Kết luận
Cùng với sự thay đổi của mô hình bệnh tật
trên thế giới, miễn dịch học cũng ngày càng
phát triển mở ra nhiều hướng ứng dụng mới
trong phòng tránh, chẩn đoán và điều trị bệnh
mới. Phỏng sinh học miễn dịch học với sự ra
đời của KT đơn dòng là một bước tiến lớn của
khoa học miễn dịch và y học, được ứng dụng
rộng rãi trong chẩn đoán và điều trị một loạt các
rối loạn của con người, bao gồm cả ung thư và
các bệnh truyền nhiễm. Trong tương lai khi
càng nhiều cơ chế phân tử của các bệnh được
tìm ra sẽ là cơ sở giúp cho phỏng sinh học miễn
dịch ngày càng phát triển và chắc chắn sẽ là
lĩnh vực nghiên cứu rất tiềm năng của các nhà
khoa học.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 139 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phỏng sinh học miễn dịch học người và ứng dụng trong y, dược học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
1
Phỏng sinh học miễn dịch học người
và ứng dụng trong y, dược học
Nguyễn Thị Huyền1, Từ Thị Thu Hiền1, Bùi Thanh Tùng1,
Phạm Thị Minh Huệ2, Nguyễn Thanh Hải1,*
1Khoa Y Dược, Đai học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Đại học Dược Hà Nội, 15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 10 tháng 5 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 5 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 6 năm 2018
Tóm tắt: Phỏng sinh học là một phân ngành khoa học có tiềm năng ứng dụng to lớn, có hiệu quả
cao trong rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu cũng như ứng dụng vào cuộc sống của con người. Nghiên
cứu hệ thống về cơ chế miễn dịch của động vật nói chung và của con người nói riêng đã giúp phát
triển rất nhiều phương pháp tối ưu phục vụ cho việc phòng tránh, chẩn đoán, điều trị bệnh tật. Qua
việc nghiên cứu, ứng dụng mô phỏng các thành phần của hệ thống phức tạp này, các nhà khoa học
đã, đang và sẽ phát triển thêm những tri thức, kỹ thuật, sản phẩm mới rất có giá trị trong y dược
học nhằm phục vụ cho lợi ích của con người. Có thể nói, miễn dịch học và mô phỏng hệ miễn dịch
có triển vọng gần như vô hạn trong khoa học sức khỏe. Tuy nhiên trong bài này tập trung chính
vào nội dung mô phỏng các đặc tính của kháng thể, kháng thể đơn dòng trong việc chẩn đoán và
điều trị bệnh tật.
Từ khóa: Phỏng sinh học; KT đơn dòng; hệ miễn dịch.
Thuật ngữ“biomimetics” bắt nguồn từ từ
tiếng Hy Lạp “bios” (cuộc sống) và “mimesis”
(bắt chước). Trên thực tế phỏng sinh học
(Bionics/Biomimetics) là ngành khoa học công
nghệ chuyên nghiên cứu các chức năng, đặc
điểm và hiện tượng của sinh vật trong tự
nhiên và mô phỏng các khả năng đặc biệt đó để
thiết kế, chế tạo các hệ thống kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, hữu ích nhằm cải tiến hoạt động
và đáp ứng nhu cầu của con người [1, 2]. Phỏng
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-913512599.
Email: haipharm@yahoo.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4117
sinh học đã và đang được ứng dụng rộng rãi và
có hiệu quả trong rất nhiều các lĩnh vực như
hóa học, sinh học, kiến trúc, kỹ thuật, y học và
kỹ thuật y sinh. Với y học, phỏng sinh học miễn
dịch học người là một lĩnh vực nghiên cứu tiềm
năng và có nhiều ứng dụng trong phòng tránh,
chẩn đoán và điều trị bệnh tật. Bài tổng quan
này tập trung vào nội dung mô phỏng các đặc
tính của kháng thể (KT) của hệ thống miễn dịch
người trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh tật.
