SẢN xUấT NăNG LƯợNG SẠCH TỪ NƯỚC THẢI Ô NHIễM
Các nhà khoa học Hoa Kỳ vừa tìm ra một
phương pháp mới để sản xuất năng lượng sạch
từ nước thải ô nhiễm. Các kỹ sư hy vọng,
nghiên cứu của họ sẽ được áp dụng trong các
cơ sở xử lý nước thải và giúp phân hủy các chất
hữu cơ ô nhiễm trong các vùng chết của đại
dương và hồ, nơi mà phân và rác thải làm cạn
kiệt nguồn ôxy và giết chết sinh vật sống trong
môi trường đó.
Các nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc chế tạo
một loại pin D-cell với hai điện cực nối vào một
chai nước thải chứa đầy vi khuẩn. Đây là một
phương pháp hữu hiệu khi khai thác nước thải để sản
xuất điện năng. Khi vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ,
chúng sẽ tập trung xung quanh điện cực âm và làm
phát sinh ra điện tử sẽ bị hút về phía điện cực dương.
Có thể khai thác khoảng 30% năng lượng tiềm năng
trong nước thải, tương đương với tỉ lệ của các tấm
pin mặt trời thương mại.
Một lợi ích bất ngờ khi khai thác điện năng từ vi
khuẩn sống trong nước thải là quá trình sản sinh
năng lượng cũng là quá trình vi khuẩn tiêu thụ chất
hữu cơ gây ô nhiễm, do đó cũng sẽ làm sạch nguồn
nước thải này./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phổ biến khoa học kỹ thuật bệnh rụng lá hại cao su và biện pháp phòng trừ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [62]
TRANG TIN
Bệnh được phát hiện lần đầu
tiên trên cây cao su tại Việt Nam
vào tháng 8/1999, gây hại nặng
cho các DVT RRIC 103, RRIC
104 và LH 88/372, Năm 2009,
dịch bệnh xuất hiện gây hại nặng
cho gần 3.000ha cao su tại Quảng
Nam và Sa Thầy. Năm 2010, bệnh
đã phát sinh trên diện rộng ở một
số tỉnh miền Đông Nam bộ, Tây
Nguyên và miền Trung, tập trung
trên dòng vô tính cao su RRIV 4,
hiện chiếm diện tích đã trồng khá
lớn ở cả vùng cao su đại điền và
tiểu điền.
Tháng 9/2010, Viện Nghiên
cứu Cao su đã phối hợp với Cục
Bảo vệ thực vật xây dựng “Quy
trình kỹ thuật tạm thời phòng trừ
bệnh rụng lá Corynepora trên cây
cao su do nấm Corynespora cas-
siicola gây ra” và đã được Cục
Bảo vệ thực vật ban hành ngày
23/09/2011 (số 1630/BVTV-CV).
Bài báo này trình bày phương
pháp phòng trị bệnh rụng lá
Corynespora dựa trên quy trình đã
được ban hành và những kết quả
triển khai thành công của Viện
Nghiên cứu Cao su Việt Nam.
1. Triệu chứng bệnh
Trong thời gian vừa qua, các
phương tiện thông tin đại chúng
thường gọi bệnh này là bệnh
“vàng lá rụng lá” vì lá bị nhiễm
bệnh sẽ vàng và rụng đi. Tuy
nhiên, cách gọi như vậy dễ gây
nhầm lẫn. Đề nghị gọi chính xác
tên là “Bệnh rụng lá Corynes-
pora”. Hiện tượng vàng lá rụng lá
trên cây cao su có thể do nhiều
nguyên nhân: cây bị bệnh khác,
thiếu hoặc mất cân bằng dinh
dưỡng, cháy nắng, khô hạn, úng
nước, vàng rụng lá sinh lý, đôi khi
do thời tiết, lá vàng và rụng nhiều
hơn bình thường. Cần xác định
đúng nguyên nhân để có biện
pháp xử lý thích hợp. Tránh
trường hợp áp dụng các biện pháp
không phù hợp, không theo
khuyến cáo mà theo truyền miệng,
tốn kém, không hiệu quả, triệu
chứng không giảm. Riêng đối với
trường hợp bệnh rụng lá Corynes-
pora, có thể nhận biết thông qua
các triệu chứng được mô tả dưới
đây, kết hợp với một số hiện tượng
trên vườn cây: lá vàng không chỉ
ở tầng dưới mà còn ở tầng giữa và
tầng trên. Nhìn từ dưới lên có thể
thấy lá bệnh bị vàng lốm đốm,
không vàng đều như vàng lá sinh
lý. Các lá non trên ngọn, không
phẳng mà bị xoăn lại, biến dạng.
Một số chồi lá bị rụng trơ chìa. Lá
rụng trên vườn có cả lá già lẫn lá
non kết hợp với những vết bệnh
trên lá.
Triệu chứng tùy thuộc vào vị
trí bị hại như: lá, cuống lá và chồi.
Triệu chứng trên lá dễ nhận diện
nhất, nhưng có sự thay đổi lớn
trong thời gian gần đây. Sự xuất
hiện của các triệu chứng bệnh tùy
thuộc vào tính mẫn cảm của DVT,
điều kiện thời tiết.
