Để hiện thực hóa và phổ quát hóa
quyền tự do kinh doanh, chúng ta cần phải
thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, tìm cách khắc phục trở ngại
về cơ cấu. Nói cách khác là dung hòa quyền
lợi giữa các nhóm người trong xã hội.
Thứ hai, thông qua pháp luật quốc gia
và các biện pháp hành chính bảo đảm việc
tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh
- quyền kinh tế của con người đã được quốc
tế thừa nhận.
Thứ ba, quan tâm hơn tới giáo dục về
quyền con người nói chung và quyền tự do
kinh doanh nói riêng.
Thứ tư, đầu tư nguồn lực nhằm bảo
đảm quyền tự do kinh doanh.
Thứ năm, có thể thức để nhận được sự
giúp đỡ hợp tác từ cá nhân, tổ chức và quốc
gia khác để bảo trợ cho quyền của con người
nếu họ bị xâm phạm quyền tự do kinh doanh.
Thứ sáu, tư tưởng của bản thân quốc
gia là tư tưởng mở, có nghĩa là sẵn sàng tiếp
nhận những tư tưởng tôn trọng tự do, dân
chủ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phổ quát hóa quyền tự do kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỔ QUÁT HÓA QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Tóm tắt:
Quyền tự do kinh doanh phải được đảm bảo và trở nên phổ quát
do vai trò thực sự to lớn của quyền này và để quá trình tự do hóa
thương mại nói riêng và toàn cầu hóa nói chung diễn ra tại Việt
Nam thu được hiệu quả cao. Trong đó, tiên phong là pháp luật
doanh nghiệp, pháp luật đầu tư, pháp luật cạnh tranh, nói riêng
và pháp luật kinh tế của Việt Nam nói chung cần phải phổ quát
hóa quyền tự do kinh doanh - quyền kinh tế của con người.
Dương Anh Sơn*
Nguyễn Thị Thu Trang**
* PGS.TS. Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật.
** TS. Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật.
Abstract
Right of business freedom must be ensured and become universal
due to its really important role. It is also for high effeciency of
the process of trade liberalization in particular and globalization
in general to take effect in Vietnam. In particular, the pioneer is
the legal regulations on the enterprise, the legal regulations on
investments, legal regulations on competition, ... in particular and
the Vietnam's regulations on economics required to universalize
the freedom of business - the rights of economics of human.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Phổ quát hóa, quyền con người,
toàn cầu hóa, tự do kinh doanh.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 16/09/2019
Biên tập : 22/09/2019
Duyệt bài : 25/09/2019
Article Infomation:
Keywords: Universalization, human
rights, globalization, business freedom.
Article History:
Received : 16 Sep. 2019
Edited : 22 Sep. 2019
Approved : 25 Sep. 2019
1. Vai trò của quyền tự do kinh doanh
trong điều kiện hội nhập quốc tế
Quyền tự do kinh doanh là một trong
những quyền kinh tế của con người. Khi
nói tới tự do kinh doanh là đề cập tới1: (i)
Quyền sở hữu tư nhân; giá cả được xác định
bởi các lực lượng thị trường; khả năng gia
nhập và rời khỏi thị trường; quy tắc pháp
luật hiệu quả hay quy định mang tính kinh tế
1 Xem Macedo, J.B.D., Martins, J.O., and Pereira, L.B. (2007). “How Freedoms interact with globalization”, In confer-
ence on globalization and democracy, Princeton University, September, 27-28. P. 7.
