Trong lĩnh vực xử lý và khắc phục
hậu quả của ô nhiễm biển từ các nguồn
(trong đó có từ tàu), Việt Nam cần nhanh
chóng soạn thảo và ban hành một văn bản
pháp lý quốc gia về trình tự thủ tục tố tụng
giải quyết tranh chấp khi phát sinh các khiếu
nại hàng hải, trong đó có khiếu nại về bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm biển từ dầu. Vì
chưa có một văn bản pháp lý chuyên môn
như vậy, mọi tranh chấp về ô nhiễm biển
hoàn toàn được điều chỉnh theo các quy
định hữu quan của Bộ luật Tố tụng Dân sự
Việt Nam, điều này có thể tạo ra những bất
cập, hạn chế nhất định trong thực tiễn giải
quyết tranh chấp, vì loại hình vụ kiện đòi
bồi thường thiệt hại liên quan đến hoạt động
trên biển có tính đặc thù quan trọng, đặc biệt
là các vụ kiện liên quan đến sự cố tràn dầu
từ tàu trên phạm vi rộng. Tính đặc thù này
được coi là nét định hướng cơ bản trong quá
trình xây dựng một Bộ luật Tố tụng Hàng
hải, nếu có nhu cầu, với sự thành lập một
tòa án chuyên trách giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực hàng hải quốc tế, trong đó có
tranh chấp về ô nhiễm biển từ tàu. Đây hoàn
toàn là một vấn đề có tính thực tế, khi chủ
thể tham gia các vụ tranh chấp này không
phải là ít, như chủ tàu, công ty bảo hiểm,
chủ hàng, quốc gia nơi xảy ra ô nhiễm biển
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường biển từ việc thực hiện quyền tự do hàng hải của tàu thuyền nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Hoạt động bảo vệ ô nhiễm môi trường biển từ việc thực hiện quyền
tự do hàng hải của tàu thuyền nước ngoài trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam đòi hỏi khung pháp lý đầy đủ và thực thi các
quy định của pháp luật có hiệu quả. Từ thực trạng ô nhiễm xảy ra
trong vùng đặc quyền kinh tế, bài viết viết tập trung tìm hiểu các
quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về phòng ngừa và khắc
phục ô nhiễm môi trường biển từ việc thực hiện quyền tự do hàng
hải của tàu thuyền nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Bài viết đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
phòng ngừa, khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường trong vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hà Thanh Hòa*
* ThS. NCS. GV. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
The protection of the marine environment from the exercise
of the freedom of navigation activities of the foreign vessels in
the exclusive economic zone of Viet Nam requires a full legal
framework and efficient enforcement of the law. From the
actual situation of pollution occurring in the exclusive economic
zone, this article puts the reviews of the legal provisions of
international laws and of Vietnam on the prevention and remedy
of the marine environmental pollution from the exercise of the
freedom of the navigation activities of the foreign vessels in the
exclusive economic zone of Vietnam. This article also provides
recommendations to improve the effectiveness of preventing and
remedying the consequences of the environmental pollution in
Vietnam's exclusive economic zone.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: ô nhiễm môi trường, đặc
quyền kinh tế, pháp luật quốc tế, pháp
luật Việt Nam.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/05/2018
Biên tập : 25/05/2018
Duyệt bài : 01/06/2018
Article Infomation:
Keywords: environmental pollution;
exclusive economics; international
laws; Vietnamese laws.
Article History:
Received : 14 May 2018
Edited : 25 May 2018
Approved : 01 Jun 2018
TỪ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN TỰ DO HÀNG HẢI CỦA TÀU THUYỀN NƯỚC NGOÀI
TRONG VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
PHÒNG NGỪA VÀ KHẮC PHỤC Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
1. Thực trạng ô nhiễm biển từ tàu tại
Việt Nam
Trên phạm vi toàn cầu, ô nhiễm biển
từ tàu là vấn đề mà cộng đồng quốc tế rất
quan tâm, vì đây là nguồn gây ô nhiễm có
thể nhận thấy nhanh chóng và rõ ràng, mà
nguyên nhân chính là do va chạm, quá trình
bốc dỡ và tai nạn đắm tàu. Trong thực tiễn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 12(364) T6/2018
hàng hải quốc tế, các tai nạn hàng hải gây
đắm tàu có thể gây ô nhiễm biển từ tràn
dầu rất nghiêm trọng, đặc biệt là các tai nạn
đắm tàu của các tàu chở dầu chuyên dụng.
Trong lịch sử hàng hải quốc tế, vụ tàu Torrej
Canyôn gặp nạn năm 1964 và tàu Amaco
Cadix năm 1965 đã đổ xuống biển hàng
trăm nghìn tấn dầu. Chỉ trong vòng 10 năm
từ 1973 đến 1982 đã có 379 vụ tai nạn tràn
dầu tổng lượng tràn là khoảng 1,9 triệu tấn
dầu ra biển1. Từ đó cho đến nay, hiểm họa
tràn dầu từ tàu vẫn là nỗi ám ảnh thường trực
của nhân loại, nỗi ám ảnh của “thủy triều
đen” được tạo ra từ các tai nạn đắm tàu chở
dầu nói trên.
Đối với Việt Nam, thực trạng ô nhiễm
biển từ tàu (chủ yếu là dầu) cũng không có
gì khá hơn. Theo số liệu thống kê, từ năm
1987 đến nay đã xảy ra hơn 90 vụ tràn dầu
ở Việt Nam, gây ra những tổn thất nghiêm
trọng cho hệ sinh thái và nguồn tài nguyên
sinh vật ở các vùng biển, ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế
và sự ổn định của xã hội. Tại vùng biển quần
đảo Trường Sa và khu vực biển có tuyến
hàng hải quốc tế, hàm lượng dầu trong nước
biển thuộc loại cao, chỉ sau vịnh Bắc Bộ2.