Trên lá: Trên lá non vết bệnh
có hình tròn màu xám đến nâu với
vòng màu vàng bao xung quanh,
tại trung tâm vết bệnh đôi khi hình
thành lỗ, lá bị hại xoăn lại biến
dạng sau đó rụng toàn bộ. Những
lá đã chuyển màu xanh, triệu
chứng đặc trưng với vết bệnh màu
vàng sau chuyển màu đen, đường
kính khoảng 1-3mm, phân bố
PHỔ BIẾN KHOA HỌC KỸ THUẬT
BỆNH RỤNG LÁ HẠI CAO SU VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Bệnh rụng lá Corynespora trên cây cao su do nấm Corynespora cassiicola (Berk. & Curt.)
Wei gây ra. Bệnh xuất hiện lần đầu tiên trên cây cao su tại Sierra Leone (1936), tiếp theo xuất
hiện lần lượt tại hầu hết các nước trồng cao su trên thế giới. Ban đầu được xem là bệnh gây hại
không đáng kể ở vườn nhân và chỉ xuất hiện trên một vài dòng vô tính (DVT) cao su. Càng ngày
bệnh này càng trở nên nghiêm trọng và trở thành đại dịch ở nhiều quốc gia. Bệnh có thể phát
sinh, phát triển quanh năm và gây hại mọi giai đoạn sinh trưởng của cây cao su, nhất là các
DVT cao su mẫn cảm. Do khả năng tiết ra độc chất và gây rụng lá hàng loạt, bệnh ảnh hưởng
rất lớn đến sinh trưởng, sản lượng cao su, gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho ngành trồng cao su
ở nhiều nước. Do vậy, bệnh rụng lá Corynespora được coi là loại bệnh nguy hiểm nhất của cây
cao su khu vực châu Á và Phi.
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [63]
TRANG TIN
dạng xương cá dọc theo gân lá.
Nếu gặp điều kiện thuận lợi, các
vết lan rộng gây chết từng phần lá
do sự phá hủy của diệp lục, sau đó
toàn bộ lá đổi màu vàng - vàng
cam và rụng từng lá một. Trên lá
già, một số vết bệnh xuất hiện vết
thủng.
Trên chồi và cuống lá: Các
chồi xanh dễ nhiễm, đôi khi nấm
bệnh cũng gây hại chồi đã hóa
nâu. Dấu hiệu đầu tiên với vết nứt
dọc theo cuống và chồi có dạng
hình thoi, có mủ rỉ ra sau đó hóa
đen, vết bệnh có thể phát triển dài
đến 20cm gây chết chồi, đôi khi
chết cả cây. Nếu dùng dao cắt bỏ
lớp vỏ ngoài sẽ xuất hiện những
sọc đen ăn sâu trên gỗ, chạy dọc
theo vết bệnh. Trên cuống lá với
vết nứt màu đen có chiều dài 0,5-
3,0mm. Nếu cuống lá bị hại, toàn
bộ lá chét bị rụng khi còn xanh dù
không có một triệu chứng nào
xuất hiện trên phiến lá (do nấm
bệnh tiết độc tố).
2. Đặc điểm phát sinh, phát
triển và tác hại
Nấm có khả năng tồn tại và
phát triển trong phạm vi nhiệt độ
lớn. Nhiệt độ và ẩm độ cao là
thích hợp nhất cho nấm (28 ± 20C,
ẩm độ bão hòa).
Bào tử có khả năng tồn tại trên
các vết bệnh hoặc trong đất với
thời gian dài, trên lá cao su khô
nấm vẫn tồn tại và giữ nguyên khả
năng gây bệnh đến 3 tháng. Lá
bệnh và cây con bị nhiễm bệnh từ
vườn ươm là nguồn nấm bệnh chủ
yếu.
Bào tử phóng thích vào ban
ngày và cao điểm từ 8-11 giờ. Sau
thời gian mưa nhiều và tiếp theo
nắng ráo, số lượng bào tử phóng
thích nhiều nhất.
Bệnh có thể phát sinh quanh
năm, đặc biệt cao điểm trong giai
đoạn chuyển từ mùa nắng sang
mùa mưa (tháng 5-6) khi có
những cơn mưa đầu mùa tạo ẩm
độ cao tiếp theo sau là những
ngày nắng nóng và khi thời tiết
chuyển từ mưa sang nắng hạn là
điều kiện rất thuận lợi cho bào tử
phát sinh và phát tán khiến bệnh
bùng phát.
Nấm có khả năng gây hại cho
cả lá già và non cũng như cuống
lá và chồi. Hơn nữa, do phát sinh
quanh năm và nấm có thể tấn
công gây hại trên tất cả các giai
đoạn sinh trưởng của cây cao su
từ vườn ương, nhân đến vườn cây
kiến thiết cơ bản và cả vườn cây
khai thác ở mọi lứa tuổi nên bệnh
có tác hại lớn, nhất là các DVT
cao su mẫn cảm như RRIV 4.
Vườn cây kiến thiết cơ bản bị
nhiễm bệnh sẽ giảm sinh trưởng
dẫn đến phải kéo dài thời gian
kiến thiết cơ bản. Vườn cây khai
thác bị nhiễm bệnh, sản lượng bị
sụt giảm có thể đạt đến trên 30%.
