N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 34 Các hợp chất phenolic phân lập từ quả Sơn thù du (Cornus officinalis Sieb. et Zucc.) Nguyễn Thế Hùng1, Nguyễn Thị Thu2, Bùi Thị Bình3, Đỗ Thị Hà2,* 1Trường Đại học Dược Hà Nội, 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 2Viện Dược liệu, 3B Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 3Đại học Y Thái Bình, 373 phố Lý Bôn, Thái Bình, Việt Nam Nhận ngày 04 tháng 3 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 06 tháng 4 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 06 tháng 4 năm 2020 Tóm tắt: Sáu hợp chất phenolic đã được phân lập từ cao ethyl acetat của quả Sơn thù du bao gồm: Acid gallic (1), dimethyl malat (2), acid 1,4-dimethyl ester 2-(2-formyl-1H-pyrrol-1-yl)butanedioic (3), stageobester A (4), coroffester (5) và methyl caffeat (6). Cấu trúc của các hợp chất được xác định bằng các phương pháp phổ MS, NMR và kết hợp so sánh với tài liệu tham khảo. Đây là lần đầu tiên các hợp chất 3-5 được phân lập từ loài này. Từ khóa: Cornus officinalis, acid gallic, dimethyl malat, acid 1,4-dimethyl ester 2-(2-formyl-1H- pyrrol-1-yl) butanedioic, stageobester A, coroffester, methyl caffeat. 1. Mở đầu  Sơn thù du hay Thù du có tên khoa học là Cornus officinalis Sieb. et Zucc., thuộc họ Thù du - Cornaceae, là vị thuốc y học cổ truyền của Trung Quốc, có vị chua, hơi chát, tính mát, có tác dụng bổ gan thận, cường dương và ích tinh. Quả của loài này được sử dụng làm thuốc chữa phong thấp, tê thấp, đau lưng mỏi gối, ù tai, thận suy, đi tiểu nhiều [1]. Trên thế giới (chủ yếu là Trung Quốc) đã có nhiều công trình nghiên cứu về loài này ở các lĩnh vực hóa học và dược lý. Các nghiên cứu chỉ ra sự có mặt của các nhóm flavonoid, tannin [2], iridoid [3], triterpen [4], phenolic, acid hữu cơ [5], tinh dầu [6], với các tác dụng từ cao chiết cũng như các hợp chất chất tinh khiết phân lập từ loài này như chống ung thư [7], chống viêm, giảm đau [8], chống oxy hóa [9], bảo vệ gan, thận, tác dụng trên tim mạch ________  Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: hado.nimms@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4216 [10], thần kinh [11], tiểu đường [12], Hiện nay, ở Việt Nam chưa phát hiện được loài này. Tuy nhiên, y học cổ truyền của Việt Nam đã sử dụng rất nhiều vị thuốc này trong các bài thuốc bắc [13]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình bày kết quả chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc của các hợp chất phenolic. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Quả sơn thù du (Cornus officinalis, họ Cornaceae) được mua tại tỉnh An Huy, Trung Quốc vào tháng 2 năm 2018 bởi TS. Nghiêm Tiến Chung - Trung tâm Trồng và Chế biến cây thuốc Hà Nội. Mẫu nghiên cứu được lưu lại Khoa Hóa Thực vật - Viện Dược liệu. N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 35 2.2. Dung môi, hóa chất Dung môi dùng trong chiết xuất, phân lập bao gồm: Ethanol 96% (EtOH), methanol (MeOH), n-hexan, ethyl acetat (EtOAc), dichloromethan (DCM) và n-butanol (BuOH). Pha tĩnh dùng trong sắc ký cột là silica gel pha thường (0,040 - 0,063 mm, Merck), pha đảo RP- C18 (30 - 50 µm, FuJisilisa Chemical Ltd) và MCI gel (75 - 150 µm). Bản mỏng tráng sẵn DC- Alufolien 60 F254 (Merck, 0,25 mm) và bản mỏng pha đảo RP-18 F254 (Merck, 0,25 mm). Dung dịch H2SO4 10% trong EtOH 96%. 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp chiết xuất Dược liệu quả Sơn thù du được chiết bằng phương pháp chiết nóng với dung môi EtOH 96%. Từ cao tổng EtOH 96% phân tán trong nước nóng và chiết lỏng - lỏng lần lượt bằng các dung môi hữu cơ có độ phân cực tăng dần: n- hexan, DCM, EtOAc và BuOH. 2.3.2. Phương pháp phân lập Phân lập các hợp chất bằng sắc ký cột với chất hấp phụ là silica gel pha thường, RP-C18 và MCI gel. Theo dõi các phân đoạn bằng sắc ký lớp mỏng pha thường và pha đảo. Phát hiện chất bằng đèn tử ngoại hoặc dùng thuốc thử, hơ nóng để phát hiện vết chất. 2.3.3. Phương pháp xác định cấu trúc Cấu trúc của các hợp chất phân lập được xác định dựa trên các tính chất lý hóa và các dữ liệu phổ bao gồm phổ khối lượng (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) và kết hợp so sánh với tài liệu tham khảo. 3. Kết quả và bàn luận 3.1. Chiết xuất và phân lập Quả Sơn thù du (5,0 kg) được chiết nóng với EtOH 96% (3 lần x 10L x 3 h) ở 70°C. Lọc loại bã dược liệu, gộp các dịch chiết và cất thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được 1,2 kg cao tổng EtOH 96%. Phân tán cao tổng (1,0 kg) trong nước nóng và chiết lỏng - lỏng mỗi dung môi 3 lần với tỉ lệ 1:1, lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexan, DCM, EtOAc và BuOH. Gộp các dịch chiết phân đoạn và cất thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được 22,2 g cao n-hexan, 42,2 g cao DCM, 75,2 g cao EtOAc, 55,8 g cao BuOH và 704,0 g cặn nước. Cao EtOAc (70,0 g) được phân tách bằng sắc ký cột silica gel, rửa giải bằng hệ dung môi DCM/MeOH (100→0%) thu được 8 phân đoạn (1A-1H). Phân đoạn 1D (8,0 g) được phân tách bằng sắc ký cột silica gel với hệ dung môi rửa giải gradient DCM/MeOH (100→0%) thu được 12 phân đoạn nhỏ (2A-2M). Phân đoạn 2A (1,0 g) được phân lập bằng sắc ký cột pha đảo với hệ dung môi rửa giải MeOH-H2O (11:9, v/v) thu được 4 hợp chất 2 (741,2 mg), 3 (3,9 mg), 4 (77,9 mg) và 5 (6,6 mg). Phân đoạn 2C (2,42 g) được phân tách bằng sắc ký cột MCI gel với dung môi rửa giải MeOH-H2O (1:1, v/v) thu được 9 phân đoạn nhỏ (3A-3I). Phân đoạn 3D (343,0 mg) được phân lập bằng sắc ký cột silica gel RP-C18, rửa giải bằng hệ MeOH-H2O (11:9, v/v) thu được hợp chất 6 (19,2 mg). Hợp chất 1 (500,0 mg) thu được từ phân đoạn 1E (15,0 g) bằng sắc ký cột silica gel với hệ dung môi rửa giải DCM/MeOH (90→0%). 