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
2
1. Hệ thống miễn dịch người
1.1. Giới thiệu
Miễn dịch là sự đề kháng của cơ thể chống
lại bệnh tật, đặc biệt là các bệnh do nhiễm vi
sinh vật và các yếu tố ngoại lai. Hệ thống miễn
dịch người bao gồm các tế bào, các mô và phân
tử tham gia vào quá trình chống lại vi sinh vật
và các yếu tố ngoại lai khác xâm nhập vào cơ
thể. Bên cạnh tác dụng đề kháng với vi sinh vật,
hệ thống miễn dịch còn ức chế sự phát triển của
một số loại khối u, một số phương pháp điều trị
ung thư, sử dụng cơ chế đáp ứng miễn dịch
chống lại tế bào, đang được phát triển. Đáp ứng
miễn dịch cũng tham gia vào dọn dẹp các tế bào
đã chết và sửa chữa mô.
Trên thực tế, miễn dịch học đã được ứng
dụng rất rộng rãi trong việc phòng tránh nhiều
bệnh tật một cách lý tưởng. Hàng nghìn năm
trước đây, con người cổ đại đã biết lấy vẩy
bong của người bị bệnh đậu mùa, hong khô tự
nhiên, tán nhỏ rồi rắc vào mũi những người
khỏe mạnh để phòng bệnh đậu mùa. Hình thức
tiêm chủng thô sơ đó đã tạo ra được một chất
mà y học ngày nay gọi là KT, tồn lưu trong máu
và có tác dụng phòng bệnh một cách đặc hiệu
và hiệu quả [3]. Sau này, ứng dụng cơ chế miễn
dịch học, tất nhiều bệnh dịch có khả năng đe
dọa sự tồn vong của nhân loại đã được phòng
tránh một cách hiệu quả (vaccine phòng sởi,
uốn ván, ho gà, bạch hầu, bại liệt, viêm gan B
và các bệnh do HIB, ung thư cổ tử cung ).
Rất nhiều tình trạng bệnh, trước đây vô phương
cứu chữa, cũng đã được điều trị đặt hiệu bằng
các liệu pháp miễn dịch học (như tiêm huyết
thanh kháng nọc rắn, huyết thanh kháng virut
dại ). Gần đây nhiều tình trạng bệnh mạn tính
của não bộ do lạm dụng ma túy, đã gây ra rất
nhiều thảm họa cho mỗi người người, mỗi gia
đình và xã hội cũng đã được tiếp cận theo cách
tiêm chủng để phòng tránh. Vacine cho loại ma
túy điển hình là heroin đã được các nhà khoa
học hoàn thành giai đoạn nghiên cứu trên động
vật thí nghiệm và chuẩn bị chuyển sang giai
đoạn thử nghiệm trên người tình nguyện [4].
Các sản phẩm của tế bào miễn dịch cũng
được sử dụng rộng rãi trong thực hành: các KT
được sử dụng như một thuốc thử đặc hiệu trong
các test lâm sàng hoặc nghiên cứu để phát hiện
nhiều phân tử có trong tuần hoàn, tế bào và mô.
KT cũng được thiết kế để ngăn chặn, loại trừ
các phân tử và tế bào gây hại trong các bệnh về
miễn dịch, ung thư và các rối loạn khác [5].
KT là các phân tử glycoprotein được sản
xuất bởi các tương bào trong đáp ứng miễn dịch
dịch thể, được hệ miễn dịch sử dụng để trung
hòa các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn và
virus. KT có thể tồn tại ở hai dạng, một dạng
hòa tan trong huyết tương, và một dạng liên kết
màng trên màng của tế bào B và được gọi là thụ
thể của tế bào B (BCR). BCR chỉ được tìm thấy
trên bề mặt của tế bào B, tạo điều kiện cho sự
hoạt hóa của các tế bào này thành các nhà máy
KT gọi là tế bào plasma, hoặc thành tế bào B
nhờ tồn tại trong cơ thể và tạo ra đáp ứng nhanh
hơn, mạnh hơn khi tiếp xúc lại với kháng
nguyên đó. KT gây đáp ứng miễn dịch theo ba
cách: ngăn chặn các tác nhân gây bệnh xâm
nhập hoặc làm tổn thương các tế bào bằng cách
gắn kết với chúng; kích thích đại thực bào và
các tế bào khác tiêu diệt tác nhân gây bệnh;
kích hoạt sự phá hủy các tác nhân gây bệnh
bằng cách kích thích các đáp ứng miễn dịch
khác như con đường bổ thể [5, 6].
