Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các quy định pháp luật về lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Các quy định hiện nay về hợp đồng, vấn đề
chi phí môi giới, dịch vụ, tiền dịch vụ mà
doanh nghiệp xuất khẩu lao động thoả thuận
với NLĐ cần sửa đổi theo hướng chặt chẽ
và cụ thể hơn. Bên cạnh đó, cần bổ sung
quy định để quản lý hình thức liên kết giữa
doanh nghiệp xuất khẩu lao động và cá nhân
hoặc tổ chức trực tiếp tuyển lao động để đảm
bảo nghĩa vụ pháp lý của các cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức này, để minh bạch hóa
hoạt động xuất khẩu lao động. Đặc biệt cần
có chế tài xử phạt đủ mạnh đối với những
doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm
pháp luật. Pháp luật hiện nay chỉ quy định
duy nhất trường hợp NLĐ được bồi thường
thiệt hại do doanh nghiệp xuất khẩu lao động
gây ra. Thực tế, trường hợp NLĐ bị tai nạn
lao động, bị phá hợp đồng. do lỗi của phía
sử dụng lao động nước ngoài cũng cần quy
định chế tài xử phạt cụ thể, nghiêm minh.
Bên cạnh đó, để đảm bảo vai trò của doanh
nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài, cần quy định doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ xuất khẩu lao động ký quỹ thế
chấp để khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng đến
quyền lợi NLĐ, Chính phủ sẽ sử dụng quỹ
này để hỗ trợ quyền lợi cho NLĐ.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp
giữa các bộ ngành, chính quyền địa phương,
cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt
Nam ở nước ngoài trong hoạt động kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật về NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài, bảo đảm phát hiện
và ngăn chặn kịp thời tình trạng người Việt
Nam ở nước ngoài bị lạm dụng, cưỡng bức
lao động.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền pháp luật lao động, quyền của NLĐ;
công khai rộng rãi thông tin về doanh nghiệp
có giấy phép đưa NLĐ Việt Nam ra nước
ngoài làm việc; buộc doanh nghiệp có giấy
phép đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm
việc phải công khai, minh bạch điều kiện,
thủ tục, mức phí, tiền lương, chế độ đối với
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phòng, chống cưỡng bức lao động cho lao động di trú theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Phú Hà*
* ThS. Viện Nghiên cứu Lập pháp
Theo định nghĩa của Công ước Liên
hiệp quốc về Bảo vệ quyền của tất cả người
lao động di trú và các thành viên gia đình họ
(1990), người lao động (NLĐ) di trú là chỉ
một người đã, đang và sẽ làm một công việc
có hưởng lương tại một quốc gia mà người
đó không phải là công dân.
Tóm tắt:
Lao động di trú là loại lao động dễ phát sinh lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc, bởi vì đặc thù của lao động này là lao động đi làm
việc ở nước ngoài - môi trường làm việc có sự khác biệt so với môi
trường làm việc tại chính nước họ (từ ngôn ngữ, văn hóa, tập quán,
các mối quan hệ lao động, cộng đồng...). Pháp luật lao động Việt
Nam đã bao hàm nhiều quy định bảo vệ quyền của người lao động
di trú, phòng, chống lao động cưỡng bức cho lao động di trú. Trong
điều kiện hiện nay, để đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền của người lao
động di trú, phòng, chống lao động cưỡng bức, chúng ta cần phải
tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
Abstract
Migrant labourers are the type of the one that may be easy to
be the forced or compulsory labour, because the characteristics of
this labour are the one to seek working abroad where the working
environment is different from the one in their own country (from
language, culture, customs, labor relations, community ...).