3.2. Tính chất vật lý và dữ liệu phổ của các hợp chất phân lập được từ phân đoạn EtOAc Hợp chất 1: chất bột màu trắng; 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 7,01 (2H, s, H-2, H-6); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 170,4 (C-7), 146,3 (C-3, C-5), 139,6 (C-4), 121,9 (C-1), 110,3 (C-2, C-6). Hợp chất 2: dạng gôm màu vàng; 1H-NMR (500 MHz, CDCl3) δH: 4,39 (1H, dd, J = 6,5; 4,5 Hz, H-2), 3,62 (3H, s, 4-OCH3), 3,54 (3H, s, 1- OCH3), 2,70 (1H, dd, J = 16,0; 4,5 Hz, H-3), 2,62 (1H, dd, J = 16,0; 6,5 Hz, H-3); 13C-NMR (125 MHz, CDCl3) δC: 173,5 (C-4), 170,9 (C-1), 67,0 (C-2), 38,3 (C-3), 52,4 (4-OCH3), 51,7 (1- OCH3). Hợp chất 3: chất bột màu vàng; 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 9,42 (1H, s, 2-CHO), 7,30 (1H, m, H-5), 7,13 (1H, dd, J = 4,0; 2,0 Hz, N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 36 H-3), 6,31 (1H, dd, J = 4,0; 2,5 Hz, H-4), 5,92 (1H, m, H-2ʹ), 3,71 (3H, s, 4ʹ-OCH3), 3,64 (3H, s, 1ʹ-OCH3), 3,40 (1H, dd, J = 17,0; 5,5 Hz, H- 3ʹ), 3,07 (1H, dd, J = 17,0; 9,0 Hz, H-3ʹ); 13C- NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 181,0 (2-CHO), 172,1 (C-1ʹ), 170,9 (C-4ʹ), 134,0 (C-5), 132,6 (C-2), 127,8 (C-3), 111,1 (C-4), 59,0 (C-2ʹ), 53,2 (4ʹ-OCH3), 52,4 (1ʹ-OCH3), 37,8 (C-3ʹ); HR- ESI-MS (negative): m/z 238,0758 [M-H]-. Hợp chất 4: chất bột màu vàng; 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 7,32 (2H, s, H-2, H-6), 5,63 (1H, t, J = 6,0 Hz, H-2ʹ), 3,89 (6H, s, 3,5- OCH3), 3,78 (3H, s, 1ʹ-OCH3), 3,73 (3H, s, 4ʹ- OCH3), 3,06 (2H, d, J = 6,0 Hz, H-3ʹ); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 171,5 (C-1ʹ), 171,1 (C- 4ʹ), 166,8 (C-7), 149,0 (C-3, C-5), 142,6 (C-4), 120,2 (C-1), 108,4 (C-2, C-6), 70,2 (C-2ʹ), 56,8 (3,5-OCH3), 53,1 (1ʹ-OCH3), 52,6 (4ʹ-OCH3), 36,9 (C-3ʹ). Hợp chất 5: dạng gôm màu vàng; HR-ESI- MS: m/z 355,1050 [M-H]-. Cấu trúc I: 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 7,33 (2H, s, H-2, H-6), 5,64 (1H, t, J = 6,0 Hz, H-2ʹ), 4,20 (2H, q, J = 7,0 Hz, 1ʹ-OCH2CH3), 3,90 (6H, s, 3,5-OCH3), 3,79 (3H, s, 4ʹ-OCH3), 3,06 (2H, d, J = 6,0 Hz, H-3ʹ), 1,26 (3H, t, J = 7,0 Hz, 1ʹ-OCH2CH3); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 171,1 (C-1ʹ), 171,0 (C-4ʹ), 166,9 (C- 7), 149,1 (C-3, C-5), 142,9 (C-4), 129,4 (C-1), 108,5 (C-2, C-6), 70,2 (C-2ʹ), 62,2 (1ʹ- OCH2CH3), 56,8 (3,5-OCH3), 53,1 (4ʹ-OCH3), 37,3 (C-3ʹ), 14,5 (1ʹ-OCH2CH3). Cấu trúc II: 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 7,33 (2H, s, H-2, H-6), 5,60 (1H, t, J = 6,0 Hz, H-2ʹ), 4,26 (2H, q, J = 7,0 Hz, 4ʹ-OCH2CH3), 3,90 (6H, s, 3,5-OCH3), 3,74 (3H, s, 1ʹ-OCH3), 3,05 (2H, d, J = 6,0 Hz, H-3ʹ), 1,29 (3H, t, J = 7,0 Hz, 4ʹ-OCH2CH3); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 171,5 (C-1ʹ), 170,6 (C-4ʹ), 166,8 (C- 7), 149,1 (C-3, C-5), 142,9 (C-4), 129,6 (C-1), 108,5 (C-2, C-6), 70,3 (C-2ʹ), 62,9 (4ʹ- OCH2CH3), 56,8 (3,5-OCH3), 52,6 (1ʹ-OCH3), 37,0 (C-3ʹ), 14,4 (4ʹ-OCH2CH3). Hợp chất 6: chất bột màu vàng nhạt; 1H- NMR (500 MHz, CD3OD) δH: 7,52 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-7), 7,02 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-2), 6,92 (1H, dd, J = 8,0; 2,0 Hz, H-6), 6,76 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5), 6,24 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-8), 3,73 (3H, s, 9-OCH3); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD) δC: 169,7 (C-9), 149,6 (C-4), 146,9 (C-7), 146,8 (C-3), 127,7 (C-1), 122,9 (C-6), 116,5 (C-5), 114,8 (C-8), 115,1 (C-2), 52,0 (9-OCH3). 3.3. Biện giải cấu trúc của các chất đã phân lập được Cấu trúc hóa học của các hợp chất (1-6) được xác định trên cơ sở phân tích các dữ liệu phổ và so sánh với tài liệu tham khảo (Hình 1). Hợp chất 1 thu được dưới dạng bột màu trắng. 2 tín hiệu singlet tại δH 7,01 (2H, s, H-2, H-6) trên phổ 1H-NMR và các cặp carbon tại δC 146,3 (C-3, C-5) và 110,3 (C-2, C-6) trên phổ 13C-NMR gợi ý sự có mặt của vòng benzen đối xứng trong cấu trúc của 1. Ngoài ra, trên phổ 13C- NMR còn xuất hiện tín hiệu của các carbon không liên kết với hydro tại δC 121,9 (C-1), 139,6 (C-4) và 1 carbon carboxyl tại δC 170,4 (C- 7). Từ những dữ liệu trên, kết hợp với tài liệu [14], cho phép kết luận 1 là acid gallic (Hình 1). Hợp chất 2 được phân lập dưới dạng gôm màu vàng. Phổ 1H-NMR của 2 xuất hiện tín hiệu của 2 nhóm methoxy tại δH 3,62 (3H, s, 4-OCH3) và 3,54 (3H, s, 1-OCH3); 1 proton hydroxyl tại δH 4,39 (1H, dd, J = 6,5; 4,5 Hz, H-2) và 2 proton methylen tại δH 2,70 (1H, dd, J = 16,0; 4,5 Hz, H-3), 2,62 (1H, dd, J = 16,0; 6,5 Hz, H-3). Trên phổ 13C-NMR của 2 cũng xuất hiện các tín hiệu carbon của 2 nhóm methoxy tại δC 52,4 (4- OCH3) và 51,7 (1-OCH3); 1 carbon hydroxyl tại δC 67,0 (C-2), 1 carbon methylen tại δC 38,3 (C- 3) và 2 carbon carbonyl tại δC 173,5 (C-4) và 170,9 (C-1). Những dữ liệu phân tích trên kết hợp so sánh tài liệu [15], có thể khẳng định 2 là dimethyl malat (Hình 1). Hợp chất 3 có dạng bột màu vàng. Phổ 1H- NMR của 3 xuất hiện tín hiệu proton của nhóm aldehyd tại δH 9,42 (1H, s, 2-CHO), 3 proton olefinic tại δH 7,30 (1H, m, H-5), 7,13 (1H, dd, J = 4,0; 2,0 Hz, H-3), 6,31 (1H, dd, J = 4,0; 2,5 Hz, H-4) với hằng số J nhỏ (2,0 - 4,0 Hz) gợi ý sự có mặt của vòng furfural. Ngoài