Phổ chuyển vị có vai trò quan trọng trong việc xác
định chuyển vị mục tiêu khi phân tích ứng xử của kết
cấu bằng phương pháp tĩnh phi tuyến. Ảnh hưởng
của chu kỳ góc tới phổ chuyển vị, đặc biệt là trong
vùng chu kỳ dài, đã được các nhà nghiên cứu trên thế
giới quan tâm. Các phân tích phía trên chỉ ra rằng phổ
chuyển vị theo TCVN 9386 (hay EC8), với chu kỳ góc
bằng 2s, được xem là thiên về không an toàn khi tính
toán phân tích cho công trình có chu kỳ dài.
Bài báo, thông qua ví dụ cụ thể, cũng cho thấy sự
chưa thích hợp trong việc áp dụng phổ chuyển vị theo
TCVN 9386 (hay EC8) để xác định chuyển vị mục tiêu
trong phân tích ứng xử của kết cấu nhà cao tầng (chu
kỳ dài) bằng phương pháp tĩnh phi tuyến. Trong
trường hợp này kiến nghị sử dụng phổ chuyển vị theo
ASCE 7 để phân tích, trừ khi có các kết quả chính xác
hơn thông qua đánh giá nguy cơ động đất (seismic
hazard assessment) cho trường hợp đang xét
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 874 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phổ phản ứng chuyển vị trong phân tích nhà cao tầng chịu động đất ở Việt Nam bằng phương pháp tĩnh phi tuyến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 3
PHỔ PHẢN ỨNG CHUYỂN VỊ TRONG PHÂN TÍCH NHÀ CAO TẦNG 
CHỊU ĐỘNG ĐẤT Ở VIỆT NAM BẰNG PHƯƠNG PHÁP TĨNH PHI TUYẾN 
ThS. NGUYỄN HỒNG HẢI, TS. NGUYỄN HỒNG HÀ 
Viện KHCN Xây dựng 
ThS. VŨ XUÂN THƯƠNG 
Công ty Cổ phần Giải pháp và công nghệ Xây dựng SF 
Tóm tắt: Thiết kế kết cấu nhà cao tầng chịu động 
đất dựa trên chuyển vị, sử dụng phương pháp phân 
tích tĩnh phi tuyến, yêu cầu phải xác định phổ phản 
ứng chuyển vị (dưới đây gọi tắt là phổ chuyển vị) phù 
hợp và tin cậy trong dải chu kỳ dài. Phổ chuyển vị áp 
dụng trong phân tích có ảnh hưởng trực tiếp đến kết 
quả tính toán. Bài báo này trình bày nghiên cứu của 
một số tác giả trên thế giới liên quan tới việc sử dụng 
phổ chuyển vị trong phân tích ứng xử của kết cấu 
theo phương pháp dựa trên chuyển vị. Ví dụ so sánh 
kết quả phân tích khi áp dụng phổ chuyển vị theo tiêu 
chuẩn TCVN 9386:2012 và ASCE 7-2010 cũng được 
trình bày. Kết quả cho thấy phổ chuyển vị theo tiêu 
chuẩn TCVN 9386:2012 không phù hợp để xác định 
chuyển vị mục tiêu cho kết cấu nhà cao tầng. Trong 
trường hợp này, kiến nghị sử dụng phổ chuyển vị theo 
ASCE 7 để phân tích. 
1. Đặt vấn đề 
Phương pháp thiết kế kháng chấn dựa trên tính 
năng (performance-based design), vận dụng khái 
niệm thiết kế dựa trên chuyển vị (displacement based 
design), được xem là cho phép kiểm soát sự phá hoại 
một cách trực tiếp hơn so với phương pháp thiết kế 
kháng chấn truyền thống (dựa trên lực – force-based 
design) [1]. Thiết kế kết cấu dựa trên tính năng chỉ có 
thể đạt được thông qua việc áp dụng các phương 
pháp phân tích phi tuyến, tĩnh hoặc động. Tiêu chuẩn 
thiết kế công trình chịu động đất hiện hành của Việt 
Nam TCVN 9386:2012 [2] (dưới đây gọi tắt là TCVN 
9386), biên soạn dựa trên cơ sở chuyển dịch tiêu 
chuẩn Eurocode 8 [3] (dưới đây viết tắt là EC8), trình 
bày một trong số các phương pháp phân tích tĩnh phi 
tuyến phổ biến trên thế giới, với tên gọi là “phương 
pháp N2” do Fajfar [4] đề xuất. 