Vietnam law on labours covers several provisions on the protection
of migrant labourer's rights and the prevention of forced labouring
for the migrant labourers. In the current context, in order to meet
the protection of the rights of migrant labourers and against forced
labour, it needs to continue reviewing the law on labours for further
improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: lao động di trú, cưỡng bức
lao động
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 29/10/2018
Biên tập : 07/11/2018
Duyệt bài : 15/11/2018
Article Infomation:
Keywords: migrant labourer; forced
labourers
Article History:
Received : 29 Oct. 2018
Edited : 07 Nov. 2018
Approved : 15 Nov. 2018
PHÒNG, CHỐNG CƯỠNG BỨC LAO ĐỘNG
CHO LAO ĐỘNG DI TRÚ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM1
1 Bài viết sử dụng kết quả của Đề tài NCKH cấp bộ: “Lao động cưỡng bức - Tiêu chuẩn quốc tế, pháp luật và thực tiễn ở
Việt Nam” do ThS. Lê Phú Hà làm chủ nhiệm.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 22(374) T11/2018
Lao động di trú là loại lao động dễ phát
sinh lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, bởi
vì đặc thù của lao động này là lao động đi
làm việc ở nước ngoài - môi trường làm việc
có sự khác biệt so với môi trường làm việc
tại chính nước họ từ ngôn ngữ, văn hóa, tập
quán, các mối quan hệ lao động, cộng đồng.
Vì vậy, NLĐ khó thích nghi với điều kiện
mới, dễ bị lạm dụng, cưỡng bức, quyền lợi
của họ dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập
khẩu lao động không được quy định chặt
chẽ, không có những cam kết cụ thể, chi
tiết của doanh nghiệp sử dụng lao động và
giám sát của cơ quan nước sở tại. Mặt khác,
không ít NLĐ đi làm việc ở nước ngoài thất
vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ
người nên bỏ trốn, ra ngoài làm việc tự do,
dễ dẫn đến việc bị áp đặt, đe dọa và cưỡng
bức lao động.
Liên quan đến vấn đề lao động di trú,
pháp luật Việt Nam hiện nay điều chỉnh hai
lĩnh vực cụ thể là lao động nước ngoài làm
việc tại Việt Nam và lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
1. Thứ nhất, về lao động nước ngoài
làm việc tại Việt Nam, tính đến tháng 5/2016,
cả nước có tổng số 82.585 lao động là người
nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam2.
Pháp luật Việt Nam quy định về lao
động nước ngoài tại Bộ luật Lao động
(BLLĐ) năm 20123 và Nghị định 11/2016/
NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của
BLLĐ về lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam. Ngoài ra, Luật Nhập cảnh, xuất
cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài
2 Số liệu công bố của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội tại cuộc họp mặt với báo giới nhân Kỷ niệm 91 năm Ngày
Báo chí cách mạng Việt Nam ngày 21/6/2016.
3 Khoản 1 Điều 169 BLLĐ năm 2012.
4 Theo quy định của 172 BLLĐ năm 2012, những NLĐ thuộc trường hợp sau đây không thuộc diện cấp phép lao động:
1. Là thành viên góp vốn hoặc là chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn.
2. Là thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần.
3. Là Trưởng văn phòng đại diện, dự án của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam.
4. Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ.
tại Việt Nam năm 2014, Luật Đấu thầu năm
2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
cũng có các quy định liên quan. Theo đó,
người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
là “công dân nước ngoài” (xác định bởi hai
yếu tố “quốc tịch” và “tư cách công dân”) và
đưa ra các điều kiện của công dân nước ngoài
vào làm việc tại Việt Nam: “a) Có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ; b) Có trình độ chuyên
môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu
cầu công việc; c) Không phải là người phạm
tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật Việt Nam và pháp
luật nước ngoài; d) Có giấy phép lao động
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trừ
các trường hợp theo quy định”. BLLĐ năm
2012 còn quy định chỉ được tuyển dụng lao
động là công dân nước ngoài đối với công
việc quản lý, giám đốc điều hành, chuyên
gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt
Nam chưa đáp ứng được theo nhu cầu sản
xuất kinh doanh và phải giải trình nhu cầu
sử dụng và được sự chấp thuận của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Đối với tất cả các
trường hợp NLĐ nước ngoài vào Việt Nam
làm việc theo hợp đồng lao động thì bắt
buộc phải có giấy phép lao động, phải xuất
trình giấy phép lao động khi làm thủ tục liên
quan đến xuất, nhập cảnh và khi có yêu cầu,
không có giấy phép lao động sẽ bị trục xuất.
Người sử dụng lao động (NSDLĐ) chịu
trách nhiệm về điều kiện giấy phép, nếu bị
phát hiện sử dụng công dân nước ngoài làm
việc cho mình không có giấy phép lao động
sẽ bị xử lý. Thời hạn của giấy phép lao động
cho NLĐ nước ngoài tại Việt Nam không
quá 2 năm4.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 22(374) T11/2018
Thực tế cũng cho thấy, hầu như không
có trường hợp lao động nước ngoài bị cưỡng
bức hoặc bắt buộc lao động tại Việt Nam.