ra, trên phổ proton còn xuất hiện các tín hiệu của nhóm methoxy tại N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 37 δH 3,71 (3H, s, 4ʹ-OCH3) và 3,64 (3H, s, 1ʹ- OCH3), 1 nhóm methin tại δH 5,92 (1H, m, H-2ʹ) và 1 nhóm methylen tại δH 3,40 (1H, dd, J = 17,0; 5,5 Hz, H-3ʹ), 3,07 (1H, dd, J = 17,0; 9,0 Hz, H- 3ʹ). Trên phổ 13C-NMR cũng xuất hiện các tín hiệu của carbon aldehyd tại δC 181,0 (2-CHO), 2 carbon carbonyl tại δC 172,1 (C-1ʹ), 170,9 (C-4ʹ), 3 carbon olefin tại δC 134,0 (C-5), 127,8 (C-3), 111,1 (C-4), 1 carbon không liên kết với proton tại δC 132,6 (C-2), 1 carbon methin tại δC 59,0 (C-2ʹ), 2 carbon methoxy tại δC 53,2 (4ʹ-OCH3), 52,4 (1ʹ-OCH3) và 1 carbon methylen tại δC 37,8 (C-3ʹ). Vị trí của nhóm methoxy được xác định lần lượt tại C-4ʹ và C-1ʹ dựa trên các tương tác giữa proton δH 3,71 với carbon δC 170,9 (C-4ʹ) và proton δH 3,64 với carbon δC 172,1 (C-1ʹ) trên phổ HMBC. Ngoài ra, tương tác giữa proton δH 7,30 (1H, m, H-5) với carbon δC 59,0 (C-2ʹ) trên phổ HMBC và sự chuyển dịch về phía trường cao của C-2ʹ (δC 59,0) trong cấu trúc của 3 so với 2 (δC 67,0) cho thấy vị trị gắn của vòng fufural tại C-2ʹ. Công thức phân tử của 3 được xác định là C11H12NO5 (M = 238,0715) dựa trên pic ion giả phân tử tại m/z 238,0758 [M-H]- trên phổ HR-ESI-MS (negative). Từ những phân tích trên kết hợp với tài liệu [16], 3 được xác định là 1,4- dimethyl ester 2-(2-formyl-1H-pyrrol-1- yl)butanedioic acid (Hình 1). Hợp chất 4 được phân lập dưới dạng bột màu vàng. Phổ 1H-NMR chỉ ra sự có mặt của proton aromatic tại δH 7,32 (2H, s, H-2, H-6), 4 nhóm methoxy tại δH 3,89 (6H, s, 3,5-OCH3), 3,78 (3H, s, 1ʹ-OCH3), 3,73 (3H, s, 4ʹ-OCH3), 1 nhóm methylen tại δH 3,06 (2H, d, 6,0 Hz, H-3ʹ) và 1 proton hydroxyl methin tại δH 5,63 (1H, t, J = 6,0 Hz, H-2ʹ). Tín hiệu proton tại δH 7,32 (2H, s, H- 2, H-6) và 3,89 (6H, s, 3,5-OCH3) gợi ý vòng benzen ở dạng đối xứng tương tự như 1. Phổ 13C- NMR và DEPT cho thấy sự có mặt của 15 carbon trong đó có 7 carbon không liên kết với proton (4 aromatic và 3 carbonyl), 3 carbon methin (2 aromatic và 1 oxy hóa), 1 carbon methylen và 4 carbon methoxy. Vị trí của các nhóm methoxy được xác định lần lượt tại C-3, C-5, C-4ʹ và C-1ʹ thông qua tương tác giữa proton với carbon δH 3,89 → δC 149,0 (C-3, C-5), δH 3,73 → 171,1 (C- 4ʹ) và δH 3,78 → δC 171,5 (C-1ʹ). Tương tác giữa nhóm benzoyl với C-2ʹ của dimethyl 2- hydroxysuccinat được khẳng định qua tương tác HMBC giữa H-2ʹ (δH 5,63) với C-7 (δC 166,8). Phổ HR-ESI-MS của 4 xuất hiện pic ion giả phân tử tại m/z 341,0888 [M-H]- tương ứng với công thức phân tử C15H17O9 (M = 341,0873). Các dữ liệu phân tích trên kết hợp với tài liệu [17], 4 được xác định là stageobester A (Hình 1). Hợp chất 5 được phân lập dưới