Phương pháp phân tích tĩnh phi tuyến có thể sử 
dụng để kiểm tra tính năng kết cấu của nhà hiện hữu 
và nhà thiết kế mới nhằm các mục đích: (1) kiểm tra 
hoặc đánh giá lại các tỷ số vượt cường độ u/1, (2) 
xác định các cơ cấu dẻo dự kiến và sự phân bố hư 
hỏng, (3) đánh giá tính năng kết cấu của nhà hiện 
hữu hoặc được cải tạo theo các mục tiêu của tiêu 
chuẩn liên quan và (4) sử dụng như một phương 
pháp thiết kế thay cho phương pháp phân tích đàn hồi 
- tuyến tính có sử dụng hệ số ứng xử q. 
Khác với phương pháp phân tích tuyến tính hoặc 
phi tuyến theo lịch sử thời gian có thể đưa ra ứng xử 
lớn nhất (nội lực, chuyển vị) của kết cấu (hoặc cấu kiện) 
ứng với độ lớn của tải trọng động đất đầu vào, phương 
pháp phân tích tĩnh phi tuyến chỉ có thể đưa ra đường 
cong quan hệ lực – chuyển vị. Các ứng xử (nội lực, 
chuyển vị) của kết cấu (hoặc cấu kiện) được xác định 
tại mức chuyển vị mục tiêu. Một số nghiên cứu của 
Fajfar [4], Penelis và Papanikolaou [5] có trình bày việc 
áp dụng phương pháp này cho một số dạng kết cấu 
thấp tầng. Đối với công trình cao tầng, về lý thuyết, 
phương pháp phân tích tĩnh phi tuyến không thực sự 
phù hợp khi áp dụng cho kết cấu có ảnh hưởng của 
dao động bậc cao là đáng kể. Tuy nhiên, ngay cả khi 
phương pháp tĩnh phi tuyến không thích hợp cho việc 
đánh giá tính năng kháng chấn một cách hoàn chỉnh 
thì phương pháp này vẫn là một công cụ thiết kế hiệu 
quả để tìm hiểu ứng xử phi tuyến của kết cấu khi 
không thể tiến hành phân tích theo phương pháp phân 
tích động phi tuyến [6]. Các tài liệu [7~10] có trình bày 
việc áp dụng phương pháp phân tích tĩnh phi tuyến cho 
nhà cao tầng, song chưa tìm thấy các ví dụ tương tự 
có áp dụng phổ phản ứng chuyển vị theo EC8. 
Việc lựa chọn phổ chuyển vị phù hợp là rất quan 
trọng trong thiết kế dựa theo chuyển vị (displacement-
based design) bằng phương pháp tĩnh phi tuyến, bởi 
nó biểu thị chuyển vị kỳ vọng (chuyển vị mục tiêu) của 
công trình ứng với mức động đất đang xét. Sự chính 
xác của việc xác định chuyển vị mục tiêu phụ thuộc 
hoàn toàn vào phổ chuyển vị được chọn. Trong quá 
trình áp dụng phương pháp tĩnh phi tuyến để nghiên 
cứu ứng xử của nhà cao tầng có tầng cứng, chúng tôi 
nhận thấy phổ chuyển vị quy định trong tiêu chuẩn 
TCVN 9386 có những đặc điểm chưa phù hợp đối với 
loại công trình này (có chu kỳ dài). Bài báo, thông qua 
việc so sánh phổ chuyển vị giữa TCVN 9386 và 
ASCE 7-2010 [11] (dưới đây viết tắt là ASCE 7), đồng 
thời tham khảo một số tài liệu nghiên cứu liên quan và 
ví dụ tính toán cụ thể sẽ làm rõ hơn vấn đề này. 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 4 
2. Phổ chuyển vị theo TCVN 9386 và ASCE 7 
2.1 Phổ phản ứng theo tiêu chuẩn TCVN 9386 
Theo TCVN 9386, phổ phản ứng gia tốc đàn hồi 
Se(T) được xác định bằng các công thức sau: 
   0 : 1 2.5 1B e g
B
TT T S T a S
T
 
     
  
(1) 
  : 2.5B C e gT T T S T a S   (2) 
  : 2.5 CC D e g
TT T T S T a S
T
        
 (3) 
  24 : 2.5 C DD e g
T TT T S T a S
T
        
 (4) 
trong đó: ag - gia tốc nền thiết kế trên nền loại A; S - 
hệ số nền; TB, TC, TD - các tham số phụ thuộc vào 
dạng đất nền; η - hệ số điều chỉnh độ cản. 