Qua nghiên cứu ảnh chụp vệ tinh, có thể
thấy nhiều vệt dầu loang trên các tuyến hàng
hải quốc tế dọc hải phận Việt Nam. Đây là
lượng dầu thoát ra từ tàu chở dầu (thải chức
năng) chiếm tới 0,7% tải trọng của tàu trong
quá trình vận chuyển thông thường. Ngoài
ra, các vụ tai nạn hàng hải gây ra tràn dầu
cũng đã được ghi nhận, như:
- Tháng 9 năm 2001, tàu Formosa
(Liberia) đâm vào tàu Petrolimek 01 (Việt
Nam) làm tràn 1.000 m3 dầu, gây ô nhiễm tại
vịnh Gành Rỏi - Vũng Tàu.
1 Handbook on Marine Pollution, E.Gold, trang 134.
2 Báo cáo đề tài cấp Nhà nước KT03 - 21 (1991 - 1995).
3
4 Bài “Tiếp tục giải mã vụ tràn dầu”, Báo điện tử Tuoitreonline.
- Năm 2003, tàu Hồng Anh (Việt
Nam), chở 600 tấn dầu từ Cát Lái đi Vũng
Tàu, bị sóng đánh chìm làm dầu tràn gây ô
nhiễm vùng biển Cần Giờ.
- Tháng 10 năm 2007, tàu New Oriental
bị đắm ở vùng biển Tuy An (Phú Yên), dầu
loang trên biển có diện tích khoảng 25 ha.
- Tháng 11/2017, 9 tàu chở hàng bị
chìm và mắc cạn do bão số 12 đánh bật vào
vùng biển Quy Nhơn (Bình Định), sau khi bị
va đập hoặc bị chìm, dầu từ các tàu này đã
loang ra vùng biển Quy Nhơn3.
Như vậy, có thể thấy rằng, ô nhiễm
biển từ tàu có hoạt động dầu khí là một trong
những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra ô
nhiễm các vùng biển, nhưng đây không phải
là nguyên nhân duy nhất gây ô nhiễm môi
trường biển của nước ta. Theo các cơ quan
chức năng, dọc đường bờ biển Việt Nam đã
xuất hiện các vệt dầu loang không rõ nguồn
gốc và nguyên nhân. Theo nhận định của
các chuyên gia, khả năng “thủ phạm” gây
tràn dầu tại khu vực biển Đông có thể là các
giàn khoan khai thác dầu của Việt Nam hoặc
nước ngoài, dầu theo dòng hải lưu hoặc gió
mùa dạt vào bờ biển Việt Nam4. Bên cạnh
đó, cũng có thể do các dàn khoan khi dỡ bỏ
không khai khác, các miệng dầu không được
bịt kín làm dầu tràn gây ô nhiễm môi trường
biển xung quanh.
Điểm nhấn cuối cùng cho bức tranh
toàn cảnh về thực trạng ô nhiễm biển Việt
Nam, cụ thể là vùng đặc quyền kinh tế là
khu vực có tuyến hàng hải quốc tế sầm uất
đi qua cùng với các hoạt động thăm dò,
hoạt động khai thác dầu khí, hoạt động vận
chuyển thương mại, khai thác thủy sản
đã tập trung một lượng tàu thuyền sử dụng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 12(364) T6/2018
vùng biển Đông là rất lớn. Lượng chất thải
chức năng là không hề nhỏ (không kể dầu)
và gây ô nhiễm môi trường biển các vùng
biển này, nơi tập trung hoạt động hàng hải
ở mức độ cao. Đây là các chất thải và rác từ
tàu được đổ bộ xuống biển từ tàu. Ngoài ra,
tại các vùng biển Việt Nam, kể cả vùng đặc
quyền kinh tế còn tiềm ẩn các hiểm họa gây
ô nhiễm từ tàu, khi tàu thuyền vận chuyển
các chất lỏng và các chất thải độc hại hay rác
thải phóng xạ
Đối diện với thực trạng ô nhiễm biển
ngày càng tăng, đặc biệt là ô nhiễm biển từ
tàu khi thực hiện quyền tự do hàng hải tại
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nước
ta đã nhanh chóng xây dựng và ngày càng
hoàn thiện, hoàn chỉnh một định chế pháp
lý nhằm ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm
biển từ các nguồn nói chung và từ tàu nói
riêng. Kết quả là khả quan, tuy nhiên trong
quá trình áp dụng các quy định pháp lý của
định chế này đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết
và bất cập cần bổ sung và sửa đổi cho phù
hợp với thực tế Việt Nam hiện nay, quá trình
chỉnh sửa này phải dựa trên cơ sở nghiên
cứu, phân tích và tổng hợp nội dung pháp lý
của định chế ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm
môi trường biển từ tàu khi sử dụng quyền tự
do hàng hải.
2. Định chế pháp lý về ngăn chặn và khắc
phục ô nhiễm biển từ tàu khi sử dụng
quyền tự do hàng hải tại vùng đặc quyền
kinh tế Việt Nam.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển
đặc thù, có quy chế pháp lý hỗn hợp bao
gồm tổng thể các quy định luật quốc tế và
luật quốc gia điều chỉnh các vấn đề có liên
quan đến vùng biển này, trong đó có vấn
đề bảo vệ môi trường (BVMT). Các quy
định pháp lý quốc tế được coi là nền tảng
xác định các khuôn khổ và hành lang pháp
lý cho hoạt động của các quốc gia, còn quy
định luật quốc gia phải được định hình, cụ
thể và chi tiết hóa trên nền tảng này, không
được vượt quá không gian pháp lý do luật
quốc tế ấn định, nghĩa vụ tuân thủ này của
quốc gia là một trong các nội dung pháp lý
của nguyên tắc Pacta sunt servanda. Trong
lĩnh vực BVMT biển, các quy định pháp lý
có thẩm quyền điều chỉnh cũng có đặc trưng
học thuật như vậy.
a. Các quy định luật quốc tế
Các quy định của Công ước Luật biển
1982.
Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS
1982) là điều ước quốc tế (ĐƯQT) đa
phương toàn cầu quan trọng nhất về biển,
đây được coi là “bản hiến pháp về biển và
đại dương”, đồng thời cũng là một ĐƯQT
có vai trò tích cực trong lĩnh vực BVMT
biển. Công ước đã dành toàn bộ Phần XII
quy định vấn đề BVMT biển. Liên quan đến
nguồn ô nhiễm biển từ tàu thuyền khi thực
hiện quyền tự do hàng hải, Mục 6 công ước
đã xác định các biện pháp ứng phó ô nhiễm
và giới hạn khi áp dụng đối với nguồn ô
nhiễm này, đồng thời mục 7 ghi nhận các
hình thức bảo đảm mà các quốc gia áp dụng
trong trường hợp một con tàu có hành vi gây
ô nhiễm môi trường khi thực hiện quyền tự
do hàng hải tại vùng đặc quyền kinh tế và
biển cả.
Dựa trên cơ sở các quy tắc chung nêu
trên, Công ước Luật biển 1982 đã có các quy
định cụ thể sau đây về BVMT biển của vùng
đặc quyền kinh tế:
- Mỗi quốc gia ven biển, trong vùng
đặc quyền kinh tế của mình có thể ban hành
các luật và quy định nhằm ngăn chặn, hạn
chế và kiểm soát ô nhiễm do tàu thuyền gây
ra tại vùng biển này. Tuy nhiên, công ước
nhấn mạnh nội dung các luật và quy định
này phải phù hợp với các tiêu chuẩn và
chuẩn mực chung của luật quốc tế, được xây
dựng thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm
quyền hoặc tại hội nghị ngoại giao. Trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 12(364) T6/2018
trường hợp đặc biệt, khi quốc gia ven biển
có lý do chính đáng cho rằng, một khu vực
được xác định rõ trong vùng đặc quyền kinh
tế của mình cần phải được tiến hành các biện
pháp ngăn chặn ô nhiễm từ tàu (vì lý do kỹ
thuật, đặc điểm hải dương học và sinh thái
học của khu vực), thì tổ chức quốc tế liên
quan có thẩm quyền có thể quyết định cho
quốc gia hữu quan thông qua các luật và quy
định nhằm ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm
do tàu thuyền gây ra trên cơ sở các quy
phạm, tập quán riêng áp dụng cho khu vực
đặc biệt này. Thời hạn tổ chức quốc tế đưa ra
quyết định là 12 tháng kể từ ngày nhận được
thông báo của quốc gia có liên quan.
- Để phòng ngừa ô nhiễm môi trường
biển từ tàu thuyền khi thực hiện quyền tự do
hàng hải, công ước quy định quốc gia ven
biển có thẩm quyền tài phán trong lĩnh vực
bảo vệ và gìn giữ môi trường, cụ thể là vùng
đặc quyền kinh tế5. Quy định này có nghĩa
là quốc gia ven biển có quyền tiến hành các
thủ tục tố tụng cần thiết để thực hiện quyền
tài phán quốc gia đối với các tàu thuyền có
hành vi gây ô nhiễm môi trường khi thực
hiện quyền tự do hàng hải trong vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia ven biển. Thẩm
quyền này bao trùm lên các lĩnh vực hình
sự, dân sự và hành chính phụ thuộc vào tính
chất cũng như mức độ gây thiệt hại của tàu
thuyền vi phạm.
- Khi một tàu thuyền tự ý có mặt trong
cảng hay một công trình cảng cuối cùng
ngoài khơi, quốc gia có cảng có thể tiến
hành khởi tố bất kỳ vi phạm nào đối với các
luật và quy định mà mình đã thông qua theo
đúng công ước hay theo đúng các quy tắc,
các quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm
ngăn ngừa, hạn chế và kiểm soát ô nhiễm do
tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra
trong vùng đặc quyền kinh tế hay lãnh hải
5 Khoản 1 Điều 56 Công ước Luật biển 1982.
của quốc gia. Mặt khác, khi quốc gia có lý
do xác đáng cho rằng một con tàu đi trong
vùng đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải
của mình đã vi phạm các quy tắc, các quy
phạm quốc tế, quốc gia này có thể yêu cầu
con tàu cung cấp các thông tin liên quan cần
thiết đến lý lịch và cảng đăng ký của tàu,
cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu
và các thông tin thích hợp khác nhằm xác
định một vụ vi phạm đã xảy ra hay không.
- Khi một quốc gia có chứng cứ rõ ràng
về một chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền
kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã gây
ra trong vùng đặc quyền kinh tế vụ vi phạm
gây ra hoặc nguy cơ gây ra những tổn thất
nghiêm trọng cho vùng duyên hải hay các
lợi ích, các nguồn tài nguyên của lãnh hải
hay vùng đặc quyền kinh tế, thì quốc gia có
thể sẽ tiến hành khởi tố, ra lệnh bắt giữ con
tàu theo đúng luật quốc gia của mình. Đây
là quyền hạn tài phán cao nhất của quốc gia
chỉ được áp dụng khi ô nhiễm môi trường ở
vùng đặc quyền kinh tế là nghiêm trọng do
hành vi của tàu gây ra khi hoạt động hàng
hải trong khu vực đặc quyền kinh tế hoặc
lãnh hải của quốc gia.