Bởi vì, phần lớn người nước ngoài vào Việt
Nam làm việc là các chuyên gia trong các
lĩnh vực hoặc tự nguyện làm việc tại Việt
Nam. Quy trình tuyển dụng đối với NLĐ
nước ngoài làm việc tại Việt Nam được quy
định khá chặt chẽ, nghiêm ngặt và lao động
nước ngoài phải có giấy phép lao động tại
Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam
đang tồn tại một hiện tượng rất nhiều doanh
nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp Trung Quốc và Đài Loan, sử dụng
lao động nước ngoài nhưng không có giấy
phép lao động. Những NLĐ nước ngoài này
nhập cảnh theo hình thức du lịch, được các
doanh nghiệp, tổ chức tuyển vào làm thời
vụ, giao kết hợp đồng lao động và làm việc ở
doanh nghiệp, tổ chức khi chưa có giấy phép
lao động. Chính quy định người nước ngoài
làm việc có thời hạn dưới 3 tháng không
cần xin cấp giấy phép lao động đã tạo kẽ
hở cho các doanh nghiệp, tổ chức lợi dụng.
Thực tế, các doanh nghiệp, tổ chức không
khai báo việc sử dụng lao động thời vụ trước
bảy ngày theo quy định thì cơ quan quản
lý nhà nước cũng không thể làm gì được.
Bên cạnh đó, còn có một số nhà thầu nước
ngoài nhận thi công các dự án như dự án
cải thiện môi trường nước, các dự án xây
dựng cầu đường sử dụng một lực lượng
chuyên gia, lao động phổ thông hùng hậu
nhưng các ngành chức năng không theo dõi,
quản lý được. Đây là những điều kiện cho
việc cưỡng bức lao động, lạm dụng lao động
phát sinh.
5. Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh
làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia
nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được.
6. Là luật sư nước ngoài đã được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy định của Luật Luật sư.
7. Theo quy định của Điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên.
8. Là học sinh, sinh viên học tập tại Việt Nam làm việc tại Việt Nam nhưng NSDLĐ phải báo trước 07 ngày với cơ quan
quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
9. Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
Để khắc phục những bất cập nêu trên,
chúng tôi cho rằng:
- Cần sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật đối với lao động nước ngoài tại
Việt Nam. Trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và Cộng đồng ASEAN, căn cứ vào
thực tế lao động nước ngoài tại Việt Nam thì
việc dần dần phải loại bỏ các rào cản, tiến
tới mở cửa thị trường lao động là xu hướng
không thể tránh khỏi. Chính sách đối với
NLĐ nước ngoài làm việc tại Việt Nam cần
được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển
nguồn nhân lực quốc gia: một mặt, cần có
cơ chế khuyến khích, chào đón những nhân
sự có trình độ cao gia nhập thị trường lao
động Việt Nam phục vụ mục tiêu hiện đại
hóa đất nước; mặt khác, cần hình thành một
“bộ lọc tốt” để những lao động phổ thông,
chất lượng thấp của nước ngoài không thể
thẩm thấu vào thị trường nội địa.
- Cần sửa đổi, bổ sung quy định cấp
giấy phép đối với lao động nước ngoài làm
việc có thời hạn dưới 3 tháng để đảm bảo
quản lý và giám sát được đội ngũ lao động
này, tránh để xảy ra tình trạng cưỡng bức lao
động phát sinh.
2. Thứ hai, về lao động Việt Nam làm
việc tại nước ngoài, theo báo cáo của Hiệp
hội Xuất khẩu lao động Việt Nam (VAMAS),
năm 2016, Việt Nam có tổng số 126.296 lao
động đi làm việc ở nước ngoài.
