Phổ biến khoa học kỹ thuật bệnh rụng lá hại cao su và biện pháp phòng trừ

SẢN xUấT NăNG LƯợNG SẠCH TỪ NƯỚC THẢI Ô NHIễM Các nhà khoa học Hoa Kỳ vừa tìm ra một phương pháp mới để sản xuất năng lượng sạch từ nước thải ô nhiễm. Các kỹ sư hy vọng, nghiên cứu của họ sẽ được áp dụng trong các cơ sở xử lý nước thải và giúp phân hủy các chất hữu cơ ô nhiễm trong các vùng chết của đại dương và hồ, nơi mà phân và rác thải làm cạn kiệt nguồn ôxy và giết chết sinh vật sống trong môi trường đó. Các nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc chế tạo một loại pin D-cell với hai điện cực nối vào một chai nước thải chứa đầy vi khuẩn. Đây là một phương pháp hữu hiệu khi khai thác nước thải để sản xuất điện năng. Khi vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ, chúng sẽ tập trung xung quanh điện cực âm và làm phát sinh ra điện tử sẽ bị hút về phía điện cực dương. Có thể khai thác khoảng 30% năng lượng tiềm năng trong nước thải, tương đương với tỉ lệ của các tấm pin mặt trời thương mại. Một lợi ích bất ngờ khi khai thác điện năng từ vi khuẩn sống trong nước thải là quá trình sản sinh năng lượng cũng là quá trình vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ gây ô nhiễm, do đó cũng sẽ làm sạch nguồn nước thải này./.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phổ biến khoa học kỹ thuật bệnh rụng lá hại cao su và biện pháp phòng trừ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [62] TRANG TIN Bệnh được phát hiện lần đầu tiên trên cây cao su tại Việt Nam vào tháng 8/1999, gây hại nặng cho các DVT RRIC 103, RRIC 104 và LH 88/372, Năm 2009, dịch bệnh xuất hiện gây hại nặng cho gần 3.000ha cao su tại Quảng Nam và Sa Thầy. Năm 2010, bệnh đã phát sinh trên diện rộng ở một số tỉnh miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên và miền Trung, tập trung trên dòng vô tính cao su RRIV 4, hiện chiếm diện tích đã trồng khá lớn ở cả vùng cao su đại điền và tiểu điền. Tháng 9/2010, Viện Nghiên cứu Cao su đã phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật xây dựng “Quy trình kỹ thuật tạm thời phòng trừ bệnh rụng lá Corynepora trên cây cao su do nấm Corynespora cas- siicola gây ra” và đã được Cục Bảo vệ thực vật ban hành ngày 23/09/2011 (số 1630/BVTV-CV). Bài báo này trình bày phương pháp phòng trị bệnh rụng lá Corynespora dựa trên quy trình đã được ban hành và những kết quả triển khai thành công của Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam. 1. Triệu chứng bệnh Trong thời gian vừa qua, các phương tiện thông tin đại chúng thường gọi bệnh này là bệnh “vàng lá rụng lá” vì lá bị nhiễm bệnh sẽ vàng và rụng đi. Tuy nhiên, cách gọi như vậy dễ gây nhầm lẫn. Đề nghị gọi chính xác tên là “Bệnh rụng lá Corynes- pora”. Hiện tượng vàng lá rụng lá trên cây cao su có thể do nhiều nguyên nhân: cây bị bệnh khác, thiếu hoặc mất cân bằng dinh dưỡng, cháy nắng, khô hạn, úng nước, vàng rụng lá sinh lý, đôi khi do thời tiết, lá vàng và rụng nhiều hơn bình thường. Cần xác định đúng nguyên nhân để có biện pháp xử lý thích hợp. Tránh trường hợp áp dụng các biện pháp không phù hợp, không theo khuyến cáo mà theo truyền miệng, tốn kém, không hiệu quả, triệu chứng không giảm. Riêng đối với trường hợp bệnh rụng lá Corynes- pora, có thể nhận biết thông qua các triệu chứng được mô tả dưới đây, kết hợp với một số hiện tượng trên vườn cây: lá vàng không chỉ ở tầng dưới mà còn ở tầng giữa và tầng trên. Nhìn từ dưới lên có thể thấy lá bệnh bị vàng lốm đốm, không vàng đều như vàng lá sinh lý. Các lá non trên ngọn, không phẳng mà bị xoăn lại, biến dạng. Một số chồi lá bị rụng trơ chìa. Lá rụng trên vườn có cả lá già lẫn lá non kết hợp với những vết bệnh trên lá. Triệu