Qua nghiên cứu, ta nhận thấy các quy
định về ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi
trường đặc quyền kinh tế của Công ước Luật
biển 1982 có tính chất chung, ràng buộc các
quốc gia hữu quan (quốc gia có tàu, quốc
gia ven biển, quốc gia có cảng) vào một
nghĩa vụ chung BVMT biển đặc quyền kinh
tế, khi tàu thuyền nước ngoài hoạt động tại
các vùng biển dựa trên nguyên tắc tự do
hàng hải.
Các ĐƯQT chuyên môn
Đây là các công ước quốc tế chuyên
về ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi
trường biển nói chung (trong đó bao gồm cả
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 12(364) T6/2018
vùng đặc quyền kinh tế) từ tàu thuyền khi
hoạt động trên biển. Cùng với Công ước
Luật biển 1982, các ĐƯQT chuyên môn này
đã hình thành một hệ thống hoàn chỉnh các
tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về phòng ngừa ô
nhiễm biển từ tàu và khắc phục hậu quả của
vấn đề ô nhiễm này.
Trước hết cần phải kể đến Công ước
1973 về ngăn chặn ô nhiễm biển từ tàu được
chỉnh lý bổ sung bằng Nghị định thư 1978.
Công ước này còn được gọi là Công ước
MARPOL 73/78. Công ước nghiêm cấm
không được thải đổ không chỉ dầu mà cả
chất thải có dầu, chất độc hại từ tàu Công
ước có hiệu lực từ năm 1983. Mục đích của
công ước là ngăn chặn việc ô nhiễm biển
từ việc thải chức năng của tàu, và cả một
phần từ các giàn di động và trạm cố định
trên biển.
Công ước Marpol có các phụ lục kèm
theo, trong đó phụ lục 1 về “ngăn chặn ô
nhiễm biển do dầu, ghi nhận các tiêu chuẩn
và danh mục các chất thải loại từ tàu, theo
quy định tổng lượng thải loại không quá
1/30.000 trọng tải của tàu. Phụ lục 2 về
“kiểm soát ô nhiễm biển do chất lỏng độc
hại” áp dụng cho các tàu vận chuyển các
chất gây ô nhiễm không phải là dầu. Phụ lục
này ghi nhận và chia thành 4 loại chất tùy
theo mức độ độc hại với các giới hạn phù
hợp có thể thải xuống biển. Phụ lục 4 và 5
quy định những giới hạn cho phép thải bỏ
các chất thải và rác từ tàu, những giới hạn
này được thể hiện ở các điều kiện cho phép
thải bỏ, như: khoảng cách từ tàu tới bờ biển,
tốc độ của tàu
Công ước MARPOL 73/78 dành cho
các quốc gia thành viên quyền hạn rộng rãi
trong việc kiểm soát các tàu nước ngoài.
Công ước đảm bảo cho quốc gia có cảng
quyền kiểm tra tàu nước ngoài, nếu có lý
do nghi vấn rằng tàu đó đã vi phạm gây ô
nhiễm môi trường biển thuộc quyền tài phán
của các quốc gia khác. Cần lưu ý rằng, Công
ước MARPOL 73/78 không điều chỉnh
các trường hợp chủ ý đổ thải và nhấn chìm
các chất thải và vật liệu khác. Vấn đề này
thuộc thẩm quyền điều chỉnh của Công ước
London 1972 về ngăn chặn ô nhiễm biển từ
chất thải và vật liệu khác.
Nhằm mục đích ngăn chặn ô nhiễm
biển do dầu lan truyên trên phạm vi lớn tại
các vùng biển, cộng đồng quốc tế đã soạn
thảo và thông qua được Công ước năm 1969
về can thiệp trên biển cả, trong các trường
hợp tai nạn dẫn đến ô nhiễm dầu, sau đó
được bổ sung bằng Nghị định thư năm 1973
đề cập đến việc can thiệp trong tai nạn ô
nhiễm biển từ các nguồn chất khác không
phải là dầu. Công ước này cho phép các quốc
gia ven biển được thông qua các biện pháp
cần thiết trong trường hợp tàu nước ngoài
bị nạn nhằm ngăn chặn hoặc giảm thiểu tác
dụng ô nhiễm đối với bờ biển và các lợi ích
của mình. Đây là sự can thiệp cần thiết, khi
tàu gặp nạn trên biển cả gây ô nhiễm và khả
năng ô nhiễm lan rộng trong môi trường
nước đe dọa bờ biển và lợi ích của quốc
gia. Việc áp dụng các biện pháp này được
tiến hành với điều kiện có sự thông báo sơ
bộ cho quốc gia mà tàu treo cờ. Tuy nhiên,
trong các trường hợp đặc biệt khẩn cấp các
biện pháp nêu trên có thể được áp dụng mà
không cần phải thông báo sơ bộ hoặc tham
vấn quốc gia mà tàu mang cờ. Trong bất kỳ
trường hợp nào, các hành vi thực hiện phải
tương xứng với thiệt hại phát sinh hoặc đe
dọa phát sinh trong thực tế.