3. Biện pháp phòng trừ
Do nấm bệnh gây hại quanh
năm và trong suốt giai đoạn sinh
trưởng từ vườn ươm đến vườn
khai thác, nên quản lý bệnh rụng
lá cây cao su cần phải thực hiện
biện pháp quản lý mang tính tổng
hợp.
* Phòng bệnh
Về lâu dài:
- Chọn và trồng các DVT cao
su kháng hoặc chống chịu bệnh có
vai trò chính. Không nhân giống
và trồng các DVT mẫn cảm như:
RRIC 103, RRIC 104, KRS 21,
RRIM 725, RRIM 600, Fx 25,
IAN 873, PPN 2058, PPN 2444,
PPN 2447, RRIV 2, RRIV 3 và
RRIV 4.
- Xác định tỷ lệ, cơ cấu giống
cao su trồng phù hợp với điều kiện
địa phương trong tình hình bệnh
đang phát sinh và gây hại để có
thể vừa làm tốt công tác quản lý
bệnh và đảm bảo sản xuất phát
triển.
- Không độc canh một DVT
trên diện tích lớn.
- Không sử dụng cây con
không có nguồn gốc và lẫn tạp
giống.
- Xử lý sạch bệnh trên cây con
trước khi đưa ra trồng.
Trước mắt:
Triệu chứng bệnh trên lá, cuống lá, chồi
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [64]
TRANG TIN
- Những vườn cao su dưới 2
năm tuổi đã trồng bằng các DVT
nhiễm bệnh, thực hiện ghép chồng
đổi giống hoặc ghép tán bằng
DVT cao su kháng bệnh hoặc
chống chịu bệnh. Những vườn đã
trồng bằng DVT cao su nhiễm
bệnh trên 2 năm tuổi, vẫn duy trì
nhưng cần thường xuyên theo dõi,
phát hiện sớm các triệu chứng
bệnh phát sinh, phun kịp thời bằng
thuốc trừ bệnh với các thiết bị
phun phù hợp.
- Trong điều kiện bệnh có thể
phát sinh phát triển mạnh và cây
cao su có tỷ lệ từ khoảng 10% số
lá bị nhiễm bệnh trở lên, cần phải
thực hiện một số biện pháp sau:
* Phun trị bệnh:
Thuốc trừ nấm bệnh: Dùng
các loại thuốc trừ nấm bệnh có
gốc hexaconazole (Anvil 5SC,
Hexin 5SC, Saizole 5SC, Vivil
5SC, Centervin 5 SC, Indiavin 5
SC, carbendazim (Vicarben
50SC, Carbenzim 500FL, Car-
benvil 50SC, Carban 50 SC, Ben-
zimidin 50SC) hoặc các loại
thuốc phối trộn sẵn gốc carben-
dazim và hexaconazole (Vixazol
275SC, Arivit 250SC, Calivil
55SC).
Công thức: Áp dụng 1 trong
những công thức: (1) hexacona-
zole (5% a.i) nồng độ 0,2 - 0,3%;
(2) Hôñ hơp̣ carbendazim (50%
a.i) 0,1-0,15% + hexaconazole
(5% a.i) 0,1-0,15% (phối trộn theo
tỷ lệ 1:1); (3) Thuốc phối trộn sẵn
gốc carbendazim va ̀ gốc hexa-
conazole nôǹg đô ̣ tùy vào hàm
lượng thuốc gốc (0,2-0,3%). Pha
phối hợp với chất bám dính
BDNH 2000 nồng độ 0,2% (vườn
ương, nhân, vườn năm 1), 0,3%
(vườn năm 2-4), 0,5% (vườn năm
5 trở đi).
Thiết bị phun: Đối với vườn
ương, nhân, vườn kiến thiết cơ
bản chưa khép tán, có chiều cao
tán lá thấp, dùng bình phun đeo
vai dung tích 8 lít hoặc 16 lít. Đối
với vườn đã khép tán, có chiều cao
tán lá trên 4m, dùng máy bơm
phun cao áp với công suất đủ phun
thuốc tới ngọn, máy phun chuyên
dụng Jactor.
Cách xử lý: Đối với vườn
ươm, nhân, phun ướt toàn bộ lá,
chồi non, lưu ý phun mặt dưới lá.
Đối với vườn sản xuất, phun ướt
toàn bộ tán lá, chồi non, lưu ý
phun mặt dưới lá và phun tới
ngọn. Phun vào buổi sáng sớm và
ngưng khi trời bắt đầu nắng gắt
(10h-10h30), nếu phun quá trưa,
thuốc dễ bị phân hủy và cây có thể
bị sốc thuốc. Không nên phun vào
buổi chiều, mưa chiều sẽ làm trôi
thuốc. Lượng nước phun cho 1ha:
600-800 lít; máy phun Jactor 250-
400 lít. Chu kỳ phun 3 đợt cách
nhau 7-10 ngày.
* Các biện pháp canh tác bổ
sung
- Vườn cây đang khai thác phải
ngừng khai thác nếu bệnh nặng
hoặc chuyển sang nhịp độ cạo d3
không được cạo d2, không bôi
chất kích thích.