chứng tùy thuộc vào vị trí bị hại như: lá, cuống lá và chồi. Triệu chứng trên lá dễ nhận diện nhất, nhưng có sự thay đổi lớn trong thời gian gần đây. Sự xuất hiện của các triệu chứng bệnh tùy thuộc vào tính mẫn cảm của DVT, điều kiện thời tiết. Trên lá: Trên lá non vết bệnh có hình tròn màu xám đến nâu với vòng màu vàng bao xung quanh, tại trung tâm vết bệnh đôi khi hình thành lỗ, lá bị hại xoăn lại biến dạng sau đó rụng toàn bộ. Những lá đã chuyển màu xanh, triệu chứng đặc trưng với vết bệnh màu vàng sau chuyển màu đen, đường kính khoảng 1-3mm, phân bố PHỔ BIẾN KHOA HỌC KỸ THUẬT BỆNH RỤNG LÁ HẠI CAO SU VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ Bệnh rụng lá Corynespora trên cây cao su do nấm Corynespora cassiicola (Berk. & Curt.) Wei gây ra. Bệnh xuất hiện lần đầu tiên trên cây cao su tại Sierra Leone (1936), tiếp theo xuất hiện lần lượt tại hầu hết các nước trồng cao su trên thế giới. Ban đầu được xem là bệnh gây hại không đáng kể ở vườn nhân và chỉ xuất hiện trên một vài dòng vô tính (DVT) cao su. Càng ngày bệnh này càng trở nên nghiêm trọng và trở thành đại dịch ở nhiều quốc gia. Bệnh có thể phát sinh, phát triển quanh năm và gây hại mọi giai đoạn sinh trưởng của cây cao su, nhất là các DVT cao su mẫn cảm. Do khả năng tiết ra độc chất và gây rụng lá hàng loạt, bệnh ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, sản lượng cao su, gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho ngành trồng cao su ở nhiều nước. Do vậy, bệnh rụng lá Corynespora được coi là loại bệnh nguy hiểm nhất của cây cao su khu vực châu Á và Phi. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [63] TRANG TIN dạng xương cá dọc theo gân lá. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, các vết lan rộng gây chết từng phần lá do sự phá hủy của diệp lục, sau đó toàn bộ lá đổi màu vàng - vàng cam và rụng từng lá một. Trên lá già, một số vết bệnh xuất hiện vết thủng. Trên chồi và cuống lá: Các chồi xanh dễ nhiễm, đôi khi nấm bệnh cũng gây hại chồi đã hóa nâu. Dấu hiệu đầu tiên với vết nứt dọc theo cuống và chồi có dạng hình thoi, có mủ rỉ ra sau đó hóa đen, vết bệnh có thể phát triển dài đến 20cm gây chết chồi, đôi khi chết cả cây. Nếu dùng dao cắt bỏ lớp vỏ ngoài sẽ xuất hiện những sọc đen ăn sâu trên gỗ, chạy dọc theo vết bệnh. Trên cuống lá với vết nứt màu đen có chiều dài 0,5- 3,0mm. Nếu cuống lá bị hại, toàn bộ lá chét bị rụng khi còn xanh dù không có một triệu chứng nào xuất hiện trên phiến lá (do nấm bệnh tiết độc tố). 2. Đặc điểm phát sinh, phát triển và tác hại Nấm có khả năng tồn tại và phát triển trong phạm vi nhiệt độ lớn. Nhiệt độ và ẩm độ cao là thích hợp nhất cho nấm (28 ± 20C, ẩm độ bão hòa). Bào tử có khả năng tồn tại trên các vết bệnh hoặc trong đất với thời gian dài, trên lá cao su khô nấm vẫn tồn tại và giữ nguyên khả năng gây bệnh đến 3 tháng. Lá bệnh và cây con bị nhiễm bệnh từ vườn ươm là nguồn nấm bệnh chủ yếu. Bào tử phóng thích vào ban ngày và cao điểm từ 8-11 giờ. Sau thời gian mưa nhiều và tiếp theo nắng ráo, số lượng bào tử phóng thích nhiều nhất. Bệnh có thể phát sinh quanh năm, đặc biệt cao điểm trong giai đoạn chuyển từ mùa nắng sang mùa mưa (tháng 5-6) khi có những cơn mưa đầu mùa tạo ẩm độ cao tiếp theo sau là những ngày nắng nóng và khi thời tiết chuyển từ mưa sang nắng hạn là điều kiện rất thuận lợi cho bào tử phát sinh và phát tán khiến bệnh bùng phát. Nấm có khả năng gây hại cho cả lá già và non cũng như cuống lá và chồi. Hơn nữa, do phát sinh quanh năm và nấm có thể tấn công gây hại trên tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây cao su từ vườn ương, nhân đến vườn cây kiến thiết cơ bản và cả vườn cây khai thác ở mọi lứa tuổi nên bệnh có tác hại lớn, nhất là các DVT cao su mẫn cảm như RRIV 4. Vườn cây kiến thiết cơ bản bị nhiễm bệnh sẽ giảm sinh trưởng dẫn đến phải kéo dài thời gian kiến thiết cơ bản. Vườn cây khai thác bị nhiễm bệnh, sản lượng bị sụt giảm có thể đạt đến trên 30%. 