Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay, khi
có các dấu hiệu gợi ý trên X quang ngực và CT
thông thường không khẳng định được chẩn
đoán, cần làm MSCTA hoặc MRI để có CĐ xác
định. MSCTA, MRI sẽ cho thấy nguồn gốc các
mạch máu của nhu mô phổi bệnh lý. Khi có hình
ảnh này việc CĐ là dễ dàng.
Một trường hợp trong số các BN của chúng
tôi được CĐ trước mổ là nhão cơ hoành và được
ghi nhận trong mổ có PBL kèm theo. Đây là
dạng bệnh lý phối hợp đã được ghi nhận trên y
văn thế giới(2,8), đặc biệt thể PBL ngoại thuỳ với
15 - 40% các trường hợp có tổn thương phối hợp
như thoát vị hoành, khe hở màng tim, kén phế
quản. Như vậy cần lưu ý phát hiện các tổn
thương phối hợp ở các BN có PBL và ngược lại,
đặc biệt ở những người trẻ.
ĐT PBL là ngoại khoa. Đây là quan điểm
được tất cả các tác giả đưa ra(1,2,4,5,6,7,8). Hơn nữa
cần phẫu thuật trước khi bệnh có biến chứng bởi
có thể có các biến chứng nặng nề dẫn đến tử
vong. Hầu hết các tác giả này đều cho rằng cắt
phần PBL trong thể ngoại thuỳ và thuỳ phổi
(lobectomie) có PBL trong thể nội thuỳ là
phương pháp tốt nhất trong ĐT PBL. Tuy nhiên
cắt phân thuỳ phổi (segmentectomie) cũng được
các tác giả(2) bàn luận tới. Cắt phân thuỳ phổi có
ưu điểm giữ lại được tổ chức phổi không tổn
thương tuy nhiên thường không dễ dàng vì ranh
giới vùng PBL không rõ ràng, hay dính do viêm
mạn, phẫu thuật dễ có các biến chứng như dò
khí kéo dài, nhiễm trùng, chảy máu sau mổ.
Trong 13 (92,9%) BN của chúng tôi được mổ cắt
thuỳ phổi đã không có các biến chứng lớn, hậu
phẫu đơn giản và kết quả mổ tốt cho đến hiện
tại. Chúng tôi cùng quan điểm cho rằng cắt thuỳ
phổi là phương pháp tốt nhất trong ĐT PBL.
Thắt ĐM đơn thuần hoặc gây tắc dưới chụp
mạch xâm lấn cũng được coi là một phương
pháp ĐT PBL. Tuy nhiên các tác giả(2,8) đều cho
rằng chỉ nên làm phẫu thuật này khi suy tim
nặng, toàn trạng BN không cho phép làm phẫu
thuật lớn, kéo dài. Khi còn tổ chức PBL sẽ còn
tồn tại nguy cơ gây biến chứng. Trong số nghiên
cứu của chúng tôi đã có 1 (7,1%) BN được làm
phẫu thuật thắt ĐM PBL đơn thuần và tiếp tục
được theo dõi.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phổi biệt lập: Nhân 14 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 366
PHỔI BIỆT LẬP: NHÂN 14 TRƯỜNG HỢP
Phạm Minh Ánh*, Nguyễn Đức Khuê*, Phan Quốc Hùng*, Nguyễn Đình Long Hải*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phổi biệt lập (PBL) là một khối tổ chức phổi không chức năng thiếu sự nối thông với cây khí phế
quản và nhận nguồn máu bất thường từ động mạch chủ. Mục đích nghiên cứu hướng đến các phương tiện chẩn
đoán và điều trị PBL.
Phương pháp: phân tích hồ sơ các ca PBL được mổ tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 2/2004 đến 2/2010. Các thể
bệnh, các phương tiện chẩn đoán và điều trị được bàn luận.