để đảm bảo cạnh tranh; (ii) Tự do tài chính
mang lại bởi khả năng chuyển đổi tiền tệ,
ổn định giá trị tiền tệ, sự độc lập của ngân
hàng trung ương và thị trường tài chính; (iii)
Thuế thấp và thị trường lao động linh hoạt.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Dreher
và cộng sự đã chứng minh rằng, các chỉ số
trên như kinh doanh, thương mại, tiền, chính
phủ, chính sách tài khóa, quyền sở hữu, đầu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 19(395) T10/2019
tư, tự do tài chính, tham nhũng và lao động,
nơi có giá trị cao hơn cho thấy môi trường
kinh tế hoặc các chính sách có lợi cho tự do
kinh tế nói chung và tự do kinh doanh nói
riêng2. Thêm vào đó, dòng chảy kinh tế thực
tế được coi là cách đo lường của toàn cầu
hoá3. Qua đó cho thấy tự do kinh doanh là
xu hướng tất yếu diễn ra trong quá trình toàn
cầu hóa. Trong tiến trình toàn cầu hóa, tự do
kinh doanh có vai trò to lớn sau đây:
2.1. Tự do kinh doanh góp phần tăng
trưởng kinh tế
Tự do kinh doanh góp phần tăng
trưởng kinh tế4: Tự do trong kinh doanh là
một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của
nền kinh tế. Những tác động mà các chủ thể
kinh doanh (các doanh nghiệp mới thành
lập, người cấp vốn, các nhà công nghiệp,)
phải đối diện được quyết định trong phần
lớn bởi các thể chế. Nếu các thể chế đảm
bảo cho tự do kinh doanh một cách hợp lý
thì nó sẽ có khả năng tạo nên sự phát triển
rộng khắp bởi các lý do sau:
Một là, các chính sách liên quan đến
thuế thấp; hệ thống pháp luật vận hành độc
lập; các quy định của pháp luật điều chỉnh
thị trường mang tính mở rộng, không bó
buộc và không quá phức tạp sẽ làm tăng giá
trị của doanh nghiệp đến mức cao nhất, nuôi
dưỡng nền kinh tế năng động và khuyến
khích tự do cạnh tranh sẽ làm tăng cường
quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, nếu chúng ta cho phép các cá
nhân được tập trung làm những gì họ làm tốt
nhất, khi đó xã hội sẽ giàu có hơn bởi các cá
2 Xem Dreher, Axel; Gassebner, Martin; Siemers, Lars-H. R.(2010),"Globalization, economic freedom and human
rights", Discussion Papers, Center for European Governance and Economic Development Research, No. 115, p. 21.
3 Dreher, Axel; Gassebner, Martin; Siemers, Lars-H. R.(2010),"Globalization, economic freedom and human rights",
Discussion Papers, Center for European Governance and Economic Development Research, No. 115, P. 19.
4 Xem Niclas Berggren (2003), “The Benefit of Economic Freedom – A survey”, The Independent Review, Vol. VIII,
No.2, Oakland, CA, p. 197.
5 Xem Phát biểu của Jagdish Bhogwati (1994), được ghi nhận bởi Niclas Berggren (2003), “The Benefit of Economic
Freedom - A survey”, The Independent Review, Vol. VIII, No.2, Oakland, CA, p. 197.
6 Xem Niclas Berggren (2003), “The Benefit of Economic Freedom – A survey”, The Independent Review, Vol. VIII,
No.2, Oakland, CA, p. 202-204.
nhân sẽ làm việc hiệu quả hơn là họ chỉ làm
những việc họ buộc phải làm. Hiển nhiên, có
những đặc tính sẽ không đạt được mục tiêu
kỳ vọng xã hội. Tuy nhiên, như một quy luật
chung, cho phép các cá nhân thể hiện cá tính
của họ sẽ mang đến lợi ích cho xã hội. Hơn
nữa, khi thị trường mở rộng hơn, sẽ có nhiều
chỗ cho phân công lao động và chuyên môn
hóa. Sự chuyên môn hóa tăng lên cho phép
mỗi cá nhân lựa chọn một ngành nghề phù
hợp với khả năng và sở thích của họ. Từ đó,
kéo theo sự tăng trưởng kinh tế trong xã hội.
Trong 50 năm trở lại đây, kinh nghiệm
quốc tế đã phần nào khẳng định rằng bất kỳ
quốc gia nào sử dụng thị trường nhiều hơn
và áp dụng các chính sách mở nhiều hơn
trong đầu tư và thương mại quốc tế thì quốc
gia đó có xu hướng giàu có hơn (dĩ nhiên là
tự do kinh tế có nhiều dạng khác nhau)5.