3. Biện pháp phòng trừ Do nấm bệnh gây hại quanh năm và trong suốt giai đoạn sinh trưởng từ vườn ươm đến vườn khai thác, nên quản lý bệnh rụng lá cây cao su cần phải thực hiện biện pháp quản lý mang tính tổng hợp. * Phòng bệnh Về lâu dài: - Chọn và trồng các DVT cao su kháng hoặc chống chịu bệnh có vai trò chính. Không nhân giống và trồng các DVT mẫn cảm như: RRIC 103, RRIC 104, KRS 21, RRIM 725, RRIM 600, Fx 25, IAN 873, PPN 2058, PPN 2444, PPN 2447, RRIV 2, RRIV 3 và RRIV 4. - Xác định tỷ lệ, cơ cấu giống cao su trồng phù hợp với điều kiện địa phương trong tình hình bệnh đang phát sinh và gây hại để có thể vừa làm tốt công tác quản lý bệnh và đảm bảo sản xuất phát triển. - Không độc canh một DVT trên diện tích lớn. - Không sử dụng cây con không có nguồn gốc và lẫn tạp giống. - Xử lý sạch bệnh trên cây con trước khi đưa ra trồng. Trước mắt: Triệu chứng bệnh trên lá, cuống lá, chồi Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [64] TRANG TIN - Những vườn cao su dưới 2 năm tuổi đã trồng bằng các DVT nhiễm bệnh, thực hiện ghép chồng đổi giống hoặc ghép tán bằng DVT cao su kháng bệnh hoặc chống chịu bệnh. Những vườn đã trồng bằng DVT cao su nhiễm bệnh trên 2 năm tuổi, vẫn duy trì nhưng cần thường xuyên theo dõi, phát hiện sớm các triệu chứng bệnh phát sinh, phun kịp thời bằng thuốc trừ bệnh với các thiết bị phun phù hợp. - Trong điều kiện bệnh có thể phát sinh phát triển mạnh và cây cao su có tỷ lệ từ khoảng 10% số lá bị nhiễm bệnh trở lên, cần phải thực hiện một số biện pháp sau: * Phun trị bệnh: Thuốc trừ nấm bệnh: Dùng các loại thuốc trừ nấm bệnh có gốc hexaconazole (Anvil 5SC, Hexin 5SC, Saizole 5SC, Vivil 5SC, Centervin 5 SC, Indiavin 5 SC, carbendazim (Vicarben 50SC, Carbenzim 500FL, Car- benvil 50SC, Carban 50 SC, Ben- zimidin 50SC) hoặc các loại thuốc phối trộn sẵn gốc carben- dazim và hexaconazole (Vixazol 275SC, Arivit 250SC, Calivil 55SC). Công thức: Áp dụng 1 trong những công thức: (1) hexacona- zole (5% a.i) nồng độ 0,2 - 0,3%; (2) Hôñ hơp̣ carbendazim (50% a.i) 0,1-0,15% + hexaconazole (5% a.i) 0,1-0,15% (phối trộn theo tỷ lệ 1:1); (3) Thuốc phối trộn sẵn gốc carbendazim va ̀ gốc hexa- conazole nôǹg đô ̣ tùy vào hàm lượng thuốc gốc (0,2-0,3%). Pha phối hợp với chất bám dính BDNH 2000 nồng độ 0,2% (vườn ương, nhân, vườn năm 1), 0,3% (vườn năm 2-4), 0,5% (vườn năm 5 trở đi). Thiết bị phun: Đối với vườn ương, nhân, vườn kiến thiết cơ bản chưa khép tán, có chiều cao tán lá thấp, dùng bình phun đeo vai dung tích 8 lít hoặc 16 lít. Đối với vườn đã khép tán, có chiều cao tán lá trên 4m, dùng máy bơm phun cao áp với công suất đủ phun thuốc tới ngọn, máy phun chuyên dụng Jactor. Cách xử lý: Đối với vườn ươm, nhân, phun ướt toàn bộ lá, chồi non, lưu ý phun mặt dưới lá. Đối với vườn sản xuất, phun ướt toàn bộ tán lá, chồi non, lưu ý phun mặt dưới lá và phun tới ngọn. Phun vào buổi sáng sớm và ngưng khi trời bắt đầu nắng gắt (10h-10h30), nếu phun quá trưa, thuốc dễ bị phân hủy và cây có thể bị sốc thuốc. Không nên phun vào buổi chiều, mưa chiều sẽ làm trôi thuốc. Lượng nước phun cho 1ha: 600-800 lít; máy phun Jactor 250- 400 lít. Chu kỳ phun 3 đợt cách nhau 7-10 ngày. * Các biện pháp canh tác bổ sung - Vườn cây đang khai thác phải ngừng khai thác nếu bệnh nặng hoặc chuyển sang nhịp độ cạo d3 không được cạo d2, không bôi chất kích thích. - Tăng cường chăm sóc bón phân đầy đủ, hợp lý để cây sinh trưởng phát triển