- Tăng cường chăm sóc bón
phân đầy đủ, hợp lý để cây sinh
trưởng phát triển khỏe. Bón tăng
lượng phân kali lên so với quy
trình khoảng 25% để cây tăng sức
chống chịu sự xâm nhiễm gây hại
của nấm bệnh.
- Vệ sinh toàn bộ vườn cao su
đã bị bệnh, thu gom các lá, cuống
lá, cành, chồi non bị bệnh đã rụng
dưới đất để tiêu hủy nhằm làm
giảm nguồn nấm bệnh lưu chuyển
trên đồng ruộng.
- Thường xuyên kiểm tra vườn
cây, đặc biệt ở thời điểm chuyển
mùa nắng sang mùa mưa (tháng 5-
6) và khi thời tiết chuyển từ mưa
sang nắng hạn, vì đây là điều kiện
thuận lợi để bệnh bùng phát trở
lại./.
Nguyễn Tuấn Lộc
Trung tâm BVTV Vùng Khu 4
NHÓM CÔN TRÙNG KÝ SINH
LÀM GIẢM QUẦN THỂ SÂU HẠI LÚA
Trong tự nhiên có những cân
bằng sinh học thật kỳ diệu, cân
bằng giữa thiên địch và sâu hại lúa
là một ví dụ. Trong hệ sinh thái
ruộng lúa, bên cạnh những côn
trùng có hại, còn có nhiều loài côn
trùng, nhện có ích. Chúng thường
hạn chế được các loài côn trùng có
hại, đặc biệt là những nơi tránh
dùng thuốc bảo vệ thực vật rộng
rãi. Nếu không có các loài có ích
thì các côn trùng có hại sẽ phát
triển nhanh đến mức có thể ăn trụi
cây lúa và phát triển thành dịch.
Nhóm côn trùng ký sinh là một
trong những nhóm côn trùng có
ích, nhỏ bé, tự nhiên sẵn có trên
ruộng lúa, đóng vai trò rất quan
trọng trong quá trình kìm hãm
quần thể sâu hại, hạn chế bộc
phát dịch. Có trên 100 loài ký
sinh tấn công các sâu hại trên
ruộng lúa, tuy nhiên từng loài côn
trùng nhỏ bé này có tính ký sinh
rất chuyên biệt và thường chỉ tấn
công một vài loài ký chủ. Ví dụ,
những ký sinh của bọ rầy không
tấn công bất kì giai đoạn nào của
các sâu hại khác. Ngay trong ký
sinh của rầy, có loài chỉ tấn công
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [65]
TRANG TIN
trứng rầy hoặc chỉ tấn công rầy
non, hoặc có loài chỉ tấn công rầy
xanh mà không tấn công rầy nâu.
Nhiều loài ký sinh chỉ thích ký
sinh một pha nhất định của sâu
hại như: pha trứng, pha sâu non,
pha nhộng, pha trưởng thành.
Nhưng cũng có loài ký sinh tất cả
các pha sinh trưởng của côn
trùng, thích ký sinh một loài ký
chủ hoặc có thể ký sinh trên
nhiều loài côn trùng thuộc cùng
nhóm.
Cơ bản về vòng đời của ký
sinh: Ký sinh thuộc về nhóm côn
trùng có 4 giai đoạn sinh trưởng
đó là: trứng, sâu non, nhộng và
trưởng thành. Chẳng hạn, ong ký
sinh thuộc bộ cánh màng Hy-
menoptera, nếu 1 con cái không
giao phối thì chỉ đẻ ra những quả
trứng nở thành con đực. Nếu
được giao phối, con cái sẽ sinh ra
cả đực lẫn cái, thường con cái
nhiều hơn. Chỉ có con cái có khả
năng ký sinh các côn trùng khác,
con đực chỉ có ích cho việc giao
phối. Nhóm ong ký sinh đẻ trứng
từng quả hoặc từng cụm lên trên
các pha của sâu, có thể trên thân,
bên trong hoặc cạnh ký chủ. Khi
trứng ký sinh nở và sâu non ký
sinh phát triển thì ký chủ ngừng
ăn rồi chết, nhóm ký sinh có thể
tìm thấy ký chủ của chúng kể cả
khi ký chủ có mật độ thấp.
Sau đây là một số loài côn
trùng ký sinh tự nhiên chính sẵn
có trên ruộng lúa, ký sinh một số
nhóm sâu hại phổ biến như sau:
1. Nhóm ong chính ký sinh
trứng, sâu non và nhộng sâu
đục thân lúa
- Ong ký sinh trứng: Ong đen
Telenomus rowani Gahan; ong
xanh Tetrastichus schoenobii
Ferriere; ong cự khoang Amauro-
morpha accepta Ashmead; ong
cự Itoplectis narangae Ashmead.
- Ong ký sinh sâu non: Ong ký
sinh hình đèn lồng Charops
brachypterum Gupta; ong kén
nhỏ Stenobracon nicevillei Bing-
ham, Phanerotoma sp; ong cự
nâu vàng Telemucha philippinen-
sis Ashmead.
- Ong ký sinh nhộng: Ong
vàng Xanthopimpla flavolineata
Cameron.