Kết quả: 14 ca PBL đã được mổ trong giai đoạn này. 71% (10/14) số ca là PBL nội thuỳ và 29% (4/14)
ngoại thuỳ. Vị trí PBL ở đáy phổi trong 100% ca. Chín ca (64,3%) được chẩn đoán bằng mở ngực. Trong 5 ca
(35,7%) còn lại chẩn đoán được gợi ý bởi hình ảnh X quang và khẳng định bằng chụp CT mạch máu dựng hình,
MRI. Phẫu thuật cắt thuỳ được làm trong hầu hết các trường hợp (92,9%). Thắt động mạch nuôi được tiến
hành trong 1 ca (7,1%). Các BN có tình trạng sau mổ tốt, không có tử vong.
Kết luận: Mặc dù hiếm gặp, các hình ảnh X quang và CT, MRI đủ để chẩn đoán xác định PBL. Phẫu thuật
cắt phần phổi tổn thương cho kết quả điều trị và tiên lượng lâu dài tốt.
Từ khóa: Phổi biệt lập
ABSTRACT
PULMONARY SEQUESTRATION: A REVIEW OF 14 CASES
Pham Minh Anh, Nguyen Duc Khue, Phan Quoc Hung, Nguyen Dinh Long Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 366 - 370
Objectives: Pulmonary sequestration (PS) is a developmental anomaly in which a mass of nonfunctioning
lung tissue lacks normal connection with the tracheobroncheal tree and receives an anomalous blood supply
originating from the aorta. The aim of this study was to assess the diagnostic tools and treatment for the PS.
Methods: We performed an analysis of cases of PS operated at the Cho Ray Hospital between Feb 2004 and
Feb 2010. A review of the types of PS, the diagnostic tools in this condition and the treatment are discussed.
Results: fourteen cases of PS were operated on in the defined time period. 71% (10/14) of the cases were
intralobar and 29% (4/14) extralobar. Localisation of PS was basal in 100%. In nine cases (64.3%), the diagnosis
was made by exploratory thoracotomy. In the other 5 cases (35.7%), diagnosis was evoked on chest X-ray and
confirmed by MSCTA, MRI. Lobectomy was the most common treatment procedure (92.9%). Ligature of the
artery of PS was performed in one (7.1%) case. Post-operative future was simple and morbidity was none.
Conclusions: Despite its rarity, some radiological features, CT and MRI are sufficiently confirmative of
diagnosis of PS. Resection of the involved lung leads to excellent results and highly favourable long-term
outcome.
Key words: Pulmonary sequestration.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phổi biệt lập (PBL) (hay còn gọi là phổi biệt
trí) là bệnh lý bẩm sinh hiếm gặp của phổi, một
khối tổ chức phổi dạng đặc hoặc túi không có
* Khoa phẫu thuật lồng ngực, BV. Chợ Rẫy,
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Minh Ánh ĐT: 0913560956 Email: phamminhanhcr@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 367
chức năng, không nối thông với cây khí phế
quản và được cấp máu bởi hệ thống ĐM bất
thường có nguồn gốc từ ĐMC, chiếm khoảng
6% các bệnh phổi bẩm sinh(2). Các thống kê trên
thế giới về PBL hầu hết chỉ có số liệu báo cáo
nhân một số ít trường hợp. Tại Việt Nam, chúng
tôi chưa thấy có báo cáo nào cũng như tài liệu
tiếng Việt về vấn đề này. PBL có thể có các biến
chứng nặng nề và nguy hiểm nếu không được
CĐ đúng và kịp thời.
Vì hiếm gặp, việc CĐ và ĐT PBL còn nhiều
vấn đề chưa được biết rộng rãi và cần bàn luận.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích
đưa ra một vài kinh nghiệm CĐ và ĐT cho các
BN này để tránh những sai sót đáng tiếc có thể
xảy ra trong quá trình ĐT bệnh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu các
BN được CĐ xác định PBL trong mổ bằng ghi
nhận các ĐM nuôi thuỳ phổi bất thường có
nguồn gốc từ ĐMC.