Phổ chuyển vị đàn hồi được xác định trực tiếp 
dựa vào phổ phản ứng gia tốc đàn hồi, theo công 
thức (5). Với chu kỳ dài hơn 4s, phổ chuyển vị được 
xác định theo phụ lục A của tiêu chuẩn này, công thức 
(6) và (7). 
2
24d a
TS S
 (5) 
   : 0.025 2.5 1 2.5EE F De g C D
F E
T TT T T S T a S T T
T T
 
  
            
 (6) 
 : 0.025F e g g C DT T S T d a S T T      
 (7) 
Hình 1 và hình 2 lần lượt thể hiện hình dáng của phổ gia tốc và phổ chuyển vị. 
Hình 1. Dạng của phổ gia tốc Hình 2. Phổ chuyển vị 
2.2 Phổ phản ứng theo tiêu chuẩn ASCE 7 
Phổ phản ứng gia tốc đàn hồi theo tiêu chuẩn ASCE 7 được xác định theo công thức sau (hình 3): 
0
0
 0.4 0.6a DS
TT T S S
T
 
   
  
(8) 
0 S a DST T T S S   (9) 
1 DS L a
ST T T S
T
   (10) 
1
2 
D L
L a
S TT T S
T
  (11) 
Hình 3. Phổ gia tốc theo ASCE 7 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 5
trong đó: SDS, SD1 – lần lượt là giá trị của phổ gia tốc 
thiết kế ứng với độ cản nhớt 5% tại chu kỳ bằng 0.2s 
và 1.0s; 0 10.2 /D DST S S , 1 /S D DST S S ; TL - xác 
định theo bản đồ phân vùng động đất của Mỹ. 
ASCE 7 không có quy định riêng cho phổ chuyển 
vị, mà được xác định thông qua công thức 
(5). Tài liệu [13] có trình bày cách sử dụng phổ gia tốc 
theo ASCE khi áp dụng tại Việt Nam, trong đó thiên về 
an toàn lấy TL=6.0s. 
3. Vai trò của chu kỳ góc đối với phổ chuyển vị 
trong vùng chu kỳ dài 
Phổ chuyển vị có hình dạng điển hình, ngoài 
phần phi tuyến ở giai đoạn đầu, là tuyến tính tới một 
giá trị chu kỳ (gọi là chu kỳ góc), sau đó nằm ngang 
biểu thị chuyển vị không đổi trong phần chu kỳ dài. 
Chu kỳ góc (giữa vùng kiểm soát vận tốc và kiểm soát 
chuyển vị) là một tham số căn bản của phổ chuyển vị. 
Chu kỳ góc phụ thuộc vào loại nguồn động đất, cấp 
động đất, khoảng cách tâm chấn [14, 15, 17, 18] và khó 
xác định. ASCE 7 chỉ định giá trị chu kỳ góc trong 
khoảng từ 4-16s. FEMA 450 quy định chu kỳ góc từ 4-
20s theo cường độ chấn động Mw (moment 
magnitude) từ cấp 6 tới 9+ [19]. Tiêu chuẩn EC8 và 
NZS 1170.5 ấn định chu kỳ góc lần lượt bằng 2s và 
3s. Hình 4 thể hiện tương quan phổ chuyển vị của các 
tiêu chuẩn khác nhau so với phổ ASCE 7, đất nền loại 
E, PGA 0.2g [20]. Việc ấn định chu kỳ góc khác nhau 
đối với các tiêu chuẩn khác nhau có ảnh hưởng đáng 
kể tới độ lớn của phổ chuyển vị. Trong ví dụ trên, giá 
trị chuyển vị trong vùng chu kỳ dài theo tiêu chuẩn 
EC8 chỉ khoảng 0.5m, trong khi đó giá trị này là 1.4m 
theo tiêu chuẩn ASCE 7 (với TL=6s). 