2. Nhóm ong chính ký sinh
trứng, sâu non và nhộng sâu
cuốn lá lúa
- Ong ký sinh trứng: Ong mắt
đỏ Trichogramma sp; ong đa phôi
Copidosomopsis nacoleiae Eady.
Chúng thuộc bộ cánh màng Hy-
menoptera.
- Ong ký sinh sâu non: Ong cự
Itoplectis narangae Ashmead,
Trichomma enaphalocrosis
Uchida; ong ký sinh hình đèn
lồng Charops brachypterum
Gupt; ong cự nâu vàng Tele-
mucha philippinensis Ashmead;
ong đen kén trắng lập thể Cote-
sia.
- Ong ký sinh nhộng: Ong đen
đùi to Brachymeria lasus Walker.
3. Nhóm côn trùng chính ký
sinh trứng rầy và rầy non, rầy
trưởng thành trên lúa
- Ong ký sinh trứng rầy: Ana-
grus optabilis Perkins, Anagrus
flaveolus Waterhouse; họ ong
mắt đỏ Oligosita naias Girault,
Oligosita aesopi Girault; ong Go-
natocerus spp.
- Ký sinh rầy non và rầy
trưởng thành:
+ Ong kiến ký sinh rầy: Hap-
logonatopus apicalis Perkins,
Pseudogonatopus nudus Perkins.
Nhóm này tấn công bọ rầy xanh
và rầy nâu.
+ Ruồi đầu to ký sinh rầy
xanh: Tomosvaryella spp, Pipun-
cules spp. Ruồi đầu to đậu lên
lưng rầy và đẻ trứng vào bụng rầy
và phát triển trong cơ thể ký chủ.
Ruồi ký sinh 2-3 con rầy mỗi
ngày.
+ Bọ cánh cuốn ký sinh rầy:
Halictophagus spectrus Yang, ký
sinh và sống bên trong cơ thể ký
chủ.
Những ký sinh trên rầy, sâu
đục thân, sâu cuốn lá là những
nhóm côn trùng có lợi luôn tồn
tại trên đồng ruộng ngoài tự
nhiên góp phần làm giảm quần
thể sâu hại và được xem là bạn
đồng hành của nhà nông, giúp
nhà nông phòng trừ sâu hại miễn
phí, bảo vệ cây trồng, đảm bảo
cân bằng sinh thái. Tuy nhiên,
những loài ký sinh này có kích
thước nhỏ bé, rất mẫn cảm với
thuốc trừ sâu. Do vậy, để duy trì
và phát triển nhóm thiên địch này,
không nên sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật trong 40 ngày đầu sau
khi gieo, cấy; chỉ phun thuốc khi
thật sự cần thiết và theo nguyên
tắc 4 đúng./.
Nguyễn Huy Khánh
Trung tâm BVTV Vùng Khu 4
Tài liệu tham khảo
1. Cục Bảo vệ thực vật (1995), Quản lý dịch hại tổng hợp một giải pháp sinh thái, NXB Nông nghiệp.
2. Huy Phan Táo, Hà Minh Trung (1989), Các côn trùng, nhện và nguồn bệnh có ích, NXB Nông nghiệp.
3. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2004), Giáo trình Côn trùng nông nghiệp.
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [66]
TRANG TIN
TIN KH&CN TRONG NƯỚC
MÁy HÁI CÀ PHê CẦM TAy
Các nhà khoa học của Viện
Hóa học, Viện Hàn lâm KH&CN
Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo
vật liệu sử dụng trong lĩnh vực bảo
quản hoa quả (vải, nhãn, mận,
cam, dưa hấu). Đây là đề tài
nghiên cứu KH&CN cấp nhà nước
trong giai đoạn 2006-2010 và hiện
nay đã phát triển thành dự án sản
xuất thử nghiệm thuộc Chương
trình KC.02/11-15 “Nghiên cứu
ứng dụng và phát triển công nghệ
vật liệu mới”.
Ban đầu, đề tài đã đặt ra 3 mục
tiêu nghiên cứu chính là tạo ra vật
liệu bảo quản dạng dung dịch,
dạng nhũ tương và màng bao gói
khí quyển biến đổi (MAP) để bảo
quản hoa quả. Tuy nhiên, sau kết
quả nghiên cứu, xét về mặt kinh tế,
chỉ có sản phẩm màng bao gói khí
quyển MAP mới đáp ứng được
thực tế. Vì vậy, trong dự
án sản xuất thử nghiệm
KC.02.DA 07/11-15,
các nhà khoa học tiếp
tục tập trung nghiên cứu,
sản xuất màng MAP bảo
quản không chỉ hoa quả
mà còn sử dụng rộng rãi
trong bảo quản thực
phẩm với giá thành cạnh
tranh. Bình thường,
không có màng MAP, ở
nhiệt độ thấp 4-5oC, hoa quả chỉ
bảo quản được khoảng 2-3 tuần.
Nhưng nếu dùng màng MAP bao
bọc bên ngoài, có thể bảo quản
trong 7-8 tuần. Nhờ vậy, người
nông dân có thể vận chuyển đi xa
mà không bị hỏng. Hoặc các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản,
có thể cho hàng hóa vào kho đông
lạnh, bọc trong màng MAP là có
thể bảo quản được lâu hơn.