Tổng kết các dữ liệu nghiên cứu trên lâm
sàng như tuổi, giới, các triệu chứng, kết quả cận
lâm sàng, CĐ (trước và sau mổ), phương pháp
phẫu thuật, kết quả phẫu thuật, theo dõi sau mổ.
Từ các kết quả nghiên cứu rút ra các nhận
định, đánh giá để có các kết luận áp dụng cho
lâm sàng trong CĐ và ĐT PBL.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 2/2004 đến 2/2010 đã có 14 BN được CĐ
sau mổ PBL, trong đó có 5 nam (chiếm 35,7%) và
9 nữ (64,3%), tuổi nhỏ nhất 16, lớn nhất 68, trung
bình 36,36 (độ lệch chuẩn = 17,72). Với các triệu
chứng được mô tả trong Bảng 1.
Bảng 1: Triệu chứng
Triệu chứng Số BN (n=14) Tỷ lệ %
Ho 10 71,4
Ho khan 5 35,7
Ho Máu 4 28,6
Ho đờm 1 7,1
Đau ngực 6 42,9
Sốt 2 14,3
Không triệu chứng 2 14,3
Các dấu hiệu cận lâm sàng được thống kê
trong Bảng 2.
Bảng 2: Dấu hiệu cận lâm sàng
Cận lâm sàng và kết quả Số BN (n = 14) Tỷ lệ %
Nội soi phế quản 8 57,1
Bình thường 3 21,7
Chèn ép phế quản từ ngoài 2 14,2
Chảy máu phế quản 2 14,2
Đờm đọng phế quản 1 7,1
X quang ngực 14 100
Bóng mờ đáy phổi 11 78,6
Cơ hoành cao 1 7,1
Bình thường 2 14,2
CT 14 100
Khối đặc choán chỗ 12 85,7
Khoang khí - dịch 1 7,1
Hoành trái cao 1 7,1
MSCTA, MRI 5 35,7
ĐM nuôi phổi nguồn từ ĐMC 5 35,7
CĐ được tóm tắt trong Bảng 3.
Bảng 3: Chẩn đoán
Chẩn đoán Số BN (n=14) Tỷ lệ %
Trước mổ 14 100
PBL 5 35,7
U phổi 3 21,4
Áp xe phổi 1 7,1
Khoang dịch khoang màng
phổi
2 14,2
Kén phế quản 1 7,1
Dãn phế quản 1 7,1
Nhão và thoát vị cơ hoành 1 7,1
Trong mổ 14 100
Vị trí PBL
Đáy phổi trái 9 64,3
Đáy phổi phải 5 35,7
PBL nội thuỳ 10 71,4
PBL ngoại thuỳ 4 28,6
Kích thước ĐM nuôi nhỏ nhất: 5 mm, lớn
nhất: 10 mm. 13/14 (92,9%) BN được mổ cắt thuỳ
PBL, 1/14 (7,1%) được thắt ĐM nuôi PBL. Thời
gian nằm viện sau mổ trung bình 8 ngày, không
có các biến chứng lớn, không tử vong. Theo dõi
sau ra viện không có gì đặc biệt.
BÀN LUẬN
Theo y văn, 75% PBL có ĐM xuất phát trực
tiếp từ ĐMC ngực - bụng, 25% từ ĐM dưới
đòn, vú trong, liên sườn, thân tạng, lách thận,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 368
vị mạc nối(8). Hệ thống tĩnh mạch thường là hệ
thốg tĩnh mạch phổi thông thường. Một số
trường hợp tĩnh mạch của PBL đổ về các tĩnh
mạch của hệ tĩnh mạch chủ(7). Hầu hết PBL
nằm ở đáy phổi. PBL gồm 2 thể là PBL nội
thuỳ và PBL ngoại thuỳ. PBL nội thuỳ, chiếm
khoảng 2/3 các trường hợp(1,8), là khối tổn
thương nằm trong nhu mô phổi bình thường,
được màng phổi tạng bao phủ chung với thuỳ
phổi bình thường. Thể này có thể gặp 2 bên
phổi, cả nam và nữ, thường không phối hợp
với các tổn thương bẩm sinh khác.