1.2. Kháng thể đơn dòng
KT được tạo ra khi cơ thể tiếp xúc với
kháng nguyên là KT đa dòng hay còn được gọi
là kháng huyết thanh. Các KT đa dòng liên kết
với nhiều epitope (một phần của kháng nguyên
được nhận diện bởi KT) và thường được tạo ra
bởi một số dòng tế bào plasma khác nhau. Các
KT này khác nhau về ái lực và tính đặc hiệu với
kháng nguyên. Trong điều trị bệnh việc sử dụng
kháng huyết thanh hiệu quả chưa cao. Trên cơ
sở đó năm 1975, Georges Köhler và César
Milstein đã thành công trong việc hợp nhất các
dòng tế bào tủy với các tế bào lympho B để tạo
ra các tế bào lai có thể tạo ra các KT đặc hiệu
cho các kháng nguyên được sử dụng (thành tựu
này đã được trao giải Nobel về Y học vào năm
1984). KT đơn dòng (mAb hoặc moAb) là các
KT được tạo ra bởi các tế bào miễn dịch đồng
nhất, tất cả đều là bản sao của một tế bào ban
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10 3
đầu. Các KT đơn dòng có cùng ái lực, chúng
liên kết với cùng một epitope. Các KT đơn
dòng bispecific (nhận biết được hai epitope)
cũng có thể được thiết kế bằng cách tăng các
mục tiêu điều trị của một KT đơn dòng từ một
lên hai epitope [7, 8].
Phương pháp sản xuất KT đơn dòng: kháng
nguyên được tiêm vào chuột, sau đó các tế bào
sản sinh KT ở lách sẽ được tách ra và lai với
các tế bào myeloma không có khả năng sinh KT
nhưng có khả năng nhân lên liên tục, lưu giữ
trên polyethylene glycol, thu được các tế bào lai
có khả năng sản sinh KT. Các dòng KT sau đó
sẽ được nuôi cấy riêng rẽ trong môi trường
hypoxanthine-aminopterin-thymidine, cho phát
triển khoảng 2-3 tuần. Sau đó thêm kháng
nguyên để đánh giá hiệu lực của từng dòng
KT, lựa chọn dòng KT tối ưu tiếp tục đi nuôi
cấy hoặc có thể tiêm các tế bào mang dòng
KT đó vào chuột để tiếp tục nhân lên rồi thu
lấy KT [7].
Các KT đơn dòng được sản xuất từ chuột
khá thích hợp khi sử dụng in vitro (hình 1). Tuy
nhiên, khi sử dụng trên người có liên quan đến
các biến chứng miễn dịch, vì chúng có vai trò là
kháng nguyên với cơ thể người. Hơn nữa, để có
hiệu quả, các KT cần tương tác với các thụ thể
biểu hiện trên các tế bào đích. Do có nguồn gốc
từ chuột, những KT này không tương tác đúng
với các thành phần của hệ miễn dịch người và
hiệu quả sinh học của chúng bị hạn chế. Vì vậy
ngày nay, sản xuất KT đơn dòng từ người được
ưu tiên phát triển [9].
2. Phỏng sinh học kháng thể và ứng dụng
2.1. Ứng dụng trong chẩn đoán
Việc phát hiện các KT đặc biệt là chẩn đoán
phổ biến, các xét nghiệm huyết thanh học dựa
trên nguyên lý này. Ví dụ, trong một xét
nghiệm sinh hóa, hiệu giá KT chống lại virus
Epstein-Barr hoặc bệnh Lyme được định lượng.