Việt Nam đã ban hành Luật NLĐ Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng năm 2006 và các văn bản hướng dẫn
thực hiện luật. Chính sách của Nhà nước về
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 22(374) T11/2018
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài là Nhà nước
Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để công
dân Việt Nam có đủ điều kiện đi làm việc ở
nước ngoài, bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp
của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài và của
doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài, hỗ trợ đầu tư mở thị
trường lao động mới, thị trường có thu nhập
cao, thị trường tiếp nhận nhiều NLĐ; hỗ
trợ đào tạo cán bộ quản lý, dạy nghề, ngoại
ngữ cho NLĐ, có chính sách tín dụng ưu đãi
cho các đối tượng chính sách xã hội đi làm
việc ở nước ngoài, đồng thời khuyến khích
đưa nhiều NLĐ có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật đi làm việc ở nước ngoài, đưa NLĐ
đi làm việc ở thị trường có thu nhập cao;
khuyến khích đưa NLĐ đi làm việc tại công
trình, dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh do
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trúng thầu,
nhận thầu, đầu tư thành lập ở nước ngoài.
Nhằm bảo vệ NLĐ Việt Nam ở nước
ngoài, chống bị lạm dụng lao động cưỡng
bức, pháp luật Việt Nam có những quy định
cụ thể về xuất khẩu lao động. Điều này được
thể hiện rất rõ trong BLLĐ năm 2012, Luật
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng năm 2006 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Theo đó, trước khi đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo quy định
của pháp luật, doanh nghiệp xuất khẩu lao
động phải công bố công khai các tiêu chuẩn
điều kiện tuyển chọn, quyền lợi và nghĩa vụ
của NLĐ; phải tổ chức việc đào tạo, giáo
dục định hướng cho người lao động; phải
ký hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với
NLĐ; tổ chức cho NLĐ đi và về nước theo
đúng hợp đồng đã ký và quy định của pháp
luật; quản lý và bảo vệ quyền lợi của NLĐ
trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở
nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam
và pháp luật nước sở tại; phải bồi thường
thiệt hại cho NLĐ do doanh nghiệp vi phạm
hợp đồng gây ra; NLĐ có quyền được cung
cấp các thông tin liên quan tới chính sách,
pháp luật về lao động, điều kiện tuyển dụng,
thời hạn hợp đồng, loại công việc sẽ làm và
nơi làm việc, điều kiện làm việc, sinh hoạt,
tiền lương, tiền làm thêm giờ và các phụ cấp
khác (nếu có), chế độ bảo hiểm, quyền lợi,
nghĩa vụ của NLĐ làm việc ở nước ngoài
và những thông tin cần thiết khác theo hợp
đồng cung ứng lao động. Ngoài ra, NLĐ còn
được đào tạo, giáo dục định hướng trước khi
đi làm việc ở nước ngoài, được đảm bảo
quyền lợi trong hợp đồng đã ký theo quy
định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước
sở tại và được bảo hộ về lãnh sự và tư pháp.
Bên cạnh đó, họ cũng có quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện với cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam hoặc của nước sở tại về các vi
phạm của doanh nghiệp xuất khẩu lao động
và NSDLĐ nước ngoài, được bồi thường
thiệt hại do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng
gây ra.
Để phòng, chống lạm dụng xuất khẩu
lao động nhằm mục đích trục lợi, bóc lột,
cưỡng bức lao động, pháp luật Việt Nam
quy định khá chặt chẽ về điều kiện cũng
như quy trình và thủ tục đưa NLĐ Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài. Trước hết, hoạt
động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài là ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện. Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài phải có vốn
pháp định theo quy định của Chính phủ và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
giấy phép hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài. Pháp luật quy định
doanh nghiệp được cấp giấy phép phải trực
tiếp tổ chức hoạt động dịch vụ đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài, không được ủy
quyền cho doanh nghiệp khác trực tiếp tổ
chức hoạt động này. Tuy nhiên, trên thực tế
vẫn còn tồn tại trường hợp người môi giới
mượn danh một doanh nghiệp để tuyển lao
động, sau đó "bán" lại nguồn cho doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp
còn ký "hợp đồng liên kết" tuyển chọn qua
người đại diện tại các địa phương, trích cho
họ một khoản tiền gọi là phí tạo nguồn. Mặc
dù, Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng nghiêm cấm doanh
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 22(374) T11/2018
nghiệp tuyển qua môi giới nhưng lại không
quy định về hình thức liên kết này, do vậy
những tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp
ủy quyền tuyển lao động đã có những hành
vi vượt quá thẩm quyền, tuyển, đào tạo và
thu tiền của NLĐ. Môi giới, cò mồi cũng
sinh ra từ đây. Vì thế, hầu như không có lao
động Việt Nam nào muốn đi làm việc tại
nước ngoài được xuất cảnh với đúng mức
phí quy định. Nhưng do mức lương làm việc
tại nước ngoài được trả cao nên một số NLĐ
vẫn chấp nhận trả chi phí cho cò mồi, thậm
chí nhiều lao động nghèo ở nông thôn phải
đi vay nợ để trả chi phí cho những cò mồi
này. Hệ lụy của nó là sau khi NLĐ được đi
làm việc tại nước ngoài, họ phải chấp nhận
làm những công việc không như cam kết,
buộc phải làm thêm ngoài giờ, chấp nhận
làm việc bất hợp pháp trong những điều kiện
không được bảo vệ để có tiền gửi về trang
trải nợ nần đã vay trước đó. Chính điều đó
dẫn đến việc NLĐ Việt Nam dễ bị lạm dụng,
cưỡng bức lao động.