khỏe. Bón tăng lượng phân kali lên so với quy trình khoảng 25% để cây tăng sức chống chịu sự xâm nhiễm gây hại của nấm bệnh. - Vệ sinh toàn bộ vườn cao su đã bị bệnh, thu gom các lá, cuống lá, cành, chồi non bị bệnh đã rụng dưới đất để tiêu hủy nhằm làm giảm nguồn nấm bệnh lưu chuyển trên đồng ruộng. - Thường xuyên kiểm tra vườn cây, đặc biệt ở thời điểm chuyển mùa nắng sang mùa mưa (tháng 5- 6) và khi thời tiết chuyển từ mưa sang nắng hạn, vì đây là điều kiện thuận lợi để bệnh bùng phát trở lại./. Nguyễn Tuấn Lộc Trung tâm BVTV Vùng Khu 4 NHÓM CÔN TRÙNG KÝ SINH LÀM GIẢM QUẦN THỂ SÂU HẠI LÚA Trong tự nhiên có những cân bằng sinh học thật kỳ diệu, cân bằng giữa thiên địch và sâu hại lúa là một ví dụ. Trong hệ sinh thái ruộng lúa, bên cạnh những côn trùng có hại, còn có nhiều loài côn trùng, nhện có ích. Chúng thường hạn chế được các loài côn trùng có hại, đặc biệt là những nơi tránh dùng thuốc bảo vệ thực vật rộng rãi. Nếu không có các loài có ích thì các côn trùng có hại sẽ phát triển nhanh đến mức có thể ăn trụi cây lúa và phát triển thành dịch. Nhóm côn trùng ký sinh là một trong những nhóm côn trùng có ích, nhỏ bé, tự nhiên sẵn có trên ruộng lúa, đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình kìm hãm quần thể sâu hại, hạn chế bộc phát dịch. Có trên 100 loài ký sinh tấn công các sâu hại trên ruộng lúa, tuy nhiên từng loài côn trùng nhỏ bé này có tính ký sinh rất chuyên biệt và thường chỉ tấn công một vài loài ký chủ. Ví dụ, những ký sinh của bọ rầy không tấn công bất kì giai đoạn nào của các sâu hại khác. Ngay trong ký sinh của rầy, có loài chỉ tấn công Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [65] TRANG TIN trứng rầy hoặc chỉ tấn công rầy non, hoặc có loài chỉ tấn công rầy xanh mà không tấn công rầy nâu. Nhiều loài ký sinh chỉ thích ký sinh một pha nhất định của sâu hại như: pha trứng, pha sâu non, pha nhộng, pha trưởng thành. Nhưng cũng có loài ký sinh tất cả các pha sinh trưởng của côn trùng, thích ký sinh một loài ký chủ hoặc có thể ký sinh trên nhiều loài côn trùng thuộc cùng nhóm. Cơ bản về vòng đời của ký sinh: Ký sinh thuộc về nhóm côn trùng có 4 giai đoạn sinh trưởng đó là: trứng, sâu non, nhộng và trưởng thành. Chẳng hạn, ong ký sinh thuộc bộ cánh màng Hy- menoptera, nếu 1 con cái không giao phối thì chỉ đẻ ra những quả trứng nở thành con đực. Nếu được giao phối, con cái sẽ sinh ra cả đực lẫn cái, thường con cái nhiều hơn. Chỉ có con cái có khả năng ký sinh các côn trùng khác, con đực chỉ có ích cho việc giao phối. Nhóm ong ký sinh đẻ trứng từng quả hoặc từng cụm lên trên các pha của sâu, có thể trên thân, bên trong hoặc cạnh ký chủ. Khi trứng ký sinh nở và sâu non ký sinh phát triển thì ký chủ ngừng ăn rồi chết, nhóm ký sinh có thể tìm thấy ký chủ của chúng kể cả khi ký chủ có mật độ thấp. Sau đây là một số loài côn trùng ký sinh tự nhiên chính sẵn có trên ruộng lúa, ký sinh một số nhóm sâu hại phổ biến như sau: 1. Nhóm ong chính ký sinh trứng, sâu non và nhộng sâu đục thân lúa - Ong ký sinh trứng: Ong đen Telenomus rowani Gahan; ong xanh Tetrastichus schoenobii Ferriere; ong cự khoang Amauro- morpha accepta Ashmead; ong cự Itoplectis narangae Ashmead. - Ong ký sinh sâu non: Ong ký sinh hình đèn lồng Charops brachypterum Gupta; ong kén nhỏ Stenobracon nicevillei Bing- ham, Phanerotoma sp; ong cự nâu vàng Telemucha philippinen- sis Ashmead. - Ong ký sinh nhộng: Ong vàng Xanthopimpla flavolineata Cameron. 