Nếu những KT này không có, hoặc là người đó
không bị nhiễm bệnh hoặc nhiễm trùng xảy ra
từ rất lâu, và các KT đặc hiệu này đã bị phân
hủy [10, 11]. Trong miễn dịch lâm sàng, các
globulin miễn dịch được đo bằng phương pháp
đo độ đục [12]. Sự tăng các loại globulin miễn
dịch khác nhau đôi khi hữu ích trong việc xác
định nguyên nhân gây tổn thương gan ở những
bệnh nhân chẩn đoán không rõ ràng. Ví dụ, IgA
tăng cao cho thấy xơ gan do rượu, IgM tăng cao
biểu hiện viêm gan siêu vi và xơ gan tiên phát,
trong khi IgG tăng cao trong viêm gan siêu vi,
viêm gan tự miễn và xơ gan. Các rối loạn tự
miễn thường do các KT liên kết với các epitope
của chính cơ thể và có thể được phát hiện thông
qua xét nghiệm máu. Các KT chống lại các
kháng nguyên bề mặt hồng cầu trong thiếu máu
tan máu qua trung gian miễn dịch được phát
hiện bằng xét nghiệm Coombs [13]. Xét
nghiệm Coombs cũng được sử dụng để sàng lọc
KT trong chuẩn bị truyền máu và ở phụ nữ
trước khi sinh [13].
Một số phương pháp chẩn đoán miễn dịch
dựa trên phát hiện phức hợp kháng nguyên –
KT được sử dụng để chẩn đoán các bệnh truyền
nhiễm, như ELISA, miễn dịch huỳnh quang,
Western blot, miễn dịch khuếch tán, miễn dịch
điện di, miễn dịch từ tính và miễn dịch phóng xạ.
KT đơn dòng trong phân tích sinh hóa: Các
xét nghiệm chẩn đoán dựa trên việc sử dụng
mAb làm thuốc thử thường được sử dụng trong
xét nghiệm phóng xạ (RIA) và xét nghiệm miễn
dịch liên kết enzyme (ELISA). Những xét
nghiệm này đo nồng độ của các hormon
(insulin, HCG, hormone tăng trưởng,
progesterone, thyroxine, triiodothyronine,
hormon kích thích tuyến giáp, gastrin, renin) và
một số sản phẩm tế bào, mô khác (kháng
nguyên nhóm máu, yếu tố đông máu, interferon,
interleukin, marker khối u). Hiện nay có thể
thực hiện chẩn đoán sớm các bệnh/tình trạng:
mang thai, ung thư, rối loạn nội tiết, bệnh
truyền nhiễm [14, 15].
KT đơn dòng trong chẩn đoán hình ảnh: kỹ
thuật sử dụng KT đơn dòng của kháng nguyên
các mô đích được gắn phóng xạ trong chẩn
đoán hình ảnh, gọi là immunoscintigraphy. Các
đồng vị phóng xạ thường được sử dụng là Iod
131 và Technetium 99. Các mAb được gắn
đồng vị phóng xạ được tiêm vào bệnh nhân theo
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
4
đường tĩnh mạch, phân bố tập trung tại các vị trí
cụ thể mang kháng nguyên và có thể được phát
hiện bằng hình ảnh phóng xạ. Trong những năm
gần đây, máy chụp cắt lớp phát xạ photon
(SPECT) được sử dụng, có thể cho hình ảnh ba
chiều từ những tín hiệu của sự phân bố các KT
đơn dòng có gắn phóng xạ. Phương pháp gắn
fluoride phóng xạ trên KT đặc hiệu của mô cho
phép sử dụng kỹ thuật ghi hình bằng bức xạ
positron (PET) để chẩn đoán ung thư [16].
Immunoscintigraphy là một công cụ chẩn đoán
tốt hơn so với các kỹ thuật hình ảnh khác như
quét CT, siêu âm và cộng hưởng từ. Ví dụ,
immunoscintigraphy có thể phân biệt giữa sự
phát triển của khối u và không phải khối u, điều
này là không thể với các kỹ thuật hình ảnh
khác. KT đơn dòng được sử dụng thành công
trong chẩn đoán hình ảnh các bệnh tim mạch,
ung thư và các vị trí nhiễm trùng do vi khuẩn
[17, 18].