dạng gôm màu vàng. Phổ 1D-NMR của 5 được xác định là một hỗn hợp gồm 2 cấu trúc với tỉ lệ 4 (I) : 3 (II). So sánh dữ liệu phổ của 5 và 4 cho thấy có sự giống nhau với các tín hiệu của vòng benzen đối xứng thế 1,3,4,5 và 2 nhóm methoxy (δH 3,90, δC 56,8) thế tại vị trí 3 và 5 được chứng minh qua các tương tác giữa proton methoxy và các carbon tương ứng (I, II: δH 3,90 → δC 149,1). Ngoài ra, trên phổ của 5 cũng cho thấy sự xuất hiện dẫn xuất của acid 2-hydroxysuccinic với 2 nhóm carbonyl (I: δC 171,1, 171,0; II: δC 171,5, 170,6), 1 nhóm methylen (I: δH 3,06, δC 37,3; II: δH 3,05, δC 37,0) và 1 nhóm hydroxyl methin (I: δH 5,64, δC 70,2; II: δH 5,60, δC 70,3). Tuy nhiên khác với 4, 5 có sự xuất hiện nhóm CH3CH2O- (I: δH 4,20, 1,26, δC 62,2, 14,5; II: δH 4,26, 1,29, δC 62,9, 14,4) thay vì nhóm OCH3 như trong cấu trúc của 4 với các vị trí được hoán đổi cho nhau. Vị trí của nhóm CH3CH2O- được xác định thông qua tương tác HMBC giữa proton methylen của CH3CH2O- với carbon carbonyl (I: δH 4,20 → δC 171,1, II: δH 4,26 → δC 170,6). Vị trí của nhóm - OCH3 còn lại được xác định dựa trên sự tương tác giữa proton methoxy và carbon carbonyl của acid 2-hydroxysuccinic (I: δH 3,79 → δC 171,0; II: δH 3,74 → δC 171,5). Ngoài ra, trên phổ HMBC cũng cho thấy sự tương tác của nhóm benzoyl tại C-2ʹ trong các cấu trúc của 5 (I: δH 5,64 → δC 166,9; II: δH 5,60 → δC 166,8). Phổ HR-ESI-MS của 5 xuất hiện pic ion giả phân tử tại m/z 355,1050 [M-H]- tương ứng với công thức phân tử C16H19O9 (M = 355,1029). Theo tra cứu trên trang SciFinder, cả hai cấu trúc của 5 đều mới, do đó, 5 được đặt tên là coroffester (Hình 1). Hợp chất 6 thu được dưới dạng bột màu vàng nhạt. Phổ 1H-NMR xuất hiện các tín hiệu proton aromatic tại δH 7,02 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-2), N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 38 6,92 (1H, dd, J = 8,0; 2,0 Hz, H-6), 6,76 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5) gợi ý vòng benzen thế 1,3,4. Ngoài ra, trên phổ proton còn xuất hiện các tín hiệu olefinic ở dạng trans tại δH 7,52 (1H, d, H- 7), 6,24 (1H, d, H-8) với hằng số tương tác lớn (J = 16,0 Hz) và 1 nhóm methoxy tại δH 3,73 (3H, s, 9-OCH3). Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy sự có mặt của 10 carbon trong đó có 4C (1 aromeric (δC 127,7), 1 carbonyl (δC 169,7) và 2 oxy hóa (δC 149,6 và 146,8)), 5CH (δC 146,9, 122,9, 116,5, 114,8 và 115,1) và 1 OCH3 (δC 52,0). So sánh dữ liệu phổ của 6 và hợp chất methyl caffeat trong tài liệu [18] cho thấy có sự trùng khớp. Do đó, 6 được xác định là methyl caffeat (Hình 1). Như vậy, từ quả của Sơn thù du đã phân lập và xác định cấu trúc của 6 hợp chất, trong đó 1 hợp chất mới (5) và 2 hợp chất (3 và 4) lần đầu tiên từ loài Cornus officinalis. Hình 1. Cấu trúc và các tương tác HMBC chính (→) của các hợp chất phân lập từ quả Sơn thù du (1-6). 