Hiện nay, sản phẩm của dự án
đã được thương mại hóa ra thị
trường trong nước, đồng thời, với
mục tiêu xuất khẩu trong thời gian
tới, dự án đã mạnh dạn đầu tư
nghiên cứu hoàn thiện công nghệ,
sản xuất với quy mô công nghiệp
cạnh tranh với các sản phẩm cùng
loại trên thị trường Việt Nam và
khu vực./.
CHế TẠO THÀNH CÔNG MÀNG BẢO QUẢN THựC PHẩM LÂU NGÀy
Ông Nguyễn Đức Thống (thôn 2, xã Đăk Wer, huyện
Đăk R’lấp, tỉnh Đăk Nông) đã thiết kế thành công máy
hái cà phê cầm tay. Chiếc máy này được cải tiến từ máy
khoan tường. Ở phần hái, tác giả thiết kế thêm 2 bánh
nhông bằng cốt sắt, bọc ngoài bằng nhựa dẻo và chia theo
hình mũi khế.
Máy có 2 loại chạy bằng pin và bằng điện. Máy chạy
bằng pin (sạc 1 tiếng dùng được trong vòng 4 tiếng) có 2
pin để thay đổi. Ngoài ra, máy có trọng lượng 1,9 kg khá
gọn nhẹ. Máy chạy bằng điện sẽ sử dụng điện 220V. Máy
chạy bằng điện chỉ nặng có 1,4kg và thích hợp với dãy cà
phê gần nhà Do thiết kế gọn nhẹ nên máy có thể hái ở
cả những vị trí cành xen nhau mà không gây ồn, không
rụng lá và hái sạch từ 95-98%. Máy giúp hái nhanh mà
không gây mất sức cho người hái./.
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [67]
TRANG TIN
Viện Cơ học thuộc Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam vừa chế
tạo thành công “Tay máy 6 bậc tự
do” - eRobot, phục vụ đào tạo và
định hướng ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực công nghiệp và đời sống.
“Tay máy 6 bậc tự do” - eRo-
bot là một bộ phận “chấp hành”
quan trọng đáp ứng được yêu cầu
cao về độ tin cậy, độ chính xác,
khả năng phối hợp, khả năng tự
ứng xử thông minh, đa ứng dụng,
đặc biệt là khả năng đáp ứng
được thời gian thực. Với bậc tự
do ≥ 6, eRobot có thể chuyển
động đa hướng với các “khớp”
xoay trở linh hoạt, chính xác, đạt
mức khéo léo, được các nhà công
nghệ trong nước đánh giá cao.
eRobot gồm tủ điều khiển, 6 cơ
cấu chấp hành và cơ cấu thao tác
cuối của robot. eRobot có tầm với
lớn nhất trong bán kính 600mm
(toàn hướng) với độ chính xác vị
trí ± 2mm, độ chính xác lặp là ±
2mm. eRobot có thể thực hiện
thao tác “nắm”, “gắp” và di
chuyển đối tượng có khối lượng
tới 0,5kg, thực hiện động thái
hàn điểm như người thợ theo
thời gian thực.
Phần mềm điều khiển eRobot
được các nhà khoa học Viện Cơ
học viết bằng ngôn ngữ Visual
C++, có giao diện thân thiện với
người sử dụng, tích hợp công
nghệ đồ họa 3D OpenGL. Hệ
thống được kết nối với các bộ
điều khiển qua cổng COM theo
chuẩn RS232. Các nhà khoa học
đã sử dụng và phát triển các thuật
toán điều khiển, động học, động
lực học, xử lý tín hiệu, truyền
thông có tốc độ xử lý cao và tin
cậy (tất cả đã được kiểm chứng
bằng thực nghiệm). Qua nhiều
thực nghiệm, eRobot đã khẳng
định tính linh hoạt trong vận
hành, động tác tinh vi, nhanh và
chuẩn xác. Nhờ vậy bên cạnh ứng
dụng rộng rãi trong công nghiệp,
đào tạo, eRobot còn mở rộng tính
năng kết nối từ xa và còn có tác
dụng lớn khi phát triển các robot
trong lĩnh vực an ninh - quốc
phòng phi tuyền thống như: Tìm
kiếm cứu nạn, trinh sát nơi khắc
nghiệt như ô nhiễm hóa chất,
phóng xạ, cấp cứu thảm họa, rà
phá bom mìn./.
ROBOT 6 BậC CủA VIỆT NAM
THựC PHẩM CHứC NăNG TỪ TẢO SUốI
Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học vừa nghiên cứu
và sản xuất thành công viên thực phẩm chức năng bào
chế dưới dạng viên nang từ một loại tảo lục sợi dài có
tên địa phương là “Tò cày”. Thực phẩm chức năng mà
Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học nghiên cứu chế biến
được bổ sung một số thành phần có lợi hoặc loại bớt một
số thành phần bất lợi. Lô thực phẩm chức năng đầu tiên
được chế biến dưới dạng viên nén gần 5.000 viên có
thành phần chính là tảo lục ở Cao Bằng, do Trung tâm
Kiểm nghiệm nghiên cứu Dược Quân đội bào chế, đang
được thử nghiệm tại Học viện Quân y với nhiều tín hiệu
khả quan.