Nghị định thư năm 1973 (có hiệu lực
năm 1983) đã mở rộng phạm vi áp dụng
của công ước. Theo quy định thì hiệu lực
của Công ước (sau khi được bổ sung) được
áp dụng cho việc giải quyết các vi phạm ô
nhiễm biển không chỉ từ dầu mà còn từ các
vật chất khác không phải là dầu. Một danh
mục các loại chất này đã được ghi nhận
trong phụ lục của Nghị định thư.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 12(364) T6/2018
Trong trường hợp sự cố tai nạn gây
ra ô nhiễm dầu cần phải áp dụng các biện
pháp can thiệp nhanh chóng và hiệu quả
nhằm giảm thiểu thiệt hại phát sinh, cộng
đồng quốc tế đã có Công ước năm 1990 về
đảm bảo ứng phó kịp thời và hợp tác quốc tế
chống ô nhiễm dầu. Công ước có mục đích
thực hiện các biện pháp cảnh bảo và bảo vệ
ngoại vi. Theo Điều 3 Công ước, mỗi quốc
gia phải đảm bảo tàu thuyền treo cờ nước
mình có kế hoạch ứng phó đặc biệt chống
ô nhiễm dầu. Các quốc gia có nghĩa vụ tiếp
nhận các biện pháp riêng lẻ hoặc tập thể phù
hợp với Công ước này và phụ lục của Công
ước về đảm bảo sẵn sàng ứng phó trong
trường hợp sự cố gây ra ô nhiễm dầu và đấu
tranh chống lại tai nạn này. Nghĩa vụ báo
cáo không chậm trễ về tai nạn gây ô nhiễm
cho IMO (Tổ chức Hàng hải quốc tế) được
ghi nhận, đồng thời trong Công ước cũng
thể hiện sự nhất trí của các nước thành viên
hợp tác và cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp
kỹ thuật và phương tiện khi được yêu cầu.
Trong lĩnh vực khắc phục hậu quả thiệt
hại do ô nhiễm biển từ dầu, cộng đồng quốc
tế đã thỏa thuận và ký kết được 2 công ước
quốc tế quan trọng. Công ước thứ nhất là
Công ước năm 1969 về trách nhiệm dân sự
đối với thiệt hại phát sinh từ ô nhiễm dầu đã
quy định trách nhiệm dân sự của chủ tàu do
ô nhiễm dầu từ tai nạn hàng hải tại các vùng
biển ven bờ và giới hạn của trách nhiệm.
Theo quy định, một tàu trọng tải dầu từ
2.000 tấn dầu hàng hóa trở lên phải có giấy
chứng nhận trách nhiệm dân sự của chủ tàu,
nếu không có giấy này thì tàu sẽ bị nghiêm
cấm không vào hoặc rời khỏi cảng biển của
bất kỳ quốc gia thành viên nào. Trong Nghị
định thư năm 1984 bổ sung Công ước đã
nâng cao mức trách nhiệm lên, đồng thời
mở rộng phạm vi áp dụng ra đến vùng đặc
quyền kinh tế.
Trong lần chỉnh lý vào năm 1992,
Công ước có sự thay đổi về phương thức và
đơn vị thanh toán bồi thường thiệt hại, đồng
thời nhấn mạnh chủ tàu không có quyền giới
hạn số tài sản của mình theo Công ước 1969,
nếu có chứng cứ chứng tỏ rằng thiệt hại phát
sinh là kết quả của hành vi (hành động hoặc
không hành động) được thực hiện với chủ
ý tạo ra thiệt hại như vậy, hoặc khi ý thức
được khả năng phát sinh thiệt hại, nhưng
vẫn tự ý thực hiện.
Công ước tiếp theo trong việc khắc
phục hậu quả ô nhiễm biển từ dầu là Công
ước quốc tế năm 1992 về thành lập quỹ
bồi thường thiệt hại quốc tế phát sinh từ ô
nhiễm biển từ dầu. Quỹ quốc tế này đảm bảo
sự bồi thường thiệt hại ở mức độ mà việc
bồi thường thiệt hại theo Công ước 1969
về trách nhiệm dân sự của chủ tàu (sau khi
được chỉnh lý năm 1992) là không đầy đủ.
Tuy nhiên, tổng số bồi thường được quỹ
thanh toán dựa trên cơ sở Công ước 1992,
không được vượt quá 135 triệu đơn vị thanh
toán. Mục đích của việc thành lập quỹ quốc
tế về bồi thường thiệt hại là bảo đảm sự bồi
thường cao nhất có thể được cho các chủ thể
nạn nhân của ô nhiễm dầu, đồng thời giảm
một phần gánh nặng tài chính cho chủ tàu,
qua đó bảo đảm sự phát triển ổn định, bền
vững của ngành vận tải hàng hải nói chung
và vận chuyển dầu nói riêng.
Ngoài các ĐƯQT đa phương toàn cầu
nói trên, các ĐƯQT đa phương khu vực, song
phương cũng là cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc BVMT biển, bao gồm cả vùng đặc
quyền kinh tế. Ở đây, có thể kể đến Tuyên
bố về Tăng cường an ninh an toàn và BVMT
trong eo biển Malaca, Tuyên bố Hợp tác đa
phương giữa Nhật Bản và Asean trong quan
hệ quốc tế, bao gồm cả quan hệ về bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Nhìn chung, các thỏa
thuận quốc tế khu vực hoặc song phương ở
lĩnh vực này chủ yếu nhằm vào việc BVMT
ở các khu vực biển đặc biệt quan trọng cho
kinh tế khu vực hoặc toàn cầu.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 12(364) T6/2018
b. Pháp luật Việt Nam về phòng ngừa
và khắc phục ô nhiễm biển
Trong quá trình đổi mới và hội nhập
kinh tế quốc tế, các vấn đề quốc tế có tính
toàn cầu cũng đã trở thành vấn đề hiện hữu
quan trọng đối với Việt Nam, trong đó có
vấn đề ô nhiễm môi trường. Nằm ở vị trí
giao lộ hàng hải quốc tế, là quốc gia xuất
khẩu dầu thô và nhập khẩu thành phẩm, vấn
đề ô nhiễm biển từ dầu tại vùng biển Việt
Nam là vấn đề quan trọng mà nước ta cần
giải quyết. Một hệ thống quy định về ngăn
chặn và khắc phục ô nhiễm biển đã được xây
dựng và hoàn thiện, các quy định này được
ghi nhận trong các văn bản pháp luật chung
và chuyên ngành của Việt Nam như sau:
- Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 2013 với tư cách là văn bản
chứa đựng tư tưởng pháp lý và chính trị có
giá trị cao nhất đã quy định: mọi người đều
có quyền được sống trong môi trường trong
lành và có nghĩa vụ BVMT (Điều 43); tổ
chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm
suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm
đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.