Hình 4. Tương quan phổ chuyển vị theo một số tiêu chuẩn, 
 ứng với phổ ASCE 7, đất nền loại E, PGA 0.2g [20] 
Nghiên cứu của Bommer [13], Sinan Akkar [18] cũng 
đưa ra các nhận định: phổ chuyển vị theo EC8 cho 
giá trị quá thấp, đặc biệt đối với phần chu kỳ trung 
bình và dài, mà nguyên nhân chính là do việc lựa 
chọn giá trị TD=2s là điểm bắt đầu của đoạn chuyển vị 
không đổi. Việc ấn định giá trị thấp đối với chu kỳ góc 
cho độ lớn của phổ chuyển vị thiên về không an 
toàn[20]. Kiến nghị cần phải soát xét lại các nội dung 
liên quan đến vấn đề này của tiêu chuẩn EC8 cũng 
được nhiều tác giả đưa ra. Nghiên cứu của Faccioli [17] 
chỉ ra rằng giá trị TD trong phổ của EC8 (hay TCVN 
9386) phụ thuộc vào độ lớn của trận động đất và 
khoảng cách đến tâm chấn, đồng thời cũng kiến nghị 
công thức xác định giá trị TD đối với động đất có 
cường độ chấn động Mw > 5.7 như sau: 
 1.0 2.5 5.7D wT M   (12) 
Ngoài ra, các nghiên cứu của Phạm Tuấn Hiệp [25], 
Nilupa [26] đều có hiệu chỉnh phổ chuyển vị theo EC8 
khi thực hiện các bài toán phân tích phi tuyến, mặc dù 
không đưa ra giải thích chặt chẽ cho những điều 
chỉnh này. 
Các nhận định trên là xác đáng khi tham chiếu 
đến chỉ dẫn của NEHRP [19] đối với đoạn nằm ngang 
của phổ chuyển vị bắt đầu từ chu kỳ khống chế TL (có 
ý nghĩa tương đương với giá trị TD trong EC8). Giá trị 
của TL được thể hiện trên bản đồ phân vùng động đất 
của Mỹ, biến thiên trong khoảng từ 4~16s phụ thuộc 
vào độ lớn của động đất. NEHRP cũng đưa ra công 
thức xác định TC (là giá trị gần đúng của TL) thông 
qua quan hệ với cường độ chấn động Mw như sau: 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 6 
log 1.25 0.3C wT M   (13) 
Hình 5 thể hiện quan hệ giữa chu kỳ góc TD theo 
EC8 (hay TL theo ASCE) với cường độ chấn động Mw. 
Có thể thấy giá trị chu kỳ góc trong tiêu chuẩn EC8 và 
theo Faccioli (công thức (12)) đều nhỏ hơn giá trị xác 
định theo NEHRP. 
Hình 5. Biểu đồ quan hệ giữa chu kỳ góc của phổ chuyển vị với cường độ chấn động 
4. Ví dụ tính toán so sánh áp dụng phổ chuyển vị 
TCVN 9386 và ASCE 7 
Ảnh hưởng của việc lựa chọn phổ chuyển vị 
trong phương pháp thiết kế dựa vào chuyển vị được 
thể hiện cụ thể trong ví dụ dưới đây, xem xét ứng xử 
của kết cấu một nhà cao tầng (có chu kỳ dài) thông 
qua phân tích phi tuyến tĩnh. Trong đó chuyển vị mục 
tiêu được xác định theo phương pháp nêu trong phụ 
lục B của tiêu chuẩn TCVN 9386. Mô hình dùng để 
khảo sát là một khung phẳng 55 tầng, 2 nhịp (mỗi 
nhịp 19m) có 01 tầng cứng tại tầng 34 (hình 7), các 
thông tin cơ bản của công trình cho trong bảng 1. 