Theo kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học của
“Tò cày” - tảo lục Cao Bằng - của Trung tâm Kiểm
nghiệm nghiên cứu Dược Quân đội, đạm chiếm từ 35-
40%, trong đó có 14 loại axit amin là Acid Glutamic,
Serin, Alanin, Arginin, Tyrosin, Tryptophan, Threonin,
Histidin, Valin, Lysin, Methionin, Isoleucin, Phenylalanin
và Leucin và đặc biệt có 8 loại axit amin không thay thế
là Threonin, Histidin, Valin, Lysin, Methionin, Isoleucin,
Phenylalanin và Leucin có trong mẫu tảo
chiếm 21,43% trọng lượng khô. Về nguyên tố
vi lượng có mặt 12 nguyên tố, trong đó quan
trọng là nguyên tố Mangan (Mn), sắt (Fe),
kẽm (Zn), selen (Se). Hàm lượng Gluxit trung
bình là 13,74%. Lipid là 5,68%. Trong thành
phần tảo có các vitamin A,D, E, C, B1, B2,
B6, PP và có mặt của sắc tố chlorophyll./.
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [68]
TRANG TIN
TIN KH&CN THế GIỚI
Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã thành công trong
việc phát triển các màng graphen ít lớp và màng oxit
graphen có thể hấp thu một cách có chọn lọc các bon
điôxit - một trong những nguyên nhân chính của nóng
lên toàn cầu. Vật liệu được sử dụng để hấp thụ và thu
giữ các bon được coi là một trong những giải pháp thực
tế nhất để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Loại màng
graphen này có thể làm giảm mạnh chi phí thu các bon
điôxit.
Bằng việc sử dụng "phương pháp màng graphen",
một trong nhiều kỹ thuật thu giữ các bon. Họ đã chứng
minh rằng bằng cách điều chỉnh độ dày của graphen và
màng oxit graphen và sắp xếp lại chúng theo lớp, họ đã
có thể tách được khí CO2. Như trái ngược với các loại
màng hiện tại được làm từ các phân tử "dày", các nhà
nghiên cứu đã có thể làm giảm độ dày của màng đến
MÀNG GRAPHeN đỂ NGăN CHặN Sự NÓNG LêN TOÀN CẦU
dưới 1% so với các màng hiện có, hay 5
nano mét hoặc mỏng hơn. Điều này làm tăng
1000 lần khả năng loại trừ CO2 so với các
màng được làm từ các phân tử "dày"./.
Sử dỤNG CẢM BIếN NHỏ TRONG đIỆN THOẠI THÔNG MINH
đỂ THIếT LậP MẠNG LƯỚI địA CHấN đÔ THị
Theo một nghiên cứu mới của
các nhà khoa học Italia đăng trên
Bản tin của Hội địa chấn Hoa Kỳ
số ra tháng 10/2013, chíp nhỏ
gắn trong điện thoại thông minh
để điều chỉnh hướng của màn
hình có thể được sử dụng để lập
mạng lưới địa chấn đô thị ngay
tức thì, dễ dàng làm tăng khối
lượng dữ liệu về chuyển động
mạnh được thu thập trong một
trận động đất lớn. Gia tốc hệ
thống vi cơ điện tử (MEMS) đo
tốc độ chuyển động của mặt đất
và độ rung của ô tô, các tòa nhà
và những hệ thống khác. Những
năm 1990, gia tốc MEMS đã
cách mạng hóa ngành công
nghiệp túi khí ô tô và được tìm
ứng dụng trong nhiều thiết bị
thường nhật gồm điện thoại
thông minh, trò chơi điện tử và
máy tính xách tay.
Các nhà nghiên cứu đã tiến
hành thử nghiệm gia tốc MEMS
giá rẻ có khả năng phát hiện
chính xác và đáng tin cậy chuyển
động của mặt đất do động đất
gây ra hay không. Gia tốc
LIS331DLH MEMS đã được lắp
đặt vào điện thoại iPhone và so
sánh với gia tốc cân bằng lực
EpiSensor ES-T cảm biến động
đất do hãng Kinemetrics sản
xuất. Kết quả thí nghiệm cho
thấy gia tốc MEMS có thể phát
hiện các trận động đất cường độ
vừa đến mạnh (cường độ lớn hơn
5 độ Richter) khi đặt gần tiêu
điểm.
Các tác giả nghiên cứu nhấn
mạnh công nghệ đang phát triển
nhanh và không lâu nữa sẽ có các
cảm biến MEMS nhạy với các
trận động đất cường độ dưới 5 độ
Richter. Lợi thế thực sự là việc
sử dụng rộng rãi điện thoại di
động và máy tính xách tay ứng
dụng công nghệ MEMS, có thể
làm tăng độ tin cậy khi những
trận động đất mạnh xảy ra. Các
cảm biến MEMS hiện có thể
được sử dụng để thiết lập mạng
lưới địa chấn đô thị truyền dữ
liệu về chuyển động của mặt đất
tức thì đến vị trí trung tâm để
đánh giá. Khối lượng lớn dữ liệu
có thể giúp xác định phạm vi
thiệt hại lớn để phân bổ nguồn
lực ứng cứu hiệu quả hơn./.