Báo chí và các phương tiện thông tin
đại chúng đã phản ánh rất nhiều về hiện
tượng NLĐ phải bỏ ra một chi phí lớn để đi
xuất khẩu lao động rồi sau đó, vì gánh nặng
tài chính, họ lại chấp nhận mọi điều kiện
để kiếm tiền bên nước ngoài kể cả việc bị
cưỡng bức lao động, đặc biệt là tại một số thị
trường lao động như Đài Loan, Hàn Quốc,
Ba Lan... Lấy ví dụ thị trường xuất khẩu lao
động Đài Loan: theo quy định, mức phí đối
với NLĐ đi làm việc tại Đài Loan tối đa là
4.500 USD/người/hợp đồng 3 năm trong các
ngành công nghiệp, trong đó phí môi giới
không quá 1.500 USD; không quá 3.800
USD/người/hợp đồng 3 năm khi đi làm việc
trong gia đình và chăm sóc sức khỏe, trong
đó phí môi giới tối đa không quá 800 USD.
5 H.Bình (2012), Thông tin thêm về vụ 6 lao động nữ VN làm việc khổ sai tại Đài Loan,
Trang web của Công ty cổ phần Tư vấn du học và dịch thuật OSC,
content&view=article&id=1892:thong-tin-them-v-v-6-lao-ng-n-vn-lam-vic-kh-sai-ti-ai-loan&catid=298:ngi-lao-ng--
ai-loan&Itemid=587, 29/03/2012.
Theo quy định, mức phí đi làm công nhân
nhà máy và xây dựng với hợp đồng 3 năm tại
Đài Loan là 4.500 USD/hợp đồng; nghề giúp
việc gia đình, chăm sóc sức khỏe là 3.600
USD/hợp đồng. Tuy nhiên, theo số liệu điều
tra thực tế của Ủy ban Lao động Đài Loan,
mức phí NLĐ Việt Nam phải nộp trung bình
từ 5.000-6.000 USD; thậm chí rất nhiều lao
động phải nộp tới 7.000 USD. Đây là một số
tiền quá lớn đối với những gia đình ở vùng
nông thôn Việt Nam. Tiền đi vay để chi cho
môi giới quá lớn đã đẩy NLĐ vào hoàn cảnh
bị chủ sử dụng lao động đánh đập, ngược
đãi, cưỡng bức. Ngày 04/10/2011, Tòa án tối
cao Đài Loan đã tổ chức xét xử vụ án 6 lao
động nữ Việt Nam bị chủ sử dụng lao động
cưỡng bức lao động. Tại Trung tâm Dưỡng
lão và Nhà hộ lý - Thành phố Cao Hùng, Đài
Loan do hai vợ chồng ông Lâm Hồng Khôn
và bà Ngô Tịnh Huệ làm chủ, 6 lao động
nữ Việt Nam đã bị ép buộc, cưỡng bức lao
động ngoài giờ làm việc với các công việc
như: lau, rửa xác chết, đào huyệt, bốc mộ...
nhưng 6 lao động này không được tính tiền
tăng ca theo quy định của Đài Loan (50 Đài
tệ/1 giờ tăng ca)5.