PBL ngoại thuỳ, khoảng 1/3 các trường hợp,
là khối tổn thương nằm ngoài tổ chức phổi bình
thường và có màng phổi bao bọc riêng. Thể này
chỉ gặp ở bên trái(1) và 80% ở nam, rất thường có
các tổn thương bẩm sinh khác phối hợp như
thoát vị cơ hoành, khe hở màng tim...(8).
Biến chứng của PBL hay tiến triển của nó
thường dẫn đến tình trạng nhiễm trùng, chảy
máu (ra khoang màng phổi hoặc ho máu), suy
tim (shunt trong phổi), lao, nấm phổi, ung thư
(3,8)... Để tránh các biến chứng này, việc CĐ và
ĐT PBL cần kịp thời, chính xác.
Nghiên cứu của chúng tôi tại bệnh viện
Chợ Rẫy, nơi thu nhận BN từ các tỉnh phía
nam, trong 6 năm có 14 BN PBL, tuổi nhỏ nhất
16 và lớn nhất 68 với tuổi trung bình 36,36. Các
báo cáo khác tại các bệnh viện lớn trên thế giới
số lượng BN PBL cũng không lớn: Kabiri(2)
trong 8 năm ĐT cho 5 trường hợp, Vodicka(7)
trong 25 năm có 5 BN, Halkic(5) tổng kết trong
38 năm có 26 BN. Về tuổi cũng không có sự
khác biệt với các báo cáo khác (2,5,7). Như vậy
mặc dù là bệnh bẩm sinh, biểu hiện bệnh và
bệnh được ĐT là khá muộn.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 35,7% (5/14)
các trường hợp được CĐ đúng trước mổ. Tuy
nhiên đây không phải là ngoại lệ bởi các tác giả
nước ngoài cũng gặp khó khăn trong CĐ: Hầu
hết các báo cáo(2,5,6,7) về PBL đều là các nghiên
cứu hồi cứu và có tỷ lệ mở ngực CĐ khá cao.
Các BN PBL đến viện với các triệu chứng (Bảng
1) nghèo nàn, không đặc hiệu, là các triệu chứng
chung (ho, đau ngực) của nhiều bệnh lý hô hấp
khác. Đây chính là nguyên nhân có thể làm bỏ
qua CĐ trên lâm sàng. Hơn nữa các phương tiện
CĐ cận lâm sàng thông thường như X quang
phổi, nội soi phế quản, đo chức năng hô hấp
(Bảng 2) cũng không cho những dấu hiệu đặc
hiệu. Những đám mờ đáy phổi trên hình ảnh X
quang thông thường có thể nhầm lẫn CĐ viêm
phổi, u phổi... Một số trường hợp thấy hình ảnh
mức dịch - khí vùng đáy phổi, do tổn thương áp
xe hoá lâu ngày dò qua phế quản(2) có thể nhầm
lẫn với áp xe phổi nguyên phát hay kén phế
quản. Nội soi phế quản không cho các hình ảnh
trực tiếp tổn thương để CĐ mà chỉ có các hình
ảnh gián tiếp như chèn ép từ ngoài (2/8 BN,
Bảng 2), chảy máu phế quản (2/8), hoặc có kết
quả bình thường (3/8). Tuy nhiên vì PBL chỉ khu
trú ở đáy phổi, đặc biệt phân thuỳ đáy sau
(100% các BN của chúng tôi có tổn thương vùng
S10), nên theo chúng tôi nếu tổn thương nằm ở
những vùng này cần nghĩ đến PBL. Các tác
giả(2,4,5,7,8) đều nhận thấy rằng X quang phổi và
nội soi phế quản chỉ có giá trị gợi ý cho CĐ và
cần làm tiếp các phương pháp CĐ hình ảnh
khác tập trung phát hiện hình ảnh nguồn gốc
bất thường (từ ĐMC) của ĐM nuôi tổ chức phổi
bệnh lý để CĐ xác định PBL.