Đây là các quy định quan trọng được ghi
nhận trong Hiến pháp, là nền tảng hình thành
các luật và văn bản dưới luật về BVMT.
- Luật BVMT được ban hành năm
2014 dành một chương riêng quy định về
“BVMT biển và hải đảo”, bao gồm quy định
về nguyên tắc BVMT biển, bảo tồn và sử
dụng hợp lý tài nguyên biển, kiểm soát xử lý
ô nhiễm môi trường biển và tổ chức phòng
ngừa, ứng phó sự cố. So với quy định trong
Luật BVMT năm 2005 (BVMT biển được
quy định thành 1 mục) thì các quy định về
BVMT biển trong Luật BVMT năm 2014 đã
thể hiện rõ tầm quan trọng của việc tiến hành
kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục các sự cố ô
nhiễm môi trường biển, trong đó bao gồm cả
môi trường bị ô nhiễm từ dầu và các chất thải
khác. Mọi tổ chức, cá nhân khi thăm dò tìm
kiếm, khai thác và vận chuyển, tàng trữ và
chế biến dầu khí phải áp dụng các công nghệ
phù hợp, thực hiện đầy đủ các biện pháp cần
thiết để BVMT, có phương án phòng tránh rò
rỉ dầu, cũng như sự cố tràn dầu.
Trong lĩnh vực khắc phục ô nhiễm, luật
môi trường Việt Nam ghi nhận nguyên tắc:
“Người gây ô nhiễm phải bồi thường thiệt
hại, khắc phục hậu quả”. Nguyên tắc chuyên
ngành này được hình thành từ nguyên tắc
pháp luật chung “đã gây thiệt hại thì phải
bồi thường”.
- Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015
đã khẳng định bảo vệ, tái tạo, phát triển bền
vững môi trường biển gắn với bảo đảm kinh
tế là một nguyên tắc quan trọng và được thể
hiện trong 6 điều về BVMT biển của Luật
này. Bộ luật Hàng hải đã có nhiều quy định
cụ thể hóa các điều khoản của Công ước
MARPOL 73/78 về giấy chứng nhận phòng
ngừa ô nhiễm; việc kiểm tra, kiểm soát và
cấm vào cảng các tàu không đủ điều kiện
phòng ngừa ô nhiễm; việc kiểm tra, kiểm
soát và cấm vào cảng các tàu không đủ điều
kiện phòng ngừa ô nhiễm; nghĩa vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự bắt buộc về ô nhiễm môi
trường từ các tàu dầu (Điều 300). Đặc biệt,
Luật này quy định hành vi gây ô nhiễm biển
không được giới hạn trách nhiệm dân sự, khi
tàu gây ra sự cố tràn dầu việc truy cứu trách
nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại sẽ được
thực hiện theo Công ước về Trách nhiệm
dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu (CLC
69/72), nếu tàu gây ra sự cố tràn dầu là tàu
dầu và dầu tràn là dầu nặng khó phân hủy.
Bộ luật Hàng hải còn nhấn mạnh: việc khiếu
nại về môi trường là cơ sở phát sinh quyền
bắt giữ tàu biển (Điều 139 Mục 2, Chương
VI) để đảm bảo công tác quản lý và xử lý
kịp thời các hành vi gây ô nhiễm môi trường
biển Việt Nam.
- Luật Dầu khí Việt Nam năm 2013
quy định các chủ thể tham gia hoạt động dầu
khí phải sử dụng các kỹ thuật, công nghệ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 12(364) T6/2018
tiên tiến, tuân thủ các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo vệ tài nguyên, BVMT, an
toàn cho người và tài sản (Điều 4). Bên cạnh
đó, chủ thể phải có đề án BVMT và các biện
pháp ngăn ngừa BVMT (Điều 5). Các chủ
thể này phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về thiệt hại gây ra cho con người, tài
sản và môi trường. Đặc biệt phải khôi phục
nguyên trạng môi trường trước khi các hoạt
động trực tiếp hay gián tiếp tác động tới môi
trường gây ra thiệt hại.
- Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
quy định các cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác làm ô nhiễm môi trường gây ra thiệt
hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy
định, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm
môi trường không có lỗi. Trong trường hợp
chủ thể muốn từ bỏ quyền sở hữu mà việc
từ bỏ đó có thể làm ô nhiễm môi trường thì
việc từ bỏ đó cũng phải tuân theo các quy
định của pháp luật (Điều 249); khi sử dụng,
bảo quản, từ bỏ tài sản của mình, chủ sở hữu
phải tuân theo các quy định của pháp luật
về BVMT, nếu làm ô nhiễm môi trường thì
phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực
hiện các biện pháp để khắc phục hậu quả và
bồi thường thiệt hại. Như vậy, đối với các
vấn đề về ô nhiễm môi trường biển, nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại được xác định trong
trường hợp sử dụng nguồn nguy hiểm, trong
đó có thiệt hại phát sinh từ dầu. Ngoài ra,
luật này còn quy định cho phép áp dụng chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
để truy cứu trách nhiệm đối với hành vi xả,
thải, làm tràn dầu gây ô nhiễm môi trường.
- Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015
đã có các quy định cụ thể, rõ ràng hơn rất
nhiều về tội phạm môi trường. Cụ thể, các tội
phạm môi trường được quy định tại Chương
19 với 12 tội danh, trong đó có: tội gây ô
nhiễm môi trường (Điều 235); tội vi phạm
quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục
sự cố môi trường (Điều 237). Theo quy định
tại Điều 237, tùy vào mức độ của hành vi vi
phạm, các hành vi của cá nhân, pháp nhân
vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó,
khắc phục sự cố môi trường có thể bị phạt
tiền từ 50 triệu, thậm chí 10 tỷ đồng; hình
phạt tù có thể từ 6 tháng đến cao nhất là 7
năm tù (đối với cá nhân và pháp nhân) năm
đến 10 năm tùy thuộc vào mức độ gây thiệt
hại và tính chất hành vi vi phạm, ngoài ra
có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề liên quan đến lĩnh vực môi
trường và BVMT. Điểm mới của các quy
định về gây ô nhiễm môi trường trong Bộ
luật Hình sự năm 2015 đó là văn bản này đã
đưa ra con số định lượng để xác định mức độ
của hành vi vi phạm và hình phạt tương ứng
(Điều 235). Việc quy định như vậy sẽ đảm
bảo tính cụ thể, rõ ràng khi xác định mức độ
gây ô nhiễm để từ đó xác định khung hình
phạt phù hợp với chủ thể có hành vi gây ô
nhiễm môi trường. Như vậy quan điểm lập
pháp của Việt Nam đã thể hiện được sự tiến
bộ, phù hợp với các quy định của luật quốc
tế về BVMT, đảm bảo trừng trị nghiêm minh
các hành vi gây ô nhiễm môi trường của thể
nhân và pháp nhân tại Việt Nam.
- Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển
Việt Nam năm 2008 quy định: một trong
những nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu của
lực lượng vũ trang này là bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên và môi trường của đất
nước, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm môi
trường, bao gồm ô nhiễm biển từ dầu trên
các vùng biển thuộc quyền tài phán của
Việt Nam, như vậy bao gồm cả vùng đặc
quyền kinh tế theo đúng quy định của pháp
luật Việt Nam và các ĐƯQT mà chúng ta là
thành viên.
Ngoài các đạo luật nêu trên, vấn đề
ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm biển nói
chung và ô nhiễm dầu từ tàu nói riêng còn
được điều chỉnh ở các mức độ khác nhau
của Luật Thủy sản 2003, Luật Biển Việt
Nam 2012 và hàng loạt các nghị định, thông
tư, chỉ thị hữu quan khác
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
32 Số 12(364) T6/2018
Từ góc độ lập pháp, có thể khẳng định
rằng, một hệ thống các quy định pháp luật
Việt Nam về phòng chống và khắc phục ô
nhiễm biển đã được xây dựng và phát triển,
trong đó định chế về ngăn chặn và khắc
phục ô nhiễm biển từ tàu được đặc biệt quan
tâm, vì đây là loại hình ô nhiễm nguy hiểm
nhất trong các loại hình ô nhiễm biển. Điều
cần nhấn mạnh là hệ thống các quy định này
được ghi nhận trong các bộ luật Việt Nam
chuyên ngành, chứ không tập trung trong
một văn bản pháp luật cụ thể, đồng thời việc
thực hiện chúng được tiến hành dựa trên
các nghị định, thông tư, chỉ dẫn kèm theo
nhằm đảm bảo hiệu quả cho quá trình thực
thi và tuân thủ pháp luật. Trong quá trình
áp dụng vào thực tế, kết quả là đầy khích
lệ, nhưng đã xuất hiện các khiếm khuyết,
bất cập nhất định. Vì vậy việc hoàn thiện và
hoàn chỉnh hệ thống quy định pháp luật Việt
Nam về BVMT biển là cần thiết và phải tiến
hành ngay.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định
ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi
trường biển từ tàu
Nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động
BVMT biển từ tàu (một trong những nguồn
gây ô nhiễm biển nghiêm trọng), việc hoàn
thiện và hoàn chỉnh hệ thống các quy định
pháp lý về vấn đề này là cần thiết. Bởi vì
qua thực tế, luật Việt Nam đã bộc lộ những
khiếm khuyết và bất cập trong nội dung điều
chỉnh, còn thiếu và yếu các quy định được
chuyển hóa từ ĐƯQT, thủ tục bồi thường
thiệt hại chưa được quy định, các sự cố gây
ô nhiễm từ tàu (như tràn dầu) chỉ mới dừng
lại ở việc xử lý ngăn chặn, còn những vấn
đề khắc phục thiệt hại chưa được quan tâm
đúng mức, chưa đủ sức răn đe với các sự cố ô
6 Bạch Thị Nhã Nam, Bàn về việc xử lý đối với tội phạm pháp nhân gây ô nhiễm môi trường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
nhiễm biển từ tàu gây hậu quả nghiêm trọng.
Các quy định trong Bộ luật Hình sự 2015
đã có các quy định mang tính “định lượng”
để xác định mức độ nghiêm trọng của hành
vi phạm tội cũng như các chế tài phù hợp.
Tuy nhiên, mức độ tội phạm cần căn cứ vào
mức độ thiệt hại đối với môi trường, vì vậy
cần có hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp
nhân, đặc biệt đối với tội phạm môi trường
khi hành vi vi phạm có thể diễn ra trong
thời gian dài mới bị phát hiện, hoặc các chủ
thể thường không còn tồn tại hoặc đã rút về
nước (nhà đầu tư nước ngoài)6. Bên cạnh đó,
chúng ta chưa có cơ chế riêng về bồi thường
thiệt hại cũng như quy chế bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm dầu (theo Công ước CLC
69/92), mặc dù Việt Nam đã tham gia Công
ước này. Cuối cùng, Việt Nam chưa tham
gia các công ước quốc tế khác liên quan đến
ngăn chặn, xử lý ô nhiễm biển từ tàu, ngoại
trừ Công ước MARPOL 73/78 và Công ước
CLC 69/92, điều này cũng gây không ít trở
ngại cho Việt Nam hành động có hiệu quả
trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống, ngăn
chặn và xử lý ô nhiễm biển nói chung và ô
nhiễm biển từ tàu nói riêng.