2.2. Tự do kinh doanh góp phần cân bằng
thu nhập
Tự do kinh doanh góp phần cân bằng
thu nhập6: Thoạt nhìn, một số người có thể
nhận định rằng tự do kinh doanh giúp nền
kinh tế phát triển nhanh chóng sẽ có nguy
cơ khiến cho khoảng cách thu nhập trong xã
hội ngày càng tăng cao và sự phân biệt giàu
nghèo dựa trên thu nhập sẽ gay gắt hơn. Tuy
nhiên, để có thể đưa ra kết luận chính xác,
cần phải có sự đánh giá mang tính tổng thể
dựa trên sự chuyển động cùng lúc của các
yếu tố trong nền kinh tế chứ không chỉ đánh
giá dựa trên các tương quan cố định của một
hay vài yếu tố.
Về mặt lý thuyết, làm sao thu nhập sau
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 19(395) T10/2019
thuế của các cá nhân và nhóm cá nhân khác
nhau có thể bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng về
tự do kinh doanh. Nếu xét thu nhập về khía
cạnh cố định, các mức thuế của doanh nghiệp
giảm xuống dẫn đến người có thu nhập cao
tăng lên, vị trí của người có thu nhập thấp
bị giảm xuống, khoảng cách từ người có thu
nhập cao nhất đến người có người thu nhập
thấp nhất bị kéo dài ra7.
Mặt khác, sự gia tăng các nguồn thu
không chỉ xuất hiện ở một số nhóm người
trong nền kinh tế, mà nó mang tính chất lây
lan và tác động đến tổng thể các đối tượng
còn lại trong xã hội. Mức thu nhập của một
nhóm người được nâng cao hơn, dẫn đến nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm xã hội tăng cao hơn,
giới hạn của mức cầu xã hội nới rộng, kích
thích thị trường cung sản phẩm thay đổi. Khi
thị trường được kích thích sản xuất ra nhiều
của cải vật chất và dịch vụ để đáp ứng cầu
đang tăng cao sẽ dẫn đến thúc đẩy thị trưởng
trao đổi mạnh hơn. Nhờ đó, những người có
hoạt động tham gia trong quá trình trao đổi
của thị trường sẽ đều nhận được nguồn thu
cao hơn nhờ tổng mức tiêu thụ tăng và lượng
tiền lưu thông trên thị trường gia tăng. Hoạt
động này liên tục diễn ra trên thị trường dẫn
đến phân phối thu nhập đồng đều hơn cho
tất cả các cá nhân trong nền kinh tế. Do đó,
khoảng cách thu nhập không bị kéo giãn mà
có xu hướng co lại, hay ít nhất là cùng được
nâng lên ở từng mức tương ứng nhau.
Vì vậy, trái ngược với ý kiến cho
rằng mở rộng tự do trong hoạt động kinh
doanh, thương mại có thể dẫn đến mất cân
bằng trong thu nhập của xã hội. Thực chất,
mở rộng tự do trong kinh doanh thúc đẩy
mạnh mẽ phân phối thu nhập xã hội được
đồng đều hơn, thu ngắn khoảng cách giữa
nhóm người có mức thu nhập cao nhất so
với nhóm người có mức thu nhập thấp nhất
trong xã hội.
7 Niclas Berggren (2003), “The Benefit of Economic Freedom – A survey”, The Independent Review, Vol. VIII, No.2,
Oakland, CA, p. 202 – 204.
2.3. Tự do kinh doanh góp phần phát triển
xã hội
Tự do kinh doanh góp phần phát triển
xã hội: Khi nền kinh tế phát triển, đồng
hành với các chính sách tự do kinh doanh và
thương mại được mở rộng, cơ sở vật chất và
cơ sở hạ tầng được đầu tư triệt để để phục
vụ cho sự phát triển và đồng thời là sự đi lên
của trình độ phát triển xã hội.