Chụp ĐM qua da cho kết quả CĐ tốt nhất
các bất thường mạch máu. Trong CĐ PBL,
phương tiện này cũng có giá trị hữu ích. Một số
báo cáo(2,5,7) vẫn thực hiện phương tiện này trong
nghiên cứu và coi đây là tiêu chuẩn CĐ vàng
PBL. Tuy nhiên chụp ĐM qua da là một phương
pháp CĐ xâm lấn, gây đau và có thể có biến
chứng nặng nề. Vì thế nhờ những tiến bộ trong
CĐ hình ảnh, những năm gần đây, nhiều tác giả
(4,6) đã báo cáo sử dụng chụp CT, MSCTA, MRI
để thay thế chụp ĐM qua da thông thường.
Theo các tác giả này, 90% các ca bệnh có thể
được phát hiện bằng chụp CT thông thường.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% BN được
chụp CT hoặc MRI nhưng chỉ có 35,7% (những
BN được chụp MSCTA hoặc MRI, xem Bảng 3)
được CĐ đúng trước mổ. Những BN không
được chụp MSCTA hoặc MRI đã bị CĐ nhầm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 369
(9/14, chiếm tỷ lệ 64,3%, xem Bảng 3) là u phổi,
áp xe phổi, khoang dịch màng phổi, kén phế
quản, là những bệnh lý thường gặp.
Chúng tôi cho rằng nguyên nhân của tỷ lệ
CĐ đúng trước mổ còn thấp là bệnh lý PBL còn
chưa được thường xuyên nghĩ đến trên lâm
sàng (do ít gặp?). Quá trình hồi cứu các hồ sơ
BN PBL cho chúng tôi thấy nhiều hình ảnh CT
thông thường khá điển hình của PBL đã bị bỏ
qua. Theo các tác giả(2,4,5,6,7), hình ảnh trên CT có
thuốc cản quang của PBL là khối phổi xẹp, đôi
khi trong khối tổn thương có hình mức dịch -
khí, có ranh giới, khu trú vùng trên cơ hoành -
đáy phổi, phía sau trong, có các mạch máu lớn
vùng trung tâm, có thể thấy nguồn gốc các
mạch máu này xuất phát từ ĐMC. Thực tế
trong mổ chúng tôi ghi nhận ĐM nuôi PBL khá
lớn, từ 0,5 đến 1cm và có thể nhận biết ĐM này
trên phim CT thông thường khá dễ dàng trong
khối tổn thương, đôi khi thấy gốc của ĐM PBL
từ ĐMC ngay cả khi không có MSCTA. Chúng
tôi cho rằng trong nhiều trường hợp CT ngực
thông thường có thuốc cản quang có đủ cơ sở
để CĐ xác định PBL.
Theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay, khi
có các dấu hiệu gợi ý trên X quang ngực và CT
thông thường không khẳng định được chẩn
đoán, cần làm MSCTA hoặc MRI để có CĐ xác
định. MSCTA, MRI sẽ cho thấy nguồn gốc các
mạch máu của nhu mô phổi bệnh lý. Khi có hình
ảnh này việc CĐ là dễ dàng.
Một trường hợp trong số các BN của chúng
tôi được CĐ trước mổ là nhão cơ hoành và được
ghi nhận trong mổ có PBL kèm theo. Đây là
dạng bệnh lý phối hợp đã được ghi nhận trên y
văn thế giới(2,8), đặc biệt thể PBL ngoại thuỳ với
15 - 40% các trường hợp có tổn thương phối hợp
như thoát vị hoành, khe hở màng tim, kén phế
quản. Như vậy cần lưu ý phát hiện các tổn
thương phối hợp ở các BN có PBL và ngược lại,
đặc biệt ở những người trẻ.