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng quy định rõ về
trách nhiệm và cơ chế phối hợp của các
cơ quan nhà nước đối với hoạt động xuất
khẩu lao động nhằm bảo vệ NLĐ tránh bị
lạm dụng khi làm việc ở nước ngoài. Theo
đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về NLĐ đi làm việc ở nước ngoài;
Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 22(374) T11/2018
hội thực hiện quản lý nhà nước về NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài theo sự phân công
của Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp
có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước
về NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo sự
phân cấp của Chính phủ. Ngoài ra, pháp luật
còn quy định trách nhiệm của cơ quan đại
diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước
ngoài trong việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp
pháp của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài;
xử lý hành vi vi phạm của NLĐ đi làm việc
ở nước ngoài theo quy định của Luật NLĐ
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng; nghiên cứu, tìm hiểu thị trường,
chính sách và phương thức tiếp nhận lao
động nước ngoài của nước sở tại và thông
tin, hướng dẫn các doanh nghiệp tiếp cận
thị trường để ký kết Hợp đồng cung ứng lao
động theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
của nước sở tại.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý cũng như
phối hợp của các Bộ, ngành có liên quan
trong lĩnh vực này còn thiếu đồng bộ và
chậm. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu lao động đã không thực hiện đúng
và đầy đủ các nghĩa vụ của họ sau khi đi đưa
NLĐ đi xuất khẩu lao động. Thực tế, ngày
càng có nhiều người tham gia xuất khẩu
lao động phải đối mặt với rủi ro, bị đối xử
không công bằng, bị lạm dụng; thậm chí bị
bóc lột, cưỡng bức lao động, làm việc trong
điều kiện tồi tệ với mức lương thấp nhưng
lại không nhận được sự hỗ trợ kịp thời. Vì
vậy, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của NLĐ
Việt Nam ở nước ngoài nói chung, phòng,
chống lao động cưỡng bước đối với người
Việt Nam ở nước ngoài nói riêng, chúng tôi
cho rằng, cần thực hiện một số giải pháp
sau đây:
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các quy định pháp luật về lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Các quy định hiện nay về hợp đồng, vấn đề
chi phí môi giới, dịch vụ, tiền dịch vụ mà
doanh nghiệp xuất khẩu lao động thoả thuận
với NLĐ cần sửa đổi theo hướng chặt chẽ
và cụ thể hơn. Bên cạnh đó, cần bổ sung
quy định để quản lý hình thức liên kết giữa
doanh nghiệp xuất khẩu lao động và cá nhân
hoặc tổ chức trực tiếp tuyển lao động để đảm
bảo nghĩa vụ pháp lý của các cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức này, để minh bạch hóa
hoạt động xuất khẩu lao động. Đặc biệt cần
có chế tài xử phạt đủ mạnh đối với những
doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm
pháp luật. Pháp luật hiện nay chỉ quy định
duy nhất trường hợp NLĐ được bồi thường
thiệt hại do doanh nghiệp xuất khẩu lao động
gây ra. Thực tế, trường hợp NLĐ bị tai nạn
lao động, bị phá hợp đồng... do lỗi của phía
sử dụng lao động nước ngoài cũng cần quy
định chế tài xử phạt cụ thể, nghiêm minh.
Bên cạnh đó, để đảm bảo vai trò của doanh
nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài, cần quy định doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ xuất khẩu lao động ký quỹ thế
chấp để khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng đến
quyền lợi NLĐ, Chính phủ sẽ sử dụng quỹ
này để hỗ trợ quyền lợi cho NLĐ.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp
giữa các bộ ngành, chính quyền địa phương,
cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt
Nam ở nước ngoài trong hoạt động kiểm tra,
giám sát việc thực hiện pháp luật về NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài, bảo đảm phát hiện
và ngăn chặn kịp thời tình trạng người Việt
Nam ở nước ngoài bị lạm dụng, cưỡng bức
lao động.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền pháp luật lao động, quyền của NLĐ;
công khai rộng rãi thông tin về doanh nghiệp
có giấy phép đưa NLĐ Việt Nam ra nước
ngoài làm việc; buộc doanh nghiệp có giấy
phép đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm
việc phải công khai, minh bạch điều kiện,
thủ tục, mức phí, tiền lương, chế độ đối với
NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 22(374) T11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_chong_cuong_buc_lao_dong_cho_lao_dong_di_tru_theo_phap.pdf