Như một sự tác động qua lại mang tính
chất cộng sinh, kinh tế phát triển tác động
đến phát triển xã hội, nâng cao chất lượng
cuộc sống, chất lượng giáo dục, tỷ lệ người
biết đọc, biết viết cao và tuổi thọ con người
được kéo dài hơn, tất cả những yếu tố này
nhằm đảm bảo cho xã hội tiếp tục cung cấp
các nguồn lực chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu cần sức lao động dồi dào để phát triển
toàn diện nền kinh tế ở mọi lĩnh vực, thúc
đẩy cho tự do kinh doanh thương mại được
tối ưu hóa và ảnh hưởng đến xã hội.
Do đó, phát triển xã hội không chỉ là
hệ quả mà còn là yếu tố tiên quyết để đảm
bảo phát triển kinh tế, duy trì tự do trong
kinh doanh. Điều này, một lần nữa khẳng
định vì sao quyền tự do trong kinh doanh
thương mại là một quyền tự do mang tính
xã hội và có vị trí cao trong nấc thang trình
độ phát triển giữa các quyền tự do khác của
con người.
2. Sự cần thiết và thách thức phổ quát hóa
quyền tự do kinh doanh trong điều kiện
hội nhập quốc tế
Tính phổ quát của quyền con người
được thể hiện bằng cách thực tế là chúng
được thừa nhận trong luật pháp quốc tế.
Các quyền này đại diện cho một hệ thống
bảo vệ toàn cầu và khu vực bắt nguồn từ
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm
1948, Công ước quốc tế về các quyền dân
sự - chính trị và Công ước quốc tế về các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 19(395) T10/2019
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội được thông
qua năm 1966 cũng như chức năng giám
sát của Hội đồng Nhân quyền8. Chính vì lẽ
đó, trong xã hội hậu hiện đại của chúng ta,
ba mươi điều của Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người ngày càng được xem như
những quy định của một bộ luật đạo đức
mang tính phổ quát9. Mặc dù việc thực hiện
Luật Nhân quyền quốc tế còn nhiều bất cập,
nhưng nhân quyền được ghi trong Tuyên bố
được biết đến rộng rãi và hầu như được chấp
nhận rộng rãi.
Theo Điều 28 Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền (UDHR), mỗi người đều có
quyền có một trật tự xã hội và quốc tế, trong
đó có thể thực hiện đầy đủ các quyền và tự
do nêu trong Tuyên bố. Rõ ràng rằng quyền
con người không chỉ liên quan đến nghĩa vụ
của các quốc gia để kiềm chế vi phạm mà
còn phải có nghĩa vụ hỗ trợ nếu người dân
không thể đạt được các quyền con người cho
mình trên sức mạnh của chính họ. Lời mở
đầu của Tuyên ngôn thế giới cũng đề cập
đến vấn đề này khi nói đến "Phẩm giá vốn
có và giá trị của con người" và nhiệm vụ để
thực hiện đầy đủ điều này trên toàn thế giới,
như "một tiêu chuẩn chung về thành tựu cho
mọi dân tộc và mọi quốc gia".
Bên cạnh đó, Tuyên ngôn Vienna và
Chương trình hành động (Hội nghị thế giới
về nhân quyền 1993) cũng cho rằng: “Tất
cả các quyền con người đều mang tính phổ
cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau
và liên quan đến nhau. Cộng đồng quốc tế
phải xử lý các quyền con người theo phạm vi
toàn cầu một cách công bằng và bình đẳng
và được coi trọng như nhau. Trong khi phải
luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc
và khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử,
văn hóa, tôn giáo, các quốc gia không phân
8 Richard Stone (2010), Textbook on Civil Liberties and Human Rights (8th Edition), Oxford University Press, p. 15.
9 Gert Verschraegen (2002), “Human Rights and Modern Society: A Sociological Analysis from the Perspective of
Systems Theory”, Journal of Law and Society, Vol.29, No.2, p. 259.