4. Kết luận Từ cao ethyl acetat của quả Sơn thù du đã phân lập được 6 hợp chất trong đó có 1 hợp chất mới (5: coroffester), 2 hợp chất lần đầu tiên phân lập từ loài Cornus officinalis (3: acid 1,4- dimethyl ester 2-(2-formyl-1H-pyrrol-1- yl)butanedioic và 4: stageobester A) và 3 hợp chất cũ trong loài (1: acid gallic, 2: dimethyl malat và 6: methyl caffeat). Lời cám ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi đề tài khoa học công nghệ chuyên sâu “Chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc của một số hợp chất từ quả Sơn thù du (Cornus officinalis), họ Sơn thù (Cornaceae)”. Tài liệu tham khảo [1] Vo Van Chi, The dictionary of medicinal plants of Vietnam, Volume II, Medical Publishing House, 2012 (in Vietnamese). [2] T. Hatano, N. Ogawa, R. Kira, T. Yasuhara, T. Okuda, Tannins of cornaceous plants. I, Cornusiins A, B and C, dimeric monomeric and trimeric hydrolyzable tannins from Cornus officinalis, and orientation of valoneoyl group in related tannins, Chem. Pharm. Bull. 37 (1989a) 2083-2090. https://doi.org/10.1248/cpb.37.2083. [3] J. He, X.S. Ye, X.X. Wang, Y.N. Yang, P.C. Zhang, B.Z. Ma, W.K. Zhang, J.K. Xu, Four new iridoid glucosides containing the furan ring from the fruit of Cornus officinalis, Fitoterapia 120 (2017) 136-141. https://doi.org/10.1016/j.fitote.2017.06.003. [4] S.E. Jang, J.J. Jeong, S.R. Hyam, M.J. Han, D.H. Kim, Ursolic acid isolated from the seed of Cornus N.T. Hung et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 33-39 39 officinalis ameliorates colitis in mice by inhibiting the binding of lipopolysaccharide to Toll-like receptor 4 on macrophages, J. Agric. Food Chem. 62 (2014) 9711-9721. https://doi.org/10.1021/jf501487v. [5] D. Lee, S.J. Kang S.H. Lee, J. Ro, K. Lee, A.D. Kinghorn, Phenolic compounds from the leaves of Cornus controversa, Phytochemistry 53 (2000) 405-407. https://doi.org/10.1016/S0031- 9422(99)00502-6. [6] Y.Y. Wen, Q. Ren, G.M. Zhang, A.N. Li, Z.E. Ding, Analysis of the essential oils from Cornus officinalis by simultaneous distillation extraction coupled with gas chromatography–mass spectrometry, Shipin Yu Fajiao Gongye 36 (2010) 165-170. [7] N. T. Telang, G. Li, D.W. Sepkovic, H.L. Bradlow, G.Y.C. Wong, Anti-proliferative effects of Chinese herb Cornus officinalis in a cell culture model for estrogen receptor‑positive clinical breast cancer, Mol. Med. Rep. 5 (2012) 22-28. https://doi.org/10.3892/mmr.2011.617. [8] Y.H. Sung, H.K. Chang, S.E. Kim, Y.M. Kim, J.H. Seo, M.C. Shin, M.S. Shin, J.W. Yi, D.H. Shin, H. Kim, C.J. Kim, Anti-inflammatory and analgesic effects of