2. Nhóm ong chính ký sinh trứng, sâu non và nhộng sâu cuốn lá lúa - Ong ký sinh trứng: Ong mắt đỏ Trichogramma sp; ong đa phôi Copidosomopsis nacoleiae Eady. Chúng thuộc bộ cánh màng Hy- menoptera. - Ong ký sinh sâu non: Ong cự Itoplectis narangae Ashmead, Trichomma enaphalocrosis Uchida; ong ký sinh hình đèn lồng Charops brachypterum Gupt; ong cự nâu vàng Tele- mucha philippinensis Ashmead; ong đen kén trắng lập thể Cote- sia. - Ong ký sinh nhộng: Ong đen đùi to Brachymeria lasus Walker. 3. Nhóm côn trùng chính ký sinh trứng rầy và rầy non, rầy trưởng thành trên lúa - Ong ký sinh trứng rầy: Ana- grus optabilis Perkins, Anagrus flaveolus Waterhouse; họ ong mắt đỏ Oligosita naias Girault, Oligosita aesopi Girault; ong Go- natocerus spp. - Ký sinh rầy non và rầy trưởng thành: + Ong kiến ký sinh rầy: Hap- logonatopus apicalis Perkins, Pseudogonatopus nudus Perkins. Nhóm này tấn công bọ rầy xanh và rầy nâu. + Ruồi đầu to ký sinh rầy xanh: Tomosvaryella spp, Pipun- cules spp. Ruồi đầu to đậu lên lưng rầy và đẻ trứng vào bụng rầy và phát triển trong cơ thể ký chủ. Ruồi ký sinh 2-3 con rầy mỗi ngày. + Bọ cánh cuốn ký sinh rầy: Halictophagus spectrus Yang, ký sinh và sống bên trong cơ thể ký chủ. Những ký sinh trên rầy, sâu đục thân, sâu cuốn lá là những nhóm côn trùng có lợi luôn tồn tại trên đồng ruộng ngoài tự nhiên góp phần làm giảm quần thể sâu hại và được xem là bạn đồng hành của nhà nông, giúp nhà nông phòng trừ sâu hại miễn phí, bảo vệ cây trồng, đảm bảo cân bằng sinh thái. Tuy nhiên, những loài ký sinh này có kích thước nhỏ bé, rất mẫn cảm với thuốc trừ sâu. Do vậy, để duy trì và phát triển nhóm thiên địch này, không nên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong 40 ngày đầu sau khi gieo, cấy; chỉ phun thuốc khi thật sự cần thiết và theo nguyên tắc 4 đúng./. Nguyễn Huy Khánh Trung tâm BVTV Vùng Khu 4 Tài liệu tham khảo 1. Cục Bảo vệ thực vật (1995), Quản lý dịch hại tổng hợp một giải pháp sinh thái, NXB Nông nghiệp. 2. Huy Phan Táo, Hà Minh Trung (1989), Các côn trùng, nhện và nguồn bệnh có ích, NXB Nông nghiệp. 3. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2004), Giáo trình Côn trùng nông nghiệp. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [66] TRANG TIN TIN KH&CN TRONG NƯỚC MÁy HÁI CÀ PHê CẦM TAy Các nhà khoa học của Viện Hóa học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo vật liệu sử dụng trong lĩnh vực bảo quản hoa quả (vải, nhãn, mận, cam, dưa hấu). Đây là đề tài nghiên cứu KH&CN cấp nhà nước trong giai đoạn 2006-2010 và hiện nay đã phát triển thành dự án sản xuất thử nghiệm thuộc Chương trình KC.02/11-15 “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ vật liệu mới”. Ban đầu, đề tài đã đặt ra 3 mục tiêu nghiên cứu chính là tạo ra vật liệu bảo quản dạng dung dịch, dạng nhũ tương và màng bao gói khí quyển biến đổi (MAP) để bảo quản hoa quả. Tuy nhiên, sau kết quả nghiên cứu, xét về mặt kinh tế, chỉ có sản phẩm màng bao gói khí quyển MAP mới đáp ứng được thực tế. Vì vậy, trong dự án sản xuất thử nghiệm KC.02.DA 07/11-15, các nhà khoa học tiếp tục tập trung nghiên cứu, sản xuất màng MAP bảo quản không chỉ hoa quả mà còn sử dụng rộng rãi trong bảo quản thực phẩm với giá thành cạnh tranh. Bình thường, không có màng MAP, ở nhiệt độ thấp 4-5oC, hoa quả chỉ bảo quản được khoảng 2-3 tuần. Nhưng nếu dùng màng MAP bao bọc bên ngoài, có thể bảo quản trong 7-8 tuần. Nhờ vậy, người nông dân có thể vận chuyển đi xa mà không bị hỏng. Hoặc các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, có thể cho hàng hóa vào kho đông lạnh, bọc trong màng MAP là có thể bảo quản được lâu hơn. Hiện nay, sản phẩm của dự án đã được thương mại hóa ra thị trường trong nước, đồng thời, với mục tiêu xuất khẩu trong thời gian tới, dự án đã mạnh dạn đầu tư nghiên cứu hoàn thiện công nghệ, sản xuất với quy mô công nghiệp cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường Việt Nam và khu