10 Xem Willem van Genugten (2013), “The universalisation of human rights: reflections on obstacles and the way for-
ward”, Tilburg Law School Legal Studies Research Paper Series, No. 019, p. 214.
biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa có
nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền
con người và các quyền tự do cơ bản”.
Quyền tự do kinh doanh là quyền kinh
tế của con người có những đặc điểm sau:
Quyền con người là quyền phổ quát
nên quyền tự do kinh doanh – quyền kinh tế
của con người cũng cần được phổ quát trên
phạm vi quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, quyền
con người nói chung và quyền tự do kinh
doanh nói riêng còn có nhiều trở lực làm hạn
chế sự phổ quát quyền này. Cụ thể: Các văn
kiện quốc tế về nhân quyền đều nhấn mạnh
quyền con người là những giá trị mang tính
phổ quát. Vì vậy, trong điều kiện kinh tế,
xã hội và chính trị thay đổi nhanh như hiện
nay thì câu hỏi “làm cách nào để quyền con
người được bảo đảm một cách hiện thực?”
được đặt ra trong nhiều diễn đàn nghị sự.
Học giả Willem van Genugten cho rằng,
có trở lực đối với tính phổ quát của nhân
quyền10: (1) sự đa dạng và số lượng lớn các
quyền con người; (2) các câu trả lời pháp lý
và bán pháp lý chưa mang tính thuyết phục;
(3) các quốc gia kêu gọi chấp nhận các thuật
ngữ về nhân quyền ('tiêu chuẩn') nhưng do
dự đến sự can thiệp từ bên ngoài (thực hiện
và giám sát); (4) xung đột giữa các nghĩa vụ
pháp lý quốc tế và pháp lý quốc gia (Hiến
pháp). Từ đây dẫn đến những thách thức
trong việc phổ quát hóa trên bình diện quốc
gia quyền tự do kinh doanh như sau:
(i) Thách thức về cơ cấu: Do cơ cấu
xã hội luôn phát triển ở các quốc gia đã gây
cản trở tới phổ quát hóa quyền con người.
Cơ cấu xã hội với các tiêu chí khác nhau
phân thành nhóm: Có quyền lực và không
có quyền lực; giàu và nghèo; nam và nữ;
người sử dụng lao động và người lao động;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 19(395) T10/2019
có quyền kiểm tra giám sát và nghĩa vụ phục
tùng; Cơ cấu xã hội thường là hai mặt của
vấn đề. Vì vậy, cơ cấu thường xuyên thay
đổi và các nhóm trong cơ cấu thường không
tương đồng về quyền và lợi ích sẽ là trở lực
lớn phổ quát hóa quyền tự do kinh doanh.
(ii) Thách thức do khả năng hình
thành và tiếp thu tư tưởng: Hệ thống các giá
trị cá nhân, của nhóm người hoặc của xã hội
xung đột cục bộ hoặc toàn bộ với các giá trị
của hệ thống quyền con người. Chính những
xung đột trên khiến cá nhân, nhóm người và
các quốc gia khó tiếp nhận các giá trị của hệ
thống quyền con người, quyền tự do kinh
doanh.
(iii) Thách thức về nguồn lực đảm
bảo quyền tự do kinh doanh: Các nền kinh
tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới là
không giống nhau; có quốc gia không có
hoặc không đủ nguồn nhân lực, vật lực để
đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Quyền tự
do kinh doanh vì thế khó trở nên phổ biến ở
các quốc gia.
(iv) Thách thức về nhận thức quyền tự
do kinh doanh: Bản thân chủ thể thụ hưởng
quyền con người chưa nhận thức thấu đáo về
quyền tự do kinh doanh để tự mình thực hiện
quyền hoặc yêu cầu chủ thể khác tôn trọng
mình. Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức thực
thi nhiệm vụ bảo vệ quyền tự do kinh doanh
không biết hoặc chưa nhận thức được vai trò
quan trọng của quyền tự do kinh doanh nên
dẫn đến vi phạm quyền tự do kinh doanh.