Thông tin
KH-CN Nghệ AnSỐ 10/2013 [69]
TRANG TIN
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học
Đài Loan và Trung tâm Nghiên cứu khoa học
ứng dụng Đài Loan (Trung Quốc) đã sử dụng
diện tích bề mặt lớn của các đĩa quang làm nền
để phát triển các thanh nano kẽm oxit kích cỡ
khoảng một phần nghìn của sợi tóc. Kẽm oxit là
chất bán dẫn rẻ tiền hoạt động như chất xúc tác
quang học, tách các phân tử hữu cơ như các chất
xử LÝ NƯỚC THẢI BằNG đĩA Cd QUAy
SẢN xUấT NăNG LƯợNG SẠCH TỪ NƯỚC THẢI Ô NHIễM
Các nhà khoa học Hoa Kỳ vừa tìm ra một
phương pháp mới để sản xuất năng lượng sạch
từ nước thải ô nhiễm. Các kỹ sư hy vọng,
nghiên cứu của họ sẽ được áp dụng trong các
cơ sở xử lý nước thải và giúp phân hủy các chất
hữu cơ ô nhiễm trong các vùng chết của đại
dương và hồ, nơi mà phân và rác thải làm cạn
kiệt nguồn ôxy và giết chết sinh vật sống trong
môi trường đó.
Các nhà nghiên cứu bắt đầu bằng việc chế tạo
một loại pin D-cell với hai điện cực nối vào một
chai nước thải chứa đầy vi khuẩn. Đây là một
phương pháp hữu hiệu khi khai thác nước thải để sản
xuất điện năng. Khi vi khuẩn tiêu thụ chất hữu cơ,
chúng sẽ tập trung xung quanh điện cực âm và làm
phát sinh ra điện tử sẽ bị hút về phía điện cực dương.
Có thể khai thác khoảng 30% năng lượng tiềm năng
trong nước thải, tương đương với tỉ lệ của các tấm
pin mặt trời thương mại.
Một lợi ích bất ngờ khi khai thác điện năng từ vi
khuẩn sống trong nước thải là quá trình sản sinh
năng lượng cũng là quá trình vi khuẩn tiêu thụ chất
hữu cơ gây ô nhiễm, do đó cũng sẽ làm sạch nguồn
nước thải này./.
ô nhiễm trong nước thải, khi chiếu ánh sáng cực tím vào.
Đây là nhóm nghiên cứu đầu tiên phát triển chất xúc tác
quang học trên một đĩa quang. Vì đĩa quang bền và có khả
năng quay nhanh, nên nước ô nhiễm nhỏ giọt vào thiết bị,
rồi chảy ra một màng mỏng ánh sáng có thể dễ dàng xuyên
qua, đẩy mạnh quá trình phân hủy. Ngoài đĩa quang phủ
kẽm oxit, thiết bị bao gồm một nguồn ánh sáng cực tím và
một hệ thống tái tuần hoàn nước để phân hủy hơn nữa các
chất ô nhiễm. Các nhà khoa học đã thử nghiệm thiết bị bằng
dung dịch thuốc nhuộm metyl vàng, một hợp chất hữu cơ
mẫu thường được sử dụng để đánh giá tốc độ của các phản
ứng xúc tác quang học. Sau khi xử lý nửa lít dung dịch
thuốc nhuộm trong vòng 60 phút, họ đã phát hiện thấy hơn
95% chất ô nhiễm đã được phân hủy. Thiết bị có thể xử lý
150 ml nước thải/phút.
Thiết bị mới tiêu thụ ít điện năng và xử lý nước ô nhiễm
hiệu quả hơn các phương pháp khác xử lý nước thải bằng xúc
tác quang học. Thiết bị có thể được sử dụng trên quy mô nhỏ
để xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải đô thị, các dòng thải
công nghiệp và chất thải từ trang trại./.
HỘP THƯ TÒA SOẠN
Trong tháng 9-10/2013, Tòa soạn Thông tin KH&CN Nghệ An đã nhận được tin, bài, ảnh của các
Vị: Nguyễn Thị Bình, Hoan Châu, Huy Cường, Lê Đình Định, Phan Văn Hòa, Lê Đức Hoàng, Nguyễn
Quang Hồng, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Tuấn Lộc, Vũ Xuân Nam, Ngô Thị Ngân, Trương Quế
Phương, Trần Minh Siêu, Lương Sơn, Bùi Minh Thuận, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thái Tuấn, Bùi Thị
Huy Tùng, Doãn Trí Tuệ, Nguyễn Phước Tương.
HĐBT và Tòa soạn xin trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự cộng tác của Quý vị!
Thông tin KH&CN Nghệ An
Nguồn: Khoa học phổ thông, Báo Xây dựng, Tạp chí Hoạt động khoa học, Báo Đất Việt, NASATI
Tổng hợp tin: Trần Hoa, Huyền Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
pho_bien_khoa_hoc_ky_thuat_benh_rung_la_hai_cao_su_va_bien_p.pdf