vực./. CHế TẠO THÀNH CÔNG MÀNG BẢO QUẢN THựC PHẩM LÂU NGÀy Ông Nguyễn Đức Thống (thôn 2, xã Đăk Wer, huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đăk Nông) đã thiết kế thành công máy hái cà phê cầm tay. Chiếc máy này được cải tiến từ máy khoan tường. Ở phần hái, tác giả thiết kế thêm 2 bánh nhông bằng cốt sắt, bọc ngoài bằng nhựa dẻo và chia theo hình mũi khế. Máy có 2 loại chạy bằng pin và bằng điện. Máy chạy bằng pin (sạc 1 tiếng dùng được trong vòng 4 tiếng) có 2 pin để thay đổi. Ngoài ra, máy có trọng lượng 1,9 kg khá gọn nhẹ. Máy chạy bằng điện sẽ sử dụng điện 220V. Máy chạy bằng điện chỉ nặng có 1,4kg và thích hợp với dãy cà phê gần nhà Do thiết kế gọn nhẹ nên máy có thể hái ở cả những vị trí cành xen nhau mà không gây ồn, không rụng lá và hái sạch từ 95-98%. Máy giúp hái nhanh mà không gây mất sức cho người hái./. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [67] TRANG TIN Viện Cơ học thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam vừa chế tạo thành công “Tay máy 6 bậc tự do” - eRobot, phục vụ đào tạo và định hướng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp và đời sống. “Tay máy 6 bậc tự do” - eRo- bot là một bộ phận “chấp hành” quan trọng đáp ứng được yêu cầu cao về độ tin cậy, độ chính xác, khả năng phối hợp, khả năng tự ứng xử thông minh, đa ứng dụng, đặc biệt là khả năng đáp ứng được thời gian thực. Với bậc tự do ≥ 6, eRobot có thể chuyển động đa hướng với các “khớp” xoay trở linh hoạt, chính xác, đạt mức khéo léo, được các nhà công nghệ trong nước đánh giá cao. eRobot gồm tủ điều khiển, 6 cơ cấu chấp hành và cơ cấu thao tác cuối của robot. eRobot có tầm với lớn nhất trong bán kính 600mm (toàn hướng) với độ chính xác vị trí ± 2mm, độ chính xác lặp là ± 2mm. eRobot có thể thực hiện thao tác “nắm”, “gắp” và di chuyển đối tượng có khối lượng tới 0,5kg, thực hiện động thái hàn điểm như người thợ theo thời gian thực. Phần mềm điều khiển eRobot được các nhà khoa học Viện Cơ học viết bằng ngôn ngữ Visual C++, có giao diện thân thiện với người sử dụng, tích hợp công nghệ đồ họa 3D OpenGL. Hệ thống được kết nối với các bộ điều khiển qua cổng COM theo chuẩn RS232. Các nhà khoa học đã sử dụng và phát triển các thuật toán điều khiển, động học, động lực học, xử lý tín hiệu, truyền thông có tốc độ xử lý cao và tin cậy (tất cả đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm). Qua nhiều thực nghiệm, eRobot đã khẳng định tính linh hoạt trong vận hành, động tác tinh vi, nhanh và chuẩn xác. Nhờ vậy bên cạnh ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp, đào tạo, eRobot còn mở rộng tính năng kết nối từ xa và còn có tác dụng lớn khi phát triển các robot trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng phi tuyền thống như: Tìm kiếm cứu nạn, trinh sát nơi khắc nghiệt như ô nhiễm hóa chất, phóng xạ, cấp cứu thảm họa, rà phá bom mìn./. ROBOT 6 BậC CủA VIỆT NAM THựC PHẩM CHứC NăNG TỪ TẢO SUốI Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học vừa nghiên cứu và sản xuất thành công viên thực phẩm chức năng bào chế dưới dạng viên nang từ một loại tảo lục sợi dài có tên địa phương là “Tò cày”. Thực phẩm chức năng mà Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học nghiên cứu chế biến được bổ sung một số thành phần có lợi hoặc loại bớt một số thành phần bất lợi. Lô thực phẩm chức năng đầu tiên được chế biến dưới dạng viên nén gần 5.000 viên có thành phần chính là tảo lục ở Cao Bằng, do Trung tâm Kiểm nghiệm nghiên cứu Dược Quân đội bào chế, đang được thử nghiệm tại Học viện Quân y với nhiều tín hiệu khả quan. Theo kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học của “Tò cày” - tảo lục Cao Bằng - của Trung tâm