(v) Thách thức về kỹ thuật lập pháp:
Quyền con người nói chung và quyền tự do
kinh doanh nói riêng len lỏi vào trong nhiều
quan hệ và được ghi nhận ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Nếu kỹ thuật lập pháp
của quốc gia không cao sẽ dẫn đến việc
pháp luật không bảo vệ được quyền tự do
kinh doanh.
11 Xem Trung tâm WTO, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu tự do thương mại quốc tế ở Việt Nam,
tr. 8, (ngày 12/01/2018).
3. Phổ quát hóa quyền tự do kinh doanh
tại Việt Nam - Xu hướng tất yếu và
giải pháp
3.1. Phổ quát hóa quyền tự do kinh doanh
tại Việt Nam - Xu hướng tất yếu
Qua phân tích ở trên cho thấy, tự do
kinh doanh có một vai trò quan trọng tác
động tới tiến trình toàn cầu hóa. Trong đó,
tiến trình toàn cầu hóa là tất yếu nên phổ quát
hóa quyền tự do kinh doanh là xu hướng tất
yếu diễn ra trên phạm vi toàn cầu, khu vực
và ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trong lịch sử nền kinh tế Việt Nam,
hoạt động ngoại thương đã có từ lâu. Trong
thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung (năm
1978), Việt Nam đã tham gia vào Hội đồng
tương trợ kinh tế (khối SEV hoặc Council of
Mutual Economic Assistance –COMECON)
– một hình thức hỗ trợ thương mại và ngoại
thương giữa các nước thuộc khối xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, quan hệ này không mang
tính cạnh tranh kinh tế thuần túy, ít nhiều bị
ảnh hưởng bởi các quan hệ chính trị, tính
mệnh lệnh, hỗ trợ cao, được điều chỉnh bằng
các biện pháp hành chính là chủ yếu (giấy
phép xuất – nhập khẩu, yêu cầu hạn ngạch
cụ thể, chế độ tỷ giá riêng), do đó làm
méo mó bản chất thương mại của các quan
hệ này11.
Khi Việt Nam bước sang thời kỳ “Đổi
mới” năm 1986, với việc chuyển đổi nền
kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị
trường, hoạt động ngoại thương cũng bắt
đầu được đẩy mạnh, trên cơ sở từng bước
thiết lập quan hệ thương mại bình thường, đa
dạng hóa đối tác hơn nhiều so với trước đây.
Đầu những năm 90, Việt Nam khai thông lại
quan hệ với các thiết chế tài chính tiền tệ quốc
tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (International
Monetary Fund – IMF), Ngân hàng thế giới
(World Bank – WB), Ngân hàng phát triển
châu Á (Asian Development Bank - ADB)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 19(395) T10/2019
sau 15 năm gián đoạn (1976-1992). Sau đó,
Việt Nam cũng bắt đầu đẩy mạnh sự hiện
diện của mình trong các mô hình hợp tác
kinh tế quốc tế như tăng cường vai trò trong
Liên hợp quốc (mà Việt Nam đã là thành
viên từ năm 1977 nhưng sự tham gia khá
mờ nhạt), đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á
- Âu (ASEM) năm 1996, tham gia Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
(APEC) năm 199812.
Việt Nam cũng đồng thời tăng cường
quan hệ đối ngoại và liên kết quốc tế trong
nhiều lĩnh vực, trong đó có thương mại, với
các nước và tổ chức trên thế giới thông qua
việc ký kết các thỏa thuận, hiệp định, điều
ước quốc tế thiết lập quan hệ hợp tác và thừa
nhận lẫn nhau trong các khía cạnh cụ thể.