Công trình được xem xét thiết kế chịu động đất 
theo hai tiêu chuẩn TCVN 9386 và ASCE 7 ứng với 
gia tốc nền 0.1g (chu kỳ lặp 475 năm) trên nền đất có 
SPT<15 (loại D đất rời xốp - chặt vừa theo TCVN 
9386 hoặc loại E sét mềm theo ASCE 7). Hình 6 thể 
hiện tương quan phổ chuyển vị theo tiêu chuẩn với 
các tham số như sau: 
- Phổ TCVN 9386: ag=0.1g; TB=0.2; TC=0.8; 
TD=2.0; TE=6.0; TF=10.0; S=1.35; 
- Phổ ASCE 7: SDS=0.344g; SD1=0.275g; T0=0.16; 
TS=0.8; TL=6.0. 
Bảng 1. Các thông tin cơ bản về công trình 
Thông tin Tầng thường Tầng cứng 
Chiều cao tầng (m) 4.0 6.5 
Tiết diện dầm 2000x500mm 800x6500mm 
Tiết diện cột 1500x1800 
Tiết diện vách 800x12000 
Hình 6. So sánh phổ chuyển vị theo TCVN 9386 và ASCE 7 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 7
Có thể thấy phổ chuyển vị đàn hồi giữa hai tiêu 
chuẩn có sai khác rất lớn ở đoạn chu kỳ lớn hơn 2s. 
Phổ chuyển vị theo TCVN 9386 đi ngang trong đoạn 
từ TD (2s) đến TE (6s), sau đó đi xuống từ TE (6s) đến 
TF (10s), trong khi phổ chuyển vị theo ASCE 7 tăng 
tuyến tính trong đoạn từ TS đến TL (6s) sau đó mới đi 
ngang. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của các 
nhà nghiên cứu trên thế giới trình bày trong mục 3. 
Phân tích phi tuyến đẩy dần được thực hiện bằng 
phần mềm Ruaumoko 2D, trong đó quan hệ lực – 
biến dạng của các cấu kiện sử dụng quan hệ đàn dẻo 
lý tưởng. Sơ đồ phân bố tải trọng ngang sử dụng sơ 
đồ phân bố tuyến tính. Hình 8 thể hiện đường cong 
lực cắt đáy – chuyển vị đỉnh (đường cong khả năng) 
ứng với sơ đồ tải trọng ngang này. Các tham số 
chuyển đổi sang hệ một bậc tự do tương đương của 
công trình như sau: 
- Khối lượng của hệ một bậc tự do tương đương: 
m*=14605.9 ton; 
- Hệ số chuyển đổi: Γ=1.485. 
Đường cong lực – chuyển vị của hệ một bậc tự do 
tương đương được thể hiện trong hình 9. Chuyển vị 
mục tiêu được xác định khi sử dụng phổ chuyển vị 
theo TCVN 9386 và ASCE 7 như sau: 
Theo TCVN 9386: Thực hiện phân tích phi tuyến 
bằng phương pháp N2 trình bày trong phụ lục B của 
tiêu chuẩn. Quá trình lặp để tìm chuyển vị mục tiêu 
không hội tụ. Như thể hiện trong hình 6, chuyển vị 
đàn hồi rất nhỏ (giá trị lớn nhất là 0.137m) so với giá 
trị chuyển vị thể hiện trên đường cong khả năng và 
không hợp lý so với quy mô của công trình. 
Hình 7. Mô hình phân tích Hình 8. Đường cong khả năng của công trình 
Hình 9. Đường cong khả năng của hệ một bậc tự do tương đương 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 8 
Theo ASCE 7: Thực hiện phân tích tương tự, quy 
trình lặp cho kết quả chuyển vị mục tiêu của hệ một 
bậc tự do tương đương là 0.492m ứng với lực cắt đáy 
bằng 4913 kN. Chuyển vị mục tiêu của hệ nhiều bậc 
tự do bằng 0.492Γ=0.492x1.485=0.73m, ứng với lực 
cắt đáy bằng 7294kN. 