ĐT PBL là ngoại khoa. Đây là quan điểm
được tất cả các tác giả đưa ra(1,2,4,5,6,7,8). Hơn nữa
cần phẫu thuật trước khi bệnh có biến chứng bởi
có thể có các biến chứng nặng nề dẫn đến tử
vong. Hầu hết các tác giả này đều cho rằng cắt
phần PBL trong thể ngoại thuỳ và thuỳ phổi
(lobectomie) có PBL trong thể nội thuỳ là
phương pháp tốt nhất trong ĐT PBL. Tuy nhiên
cắt phân thuỳ phổi (segmentectomie) cũng được
các tác giả(2) bàn luận tới. Cắt phân thuỳ phổi có
ưu điểm giữ lại được tổ chức phổi không tổn
thương tuy nhiên thường không dễ dàng vì ranh
giới vùng PBL không rõ ràng, hay dính do viêm
mạn, phẫu thuật dễ có các biến chứng như dò
khí kéo dài, nhiễm trùng, chảy máu sau mổ.
Trong 13 (92,9%) BN của chúng tôi được mổ cắt
thuỳ phổi đã không có các biến chứng lớn, hậu
phẫu đơn giản và kết quả mổ tốt cho đến hiện
tại. Chúng tôi cùng quan điểm cho rằng cắt thuỳ
phổi là phương pháp tốt nhất trong ĐT PBL.
Thắt ĐM đơn thuần hoặc gây tắc dưới chụp
mạch xâm lấn cũng được coi là một phương
pháp ĐT PBL. Tuy nhiên các tác giả(2,8) đều cho
rằng chỉ nên làm phẫu thuật này khi suy tim
nặng, toàn trạng BN không cho phép làm phẫu
thuật lớn, kéo dài. Khi còn tổ chức PBL sẽ còn
tồn tại nguy cơ gây biến chứng. Trong số nghiên
cứu của chúng tôi đã có 1 (7,1%) BN được làm
phẫu thuật thắt ĐM PBL đơn thuần và tiếp tục
được theo dõi.
KẾT LUẬN
PBL là một bệnh lý bẩm sinh hiếm gặp của
phổi, có các triệu chứng lâm sàng không đặc
hiệu như ho, ho máu, đau ngực. CĐ được gợi ý
khi có hình ảnh khối mờ hoặc dịch - khí đáy
phổi trên phim X quang ngực thông thường. CĐ
xác định PBL bằng CT, MRI với sự hiện diện của
ĐM nuôi vùng tổn thương đáy sau phổi có
nguồn gốc từ ĐMC. ĐT PBL là ngoại khoa, phẫu
thuật cắt thuỳ phổi tổn thương cho kết quả tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bruce M. Schnapt (2009): Pulmonary Sequestration, Emedicine,
11/6/2009, [Link:
]
2. H. Kabiri, M. Smahi (2000): Les Sequestrations Pulmonaires A
Propos de 5 Cas. Medecine du Maghreb, 2000 n°83
3. Khalid Kamal, Ibrahim Abdulhamid, Renato Roxas Jr,
Michael D Klein, C M Shahbaz Sarwar, Jeff L Myers (2009):
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 370
Congenital Lung Malformations. 2009. [Link:
]
4. M.Michel, D.Isart (2004): Sequestration Pulmonaire. La Presse
Médicale, Vol 33, N 12 - C1, Juillet 2004.
5. N. Halkic, P.F Cuénuod, M.E. Corthésy (1998): Pulmonary
sequestration: a review of 26 cases. European Journal of Cardio -
Thoracic Surgery, Vol., Issue 2, page 127-133 (August 1998)
6. Samir Jethwa: Bronchopulmonary Sequestration. [Link:
LearningRadiology
m].
7. Vodicka J, Spidlen V, Tauchman A, Chud¸cek Z, Ferda J,
Mukensnabl P: Intralobar pulmonary sequestration. Zentralbl
Chir. 2003 Nov;128(11) :977-80.
8. Wikipedia(2010): Pulmonary sequestration, 18/6/2010, [Link:
]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phoi_biet_lap_nhan_14_truong_hop.pdf