Dựa trên cơ sở phân tích nêu trên, có
thể thấy rằng, hệ thống các quy định luật
Việt Nam về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm
môi trường biển từ tàu cần phải được hoàn
thiện và hoàn chỉnh hơn nữa. Chúng tôi xin
đưa ra các kiến nghị sau:
- Đối với các ĐƯQT trong lĩnh
vực này, mà Việt Nam là thành viên (như
MARPOL 73/78, CLC 69/92), chúng ta cần
đẩy nhanh tốc độ nội luật hóa nội dung pháp
lý các công ước vào hệ thống pháp luật Việt
Nam, cụ thể vào luật môi trường, luật hàng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
33Số 12(364) T6/2018
hải, luật dầu khí, luật dân sự... thông qua các
văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể hơn. Trình
tự, thủ tục nội luật hóa như vậy đã được ghi
nhận trong Luật ĐƯQT năm 2016. Đối với
các ĐƯQT có nội dung rõ ràng, cụ thể và
chính xác, chúng ta có thể áp dụng phương
thức áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một
phần ĐƯQT đó đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan7. Điều này sẽ tạo ra điều
kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng
khi thực thi công vụ và đảm bảo các cam kết
quốc tế của Việt Nam sẽ được thi hành đúng
với tư tưởng, mục đích của ĐƯQT mà Việt
Nam là thành viên, qua đó góp phần hoàn
thiện, hoàn chỉnh hệ thống các quy định luật
Việt Nam về ngăn chặn, khắc phục ô nhiễm
biển từ tàu ngang tầm chuẩn mực quốc tế.
- Cũng nhằm mục đích như vậy, Việt
Nam nên nhanh chóng tiến hành các thủ
tục gia nhập các ĐƯQT khác về chống ô
nhiễm biển từ các nguồn khác nhau, đặc
biệt là ô nhiễm biển từ tàu, như Công ước
sẵn sàng ứng phó và hợp tác chống ô nhiễm
dầu (OPRC 1990), Công ước thành lập quỹ
đền bù thiệt hại do dầu năm 1971 và Công
ước bổ sung năm 1992 (Fund), Công ước về
ngăn chặn ô nhiễm biển do nhấn chìm chất
thải và các chất khác năm 1972, Công ước
về can thiệp trên biển cả trong các sự cố ô
nhiễm dầu năm 1969 Đây là các ĐƯQT
quan trọng về chống ô nhiễm biển mà Việt
Nam chưa tham gia. Trong khoảng thời gian
chờ đợi, chúng ta có thể vẫn chuyển hóa các
ĐƯQT nêu trên vào luật Việt Nam ở dạng
văn bản pháp lý quốc gia, như Công ước
Luật biển năm 1982 đã được nội luật hóa
vào luật Việt Nam thể hiện qua các Tuyên
bố 1977 về các vùng biển, Tuyên bố 1982 về
đường cơ sở hay Bộ luật Hàng hải Việt Nam
1990, khi Việt Nam chưa tham gia Công ước
7 Điều 6 Luật ĐƯQT của Việt Nam năm 2016.
này, thậm chí chúng ta đã nội luật hóa Luật
Biển 1982 vào thời gian Công ước này chưa
có hiệu lực. Hoạt động lập pháp này hoàn
toàn không bị nghiêm cấm trong luật quốc
tế. Có như vậy, mọi hành vi gây ô nhiễm
biển Việt Nam sẽ được xử lý và áp dụng chế
tài theo đúng các chuẩn mực ĐƯQT quy
định, đảm bảo hiệu lực thực thi và hiệu quả
xử lý khắc phục ô nhiễm biển sẽ cao hơn.
- Trong lĩnh vực xử lý và khắc phục
hậu quả của ô nhiễm biển từ các nguồn
(trong đó có từ tàu), Việt Nam cần nhanh
chóng soạn thảo và ban hành một văn bản
pháp lý quốc gia về trình tự thủ tục tố tụng
giải quyết tranh chấp khi phát sinh các khiếu
nại hàng hải, trong đó có khiếu nại về bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm biển từ dầu. Vì
chưa có một văn bản pháp lý chuyên môn
như vậy, mọi tranh chấp về ô nhiễm biển
hoàn toàn được điều chỉnh theo các quy
định hữu quan của Bộ luật Tố tụng Dân sự
Việt Nam, điều này có thể tạo ra những bất
cập, hạn chế nhất định trong thực tiễn giải
quyết tranh chấp, vì loại hình vụ kiện đòi
bồi thường thiệt hại liên quan đến hoạt động
trên biển có tính đặc thù quan trọng, đặc biệt
là các vụ kiện liên quan đến sự cố tràn dầu
từ tàu trên phạm vi rộng. Tính đặc thù này
được coi là nét định hướng cơ bản trong quá
trình xây dựng một Bộ luật Tố tụng Hàng
hải, nếu có nhu cầu, với sự thành lập một
tòa án chuyên trách giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực hàng hải quốc tế, trong đó có
tranh chấp về ô nhiễm biển từ tàu. Đây hoàn
toàn là một vấn đề có tính thực tế, khi chủ
thể tham gia các vụ tranh chấp này không
phải là ít, như chủ tàu, công ty bảo hiểm,
chủ hàng, quốc gia nơi xảy ra ô nhiễm biển■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
34 Số 12(364) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_ngua_va_khac_phuc_o_nhiem_moi_truong_bien_tu_viec_thuc.pdf