Như vậy, có thể thấy việc lựa chọn phổ chuyển vị 
ảnh hưởng rất lớn tới giá trị chuyển vị mục tiêu trong 
bài toán phân tích tĩnh phi tuyến. Trong ví dụ trên, 
chuyển vị mục tiêu tính toán khi áp dụng phổ chuyển 
vị ASCE 7 bằng 0.73m, trong khi với phổ TCVN 9386 
chuyển vị đàn hồi chỉ bằng 0.137m và quá trình tính 
lặp không hội tụ. 
5. Kết luận và kiến nghị 
Phổ chuyển vị có vai trò quan trọng trong việc xác 
định chuyển vị mục tiêu khi phân tích ứng xử của kết 
cấu bằng phương pháp tĩnh phi tuyến. Ảnh hưởng 
của chu kỳ góc tới phổ chuyển vị, đặc biệt là trong 
vùng chu kỳ dài, đã được các nhà nghiên cứu trên thế 
giới quan tâm. Các phân tích phía trên chỉ ra rằng phổ 
chuyển vị theo TCVN 9386 (hay EC8), với chu kỳ góc 
bằng 2s, được xem là thiên về không an toàn khi tính 
toán phân tích cho công trình có chu kỳ dài. 
Bài báo, thông qua ví dụ cụ thể, cũng cho thấy sự 
chưa thích hợp trong việc áp dụng phổ chuyển vị theo 
TCVN 9386 (hay EC8) để xác định chuyển vị mục tiêu 
trong phân tích ứng xử của kết cấu nhà cao tầng (chu 
kỳ dài) bằng phương pháp tĩnh phi tuyến. Trong 
trường hợp này kiến nghị sử dụng phổ chuyển vị theo 
ASCE 7 để phân tích, trừ khi có các kết quả chính xác 
hơn thông qua đánh giá nguy cơ động đất (seismic 
hazard assessment) cho trường hợp đang xét. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. FAJFAR, P. AND KRAWINKLER, H., EDITOR, Seismic 
design methodologies for next generation of codes, 
Balkema, Rotterdam, 1997. 
2. TCVN 9386-1:2012, Thiết kế công trình chịu động đất. 
Phần 1: Quy định chung, tác động động đất và quy định 
đối với kết cấu nhà. Nhà Xuất bản Xây dựng. 
3. Comite Europeen de Normalisation, Eurocode 8: Design 
of Structures for Earthquake Resistance. Part 1: General 
Rules, Seismic Actions and Rules for Building, 2004. 
4. PETER FAJFAR, M. EERI. A Nonlinear Analysis Method 
for Performance Based Seismic Design. Earthquake 
Spectra, Vol.16, No.3, pp.573-592, August 2000. 
5. G.G. PENELIS, V.K. PAPANIKOLAOU. Nonlinear Analysis 
of a 16-Storey R/C Building Designed According to EC2 & 
EC8. 14th European Conference on Earthquake 
Engineering, August 30 – September 3, 2010. 
6. GREGORY G. DEIERLEIN, ANDREI M. REINHORN, 
MICHAEL R. WILLFORD. Nonlinear Structural Analysis 
For Seismic Design – A Guide for Practicing Engineers. 
NEHRP Seismic Design Technical Brief No.4, Otc 2010. 
7. HIDEKI KIMURA, TADAO UEDA, KAZUO OHTAKE, 
ATSUSHI KAMBAYASHI. Structural Design of 80-Story 
RC High-rise using 200 Mpa Ultra-High-Strength 
Concrete. Journal of Advanced Concrete Technology 
Vol.5, No. 2, 181-191, June 2007. 
8. JIANG JUN, YOU BING, HU MING, HAO JIPING, LI 
YANGCHENG. Seismic Design of a Super High-rise Hybrid 
Structure. The 14th World Conference on Earthquake 
Engineering, October 12-17, 2008, Beijing, China. 