Kiểm nghiệm nghiên cứu Dược Quân đội, đạm chiếm từ 35- 40%, trong đó có 14 loại axit amin là Acid Glutamic, Serin, Alanin, Arginin, Tyrosin, Tryptophan, Threonin, Histidin, Valin, Lysin, Methionin, Isoleucin, Phenylalanin và Leucin và đặc biệt có 8 loại axit amin không thay thế là Threonin, Histidin, Valin, Lysin, Methionin, Isoleucin, Phenylalanin và Leucin có trong mẫu tảo chiếm 21,43% trọng lượng khô. Về nguyên tố vi lượng có mặt 12 nguyên tố, trong đó quan trọng là nguyên tố Mangan (Mn), sắt (Fe), kẽm (Zn), selen (Se). Hàm lượng Gluxit trung bình là 13,74%. Lipid là 5,68%. Trong thành phần tảo có các vitamin A,D, E, C, B1, B2, B6, PP và có mặt của sắc tố chlorophyll./. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [68] TRANG TIN TIN KH&CN THế GIỚI Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã thành công trong việc phát triển các màng graphen ít lớp và màng oxit graphen có thể hấp thu một cách có chọn lọc các bon điôxit - một trong những nguyên nhân chính của nóng lên toàn cầu. Vật liệu được sử dụng để hấp thụ và thu giữ các bon được coi là một trong những giải pháp thực tế nhất để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Loại màng graphen này có thể làm giảm mạnh chi phí thu các bon điôxit. Bằng việc sử dụng "phương pháp màng graphen", một trong nhiều kỹ thuật thu giữ các bon. Họ đã chứng minh rằng bằng cách điều chỉnh độ dày của graphen và màng oxit graphen và sắp xếp lại chúng theo lớp, họ đã có thể tách được khí CO2. Như trái ngược với các loại màng hiện tại được làm từ các phân tử "dày", các nhà nghiên cứu đã có thể làm giảm độ dày của màng đến MÀNG GRAPHeN đỂ NGăN CHặN Sự NÓNG LêN TOÀN CẦU dưới 1% so với các màng hiện có, hay 5 nano mét hoặc mỏng hơn. Điều này làm tăng 1000 lần khả năng loại trừ CO2 so với các màng được làm từ các phân tử "dày"./. Sử dỤNG CẢM BIếN NHỏ TRONG đIỆN THOẠI THÔNG MINH đỂ THIếT LậP MẠNG LƯỚI địA CHấN đÔ THị Theo một nghiên cứu mới của các nhà khoa học Italia đăng trên Bản tin của Hội địa chấn Hoa Kỳ số ra tháng 10/2013, chíp nhỏ gắn trong điện thoại thông minh để điều chỉnh hướng của màn hình có thể được sử dụng để lập mạng lưới địa chấn đô thị ngay tức thì, dễ dàng làm tăng khối lượng dữ liệu về chuyển động mạnh được thu thập trong một trận động đất lớn. Gia tốc hệ thống vi cơ điện tử (MEMS) đo tốc độ chuyển động của mặt đất và độ rung của ô tô, các tòa nhà và những hệ thống khác. Những năm 1990, gia tốc MEMS đã cách mạng hóa ngành công nghiệp túi khí ô tô và được tìm ứng dụng trong nhiều thiết bị thường nhật gồm điện thoại thông minh, trò chơi điện tử và máy tính xách tay. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm gia tốc MEMS giá rẻ có khả năng phát hiện chính xác và đáng tin cậy chuyển động của mặt đất do động đất gây ra hay không. Gia tốc LIS331DLH MEMS đã được lắp đặt vào điện thoại iPhone và so sánh với gia tốc cân bằng lực EpiSensor ES-T cảm biến động đất do hãng Kinemetrics sản xuất. Kết quả thí nghiệm cho thấy gia tốc MEMS có thể phát hiện các trận động đất cường độ vừa đến mạnh (cường độ lớn hơn 5 độ Richter) khi đặt gần tiêu điểm. Các tác giả nghiên cứu nhấn mạnh công nghệ đang phát triển nhanh và không lâu nữa sẽ có các cảm biến MEMS nhạy với các trận động đất cường độ dưới 5 độ Richter. Lợi thế thực sự là việc sử dụng rộng rãi điện thoại di động và máy tính xách tay ứng dụng công nghệ MEMS, có thể làm tăng độ tin cậy khi những trận động đất mạnh xảy ra. Các cảm biến MEMS hiện có thể được sử dụng để thiết lập mạng lưới địa chấn đô thị truyền dữ liệu về chuyển động của mặt đất tức thì đến vị trí trung tâm để đánh giá. Khối lượng lớn dữ liệu có thể giúp xác định phạm vi thiệt hại lớn để phân bổ nguồn lực ứng cứu hiệu quả hơn./. Thông tin KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [69] TRANG TIN Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Đài Loan và Trung tâm Nghiên cứu khoa học ứng dụng Đài Loan (Trung Quốc) đã sử dụng diện tích bề mặt lớn của các đĩa quang làm nền để phát triển các thanh nano kẽm oxit kích cỡ khoảng một phần nghìn của sợi tóc. Kẽm oxit là chất bán dẫn rẻ tiền hoạt động như chất xúc tác quang học, tách các phân tử hữu cơ như các chất xử LÝ NƯỚC THẢI BằNG đĩA Cd QUAy SẢN xUấT NăNG LƯợNG SẠCH TỪ NƯỚC THẢI Ô NHIễM Các nhà khoa học Hoa Kỳ vừa tìm ra một phương pháp mới để sản xuất năng lượng sạch từ nước thải ô nhiễm. Các kỹ sư hy vọng, nghiên cứu của họ sẽ được áp dụng trong các cơ sở xử lý nước thải và giúp phân hủy các chất hữu cơ ô nhiễm trong các vùng chết của đại dương và hồ, nơi mà phân và rác thải làm cạn kiệt nguồn ôxy và giết chết sinh vật sống trong môi trường đó. Các nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc chế tạo một loại pin D-cell với hai điện cực nối vào một chai nước thải chứa đầy vi khuẩn. Đây là một phương pháp hữu hiệu khi khai thác nước thải để sản xuất điện năng. Khi vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ, chúng sẽ tập trung xung quanh điện cực âm và làm phát sinh ra điện tử sẽ bị hút về phía điện cực dương. Có thể khai thác khoảng 30% năng lượng tiềm năng trong nước thải, tương đương với tỉ lệ của các tấm pin mặt trời thương mại. Một lợi ích bất ngờ khi khai thác điện năng từ vi khuẩn sống trong nước thải là quá trình sản sinh năng lượng cũng là quá trình vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ gây ô nhiễm, do đó cũng sẽ làm sạch nguồn nước thải này./. ô nhiễm trong nước thải, khi chiếu ánh sáng cực tím vào. Đây là nhóm nghiên cứu đầu tiên phát triển chất xúc tác quang học trên một đĩa quang. Vì đĩa quang bền và có khả năng quay nhanh, nên nước ô nhiễm nhỏ giọt vào thiết bị, rồi chảy ra một màng mỏng ánh sáng có thể dễ dàng xuyên qua, đẩy mạnh quá trình phân hủy. Ngoài đĩa quang phủ kẽm oxit, thiết bị bao gồm một nguồn ánh sáng cực tím và một hệ thống tái tuần hoàn nước để phân hủy hơn nữa các chất ô nhiễm. Các nhà khoa học đã thử nghiệm thiết bị bằng dung dịch thuốc nhuộm metyl vàng, một hợp chất hữu cơ mẫu thường được sử dụng để đánh giá tốc độ của các phản ứng xúc tác quang học. Sau khi xử lý nửa lít dung dịch thuốc nhuộm trong vòng 60 phút, họ đã phát hiện thấy hơn 95% chất ô nhiễm đã được phân hủy. Thiết bị có thể xử lý 150 ml nước thải/phút. Thiết bị mới tiêu thụ ít điện năng và xử lý nước ô nhiễm hiệu quả hơn các phương pháp khác xử lý nước thải bằng xúc tác quang học. Thiết bị có thể được sử dụng trên quy mô nhỏ để xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải đô thị, các dòng thải công nghiệp và chất thải từ trang trại./. HỘP THƯ TÒA SOẠN Trong tháng 9-10/2013, Tòa soạn Thông tin KH&CN Nghệ An đã nhận được tin, bài, ảnh của các Vị: Nguyễn Thị Bình, Hoan Châu, Huy Cường, Lê Đình Định, Phan Văn Hòa, Lê Đức Hoàng, Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Tuấn Lộc, Vũ Xuân Nam, Ngô Thị Ngân, Trương Quế Phương, Trần Minh Siêu, Lương Sơn, Bùi Minh Thuận, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thái Tuấn, Bùi Thị Huy Tùng, Doãn Trí Tuệ, Nguyễn Phước Tương. HĐBT và Tòa soạn xin trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự cộng tác của Quý vị! Thông tin KH&CN Nghệ An Nguồn: Khoa học phổ thông, Báo Xây dựng, Tạp chí Hoạt động khoa học, Báo Đất Việt, NASATI Tổng hợp tin: Trần Hoa, Huyền Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfpho_bien_khoa_hoc_ky_thuat_benh_rung_la_hai_cao_su_va_bien_p.pdf
Tài liệu liên quan