the aqueous extract of corni fructus in murine RAW 264.7 macrophage cells, J. Med. Food 12 (2009) 788-795. https://doi.org/10.1089/jmf.2008.1011. [9] H.J. Kim, B.H. Kim, Y.C. Kim, Antioxidative action of corni fructus aqueous extract on kidneys of diabetic mice, Toxicol. Res. 27 (2011) 37. https://doi.org/10.5487/TR.2011.27.1.037. [10] C.H. Park, E.J. Cho, T. Yokozawa, Protection against hypercholesterolemia by Corni fructus extract and its related protective mechanism, J. Med. Food 12 (2009) 973-981. https://doi.org/10.1089/jmf.2009.0037. [11] W. Wang, J. Xu, L. Li, P. Wang, X. Ji, H. Ai, L. Zhang, L. Li, Neuroprotective effect of morroniside on focal cerebral ischemia in rats, Brain Res. Bull. 83 (2010) 196-201. https://doi.org/10.1016/j.brainresbull.2010.07.003. [12] N. Yamabe, K.S. Kang, Y. Matsuo, T. Tanaka, T. Yokozawa, Identification of antidiabetic effect of iridoid glycosides and low molecular weight polyphenol fractions of Corni Fructus, a constituent of Hachimi-jio-gan, in streptozotocin- induced diabetic rats, Biol. Pharm. Bull. 30 (2007b) 1289-1296. https://doi.org/10.1248/bpb.30.1289. [13] Vien Duoc lieu, Medicinal plants and animals in Vietnam, Volume II, Science and Technology Publishing House, 2006, pp. 756-758 (in Vietnamese). [14] S. Kamatham, N. Kumar, P. Gudipalli, Isolation and characterization of gallic acid and methyl gallate from the seed coats of Givotia rottleriformis Griff. and their anti-proliferative effect on human epidermoid carcinoma A431 cells, Toxicol. Rep. 2 (2015) 520-529. https://doi.org/10.1016/j.toxrep.2015.03.001. [15] M.A. Brimble, O.C. Finch, A.M. Heapy, J.D. Fraser, D.P. Furkert, P.D. O’Connor, A convergent synthesis of the [4.4]-spiroacetal-γ-lactones cephalosporolides E and F, Tetrahedron 67 (2011) 995-1001. https://doi.org/10.1016/j.tet.2010.11.107. [16] S.H. Ku, B. Oh, H.U. Jung, I.J. In, Y.G. Jang, Lee B.S., Production of novel pyrrolo-lactone and pyrrole compounds showing ability to recover glutathione in living cells against noxious oxygen species, (2019), patent. [17] X.L. Zhou, S.X. Huang, P.C. Wang, Q. Luo, X. Huang, Q. Xu, J.K. Qin, C.Q. Liang, X. Chen, A syringic acid derivative and two iridoid glycosides from the roots of Stachys geobombycis and their antioxidant properties, Nat. Prod. Res. 33 (2019) 681-686. https://doi.org/10.1080/14786419.2017.1405413. [18] Y. Zhu, L.X. Zhang, Y. Zhao, G.D. Huang, Unusual sesquiterpene lactones with a new carbon skeleton and new acetylenes from Ajania przewalskii, Food Chem. 118 (2010) 228-238. https://doi.org/10.1016/j.foodchem.2009.04.112.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphenolic_compounds_isolated_from_fruits_of_cornus_officinali.pdf
Tài liệu liên quan