9. MEHDI POURSHA, FARAMARZ KHOSHNOUDIAN, 
A.S. MOGHADAM. A Breakthrough In Estimating the 
Seismic Demands of Tall Buildings. The 14th World 
Conference on Earthquake Engineering, October 12-
17, 2008, Beijing, China. 
10. CHEN XIPING, ZHANG LIQIONG, XUE YUJING. 
Pushover Analysis on Super High-rise Building. Journal 
of Jiangnan University (Natural Science Edition), Vol. 
10, No. 6, Dec 2011. 
11. ASCE 7-10. Minimum Design Load for Buildings and Other 
Structures. American Society of Civil Engineers, 2010. 
12. M. FARDIS, E. CARVALHO et al. Designers’ Guidde to 
EN 1998-1 and EN 1998-5, Eurocode 8: Design of 
Structures for Earthquake Resistance. Thomas Telford 
Press, 2005. 
13. NGUYỄN ĐẠI MINH, NGUYỄN TRUNG NGHỊ, NGUYỄN 
QUỲNH HOA. Tính toán nhà cao tầng chịu động đất ở 
Việt Nam theo ASCE 7-05. Tuyển tập báo cáo hội nghị 
khoa học kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Viện Khoa học 
Công nghệ Xây dựng, tập 3, trang 269-277. 
14. BOMMER, JULIAN J., AND ELNASHAI, AMR S. 
Displacement Spectra for Seismic Design. Journal of 
Earthquake Engineering, 3 (1):1-32, 1999. 
15. TOLIS, STAVROS V., AND FACCIOLI, EZIO. 
Displacement Design Spectra. Journal of Earthquake 
Engineering, 3 (1):107 – 125, 1999. 
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2014 9
16. JULIAN J. BOMMER, RUI PINHO. Adaping earthquake 
actions in Eurocode 8 for performance-based seismic 
design. Earthquake Engineering and Structural 
Dynamics, 2006, 35:39-55. 
17. EZIO FACCIOLI, ROBERTO PAOLUCCI, JULIEN REY. 
Displacement Spectra for Long Periods. Earthquake 
Spectra, Volume 20, No. 2, pages 347–376, May 2004. 
18. SINAN AKKAR, JULIAN J. BOMMER. Prediction of 
elastic displacement response spectra in Europe and 
the Middle East. Earthquake Engineering and Structural 
Dynamics, 2007, 36:1275-1301. 
19. Nehrp recommended provisions for seismic regulations 
for new buildings and other structures, 2003 Edition, 
Part 1—Provisions, Part 2—Commentary. Report 
FEMA 450, Building Seismic Safety Council, 
Washington, DC, 2004. 
20. ICSECM 2011 - Kandy - Sri Lanka - (15th to 17th 
December 2011), A comparative study of design 
seismic hazard in major national codes. 
21. FEMA 356, 2000, “Prestandard and Commentary on the 
Seismic Rehabilitation of Buildings”, Federal 
Emergency Management Agency. 
22. ASCE 41-06: Seismic Rehabilitation of Existing 
Buildings. American Society of Civil Engineers, 2006. 
23. MEHMED CAUSEVIC, SASA MITROVIC. Comparison 
between non-linear dynamic and static seismic analysis 
of structures according to European and US provisions. 
Bulletin of Earthquake Engineering, Volume 9, Issue 2, 
pp 467-489, April 2011. 
24. M.J.N PRIESTLY, G.M CALVI, M.J. KOWALSKY. 
Displacement Seismic Design of Structures. IUSS 
Press, 2007. 
25. PHAM TUAN HIEP. Seismic Design Considerations for 
Tall Buildings. Master thesis in Earthquake Engineering 
& Engineering Seismology, IUSS. 
26. HERATH NILUPA. Behaviour of outrigger braced tall 
buildings subjected to earthquake loads, PhD thesis, 
Dept. of Infrastructure Engineering, The University of 
Melbourne, 2011. 
Ngày nhận bài sửa: 10/11/2014. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nguyenhonghai_4_2014_5642.pdf nguyenhonghai_4_2014_5642.pdf