Xét trong khuôn khổ của tự do hóa
thương mại, với các cam kết cụ thể mở cửa
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư thì
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam được chính thức đánh dấu bằng việc
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), bình thường hóa quan hệ với
Hoa Kỳ năm 1995. Hai sự kiện này, diễn ra
đồng thời trong năm 1995, đã trở thành một
dấu mốc cực kỳ quan trọng, mở lối cho Việt
Nam hội nhập với nền kinh tế của các nước
trong khu vực và xây dựng quan hệ thương
mại bình thường với Hoa Kỳ và tiếp theo
đó là với tất cả các nước trên thế giới với
ảnh hưởng từ Hoa Kỳ. Nếu như xem việc
Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), bình thường hóa
quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995 là mốc đầu
tiên của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam thì tới nay quá trình này đã
đi được hơn hai thập kỷ. Trong thời gian
này, nhiều dấu mốc quan trọng đánh dấu
các bước hội nhập của Việt Nam đã được
thực hiện như tham gia Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN năm 1996, ký kết Hiệp định
12 Trung tâm WTO, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu tự do thương mại quốc tế ở Việt
Nam, tr. 8; truy cập ngày
30/05/2019.
thương mại song phương với Hoa Kỳ năm
2001, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
năm 2007, tham gia một loạt các Hiệp định
thương mại tự do khu vực trong khuôn khổ
ASEAN và ASEAN+ Quá trình hội nhập
đã thực sự mang lại những bước tiến quan
trọng của kinh tế Việt Nam trong phát triển
nội tại cũng như giúp Việt Nam trở thành
một thành tố của nền kinh tế thế giới.
Có thể nói, tự do thương mại quốc tế là
mục tiêu hướng tới của hệ thống thương mại
toàn cầu hiện nay. Là một nền kinh tế nhỏ,
đang trong giai đoạn chuyển đổi từ kinh tế
bao cấp sang kinh tế thị trường, và chỉ mới
hội nhập thực sự trong thời gian ngắn, hội
nhập kinh tế quốc tế và tự do thương mại
quốc tế là đòi hỏi, đồng thời cũng là thách
thức Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế
toàn cầu.
Cũng giống như thông lệ quốc tế, quá
trình tự do hóa thương mại quốc tế ở Việt
Nam được thể hiện qua các khía cạnh chủ
yếu là thương mại hàng hóa, thương mại dịch
vụ và đầu tư qua biên giới theo các nguyên
tắc tự do hóa đã được thừa nhận chung trên
thế giới. Trong ba thập kỷ trở lại đây có thể
xem là thời gian quá trình tự do hóa thương
mại ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ nhất từ
trước tới nay, với những dấu mốc và thành
tựu đặc biệt quan trọng với nền kinh tế. Việc
từng bước tham gia các Hiệp định, Thỏa
thuận thương mại song phương, đa phương
với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ đã giúp
các hoạt động thương mại xuyên biên giới
của Việt Nam được thuận lợi, các rào cản và
các rủi ro thương mại khác cũng được giảm
dần, loại bỏ. Mặc dù vậy, quá trình hội nhập
theo thời gian cũng cho thấy những hạn chế
nhất định. Điều này khiến cho quá trình tự
do hóa thương mại ở Việt Nam chưa đạt
được những lợi ích kỳ vọng và vì vậy trong
những nỗ lực tiếp tục tự do thương mại giai
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 19(395) T10/2019
đoạn tới cần được chú ý triển khai một cách
thực chất và hiệu quả hơn.
3.2 Giải pháp nhằm phổ quát hóa quyền tự
do kinh doanh tại Việt Nam
Để giải quyết những trở ngại khiến
quyền con người nói chung và quyền tự do
kinh doanh nói riêng gặp khó khăn trong quá
trình phổ quát; nói cách khác, để khoảng
cách giữa nguyên tắc (lý thuyết) và thực tiễn
của đảm bảo quyền con người cần tiến hành
những nội dung sau13: (1) nâng cao kiến thức
và nhận thức về quyền con người, trong quỹ
đạo chính phủ và phi chính phủ, và trong
các dân tộc khác nhau trong đó có các quốc
gia; (2) sự chấp nhận rộng rãi của các quyền
con người như là một cách liên hệ để xem
xét các vấn đề nhất định; (3) hoàn thiện và
thực thi các quy tắc nhân quyền; (4) khuyến
khích giải quyết các mối quan tâm xã hội;
và (5) việc thực hiện nhân quyền bằng mọi
phương tiện kinh tế, chính trị và pháp luật.
Việc phổ quát hóa quyền tự do kinh
doanh sẽ thúc đẩy sự chấp nhận của cộng
đồng đó là quyền phổ quát, và ngược lại nếu
không làm tốt quá trình phổ quát sẽ khiến
cho cộng đồng khó tiếp nhận và đồng ý rằng
quyền con người là quyền phổ quát.
Để hiện thực hóa và phổ quát hóa
quyền tự do kinh doanh, chúng ta cần phải
thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, tìm cách khắc phục trở ngại
về cơ cấu. Nói cách khác là dung hòa quyền
lợi giữa các nhóm người trong xã hội.
Thứ hai, thông qua pháp luật quốc gia
và các biện pháp hành chính bảo đảm việc
tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh
- quyền kinh tế của con người đã được quốc
tế thừa nhận.
Thứ ba, quan tâm hơn tới giáo dục về
13 Giải pháp được đưa ra bởi Ủy ban quốc tế về nhân quyền, xem Willem van Genugten (2013), “The universalisation of
human rights: reflections on obstacles and the way forward”, Tilburg Law School Legal Studies Research Paper Series,
No. 019, p. 216.
14 Xem Willem van Genugten (2013), “The universalisation of human rights: reflections on obstacles and the way for-
ward”, Tilburg Law School Legal Studies Research Paper Series, No. 019, p. 225.
quyền con người nói chung và quyền tự do
kinh doanh nói riêng.
Thứ tư, đầu tư nguồn lực nhằm bảo
đảm quyền tự do kinh doanh.
Thứ năm, có thể thức để nhận được sự
giúp đỡ hợp tác từ cá nhân, tổ chức và quốc
gia khác để bảo trợ cho quyền của con người
nếu họ bị xâm phạm quyền tự do kinh doanh.
Thứ sáu, tư tưởng của bản thân quốc
gia là tư tưởng mở, có nghĩa là sẵn sàng tiếp
nhận những tư tưởng tôn trọng tự do, dân
chủ.
Nhân quyền đã đi một chặng đường dài
và thường được coi là một trong những câu
chuyện thành công trong lĩnh vực luật pháp
quốc tế và quan hệ quốc tế kể từ Thế chiến
II. Mặc dù có những tranh cãi về khái niệm
và thực tiễn, và mặc dù cần phải vận hành
theo một cách kết hợp lý tưởng với nhiều
ý nghĩa của thực tiễn, thì không có gì nghi
ngờ rằng chúng ta đang ở giữa các quá trình
hiến pháp hóa và nhân đạo hoá trật tự kinh
tế và chính trị quốc tế, với các giá trị nhân
quyền dẫn đường14. Làm cho nhân quyền nói
chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng
trở nên phổ quát, có nghĩa là cân bằng trong
phạm vi quốc tế, đặc biệt chú trọng vào các
tiêu chuẩn tiên quyết của luật nhân quyền
quốc tế, và sử dụng tất cả các công cụ sẵn có
hoặc thông qua ngoại giao hoặc bất cứ hành
động nào khác có thể có cơ hội thực hiện để
thành công. Nhìn chung, phổ quát hóa là xu
hướng tất yếu xảy ra trên bình diện quốc gia
và quốc tế. Để quyền tự do kinh doanh trở
nên phổ quát - giá trị chung của nhân loại
thì phải có những giải pháp đồng bộ từ nhận
thức đến tiếp nhận tư tưởng, từ giải pháp vật
chất đến phi vật chất
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 19(395) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pho_quat_hoa_quyen_tu_do_kinh_doanh_trong_dieu_kien_hoi_nhap.pdf