2.2. Ứng dụng trong liệu pháp tiền sản
Yếu tố Rh còn được gọi là kháng nguyên
RhD, là một kháng nguyên được tìm thấy trên
các tế bào hồng cầu; những người có Rh dương
tính (Rh+) có kháng nguyên này trên các tế bào
hồng cầu, những người có Rh âm tính (Rh-) thì
không. Trong quá trình sinh đẻ bình thường, khi
có chấn thương hoặc biến chứng trong thai kỳ,
máu từ thai nhi có thể xâm nhập vào tuần hoàn
của người mẹ. Trong trường hợp mẹ và con
không tương thích Rh, sẽ có nguy cơ tan huyết
ở trẻ sơ sinh trong lần thai kì này và các lần tiếp
sau. KT globulin miễn dịch Rho (D) là đặc hiệu
đối với kháng nguyên RhD ở người. KT kháng
RhD được dùng như một phần của phác đồ điều
trị trước khi sinh để ngăn chặn sự nhạy cảm có
thể xảy ra khi người mẹ có Rh- và thai nhi Rh+.
Tuy nhiên cần điều trị trước khi kháng nguyên
có thể kích thích các tế bào B của người mẹ
"ghi nhớ" kháng nguyên Rh bằng cách tạo ra
các tế bào B nhớ. Sau điều trị hệ thống miễn
dịch dịch thể của người mẹ sẽ không tạo ra
KT kháng Rh, và sẽ không tấn công các
kháng nguyên Rh của thai nhi hiện tại hoặc
sau đó [19, 20].
2.3. Ứng dụng trong điều trị bệnh
KT đơn dòng có nhiều ứng dụng trong điều
trị đặc hiệu bệnh tật như: điều trị ung thư, cấy
ghép tủy xương và các cơ quan, bệnh tự miễn,
bệnh tim mạch và các bệnh truyền nhiễm. Các
ứng dụng trị liệu của mAb được phân thành 2
nhóm: (A) Sử dụng trực tiếp mAb làm tác nhân
trị liệu; (B) mAb là các đích tác dụng.
2.3.1. Ứng dụng mAb làm các tác nhân điều
trị trực tiếp
KT đơn dòng có thể được sử dụng trực tiếp
để tăng cường chức năng miễn dịch của vật
chủ. Trong tiêu diệt sinh vật gây bệnh: mAb
thúc đẩy sự tiêu diệt các sinh vật gây bệnh
(bằng cách phủ KT) và tăng cường thực bào.
Trên thực tế, mAb đã được sử dụng để chống
lại một số virus (viêm gan B) và vi khuẩn (E.
coli, Haemophilus influenza, Streptococcus sp
và Pseudomonas sp) [21, 22].
a. Trong điều trị ung thư
Sử dụng mAb chống lại các kháng nguyên
của tế bào ung thư, rất hữu ích trong điều trị
ung thư. Các KT liên kết với các tế bào ung thư
và tiêu diệt chúng bằng đáp ứng qua trung gian
tế bào, hệ thống bổ thể và thực bào tế bào ung
thư (đã gắn mAb) bởi hệ thống lưới nội mô.
Các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu, ung thư đại
trực tràng, u lympho và khối u ác tính đã được
điều trị bằng mAb. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công
rất khác nhau. KT đơn dòng đặc hiệu cho các tế
bào của bệnh bạch cầu được sử dụng để tiêu
diệt các tế bào ung thư bạch cầu mà không ảnh
hưởng đến các tế bào khác. Ngoài ra, mAb cũng
được sử dụng trong in vitro để loại bỏ các tế
bào khối u còn sót lại trước khi cấy ghép tủy
xương tự thân (cấy ghép tế bào tủy xương của
chính bệnh nhân, do không có người hiến phù
hợp). Hạn chế khi sử dụng trực tiếp mAb trong
điều trị ung thư gồm:
+ Các mAb được sản xuất từ chuột và được
sử dụng trực tiếp cho mục đích điều trị có thể
dẫn đến sự phát triển KT chống lại và phản ứng
quá mẫn.
+ Tất cả các tế bào ung thư có thể không
mang cùng kháng nguyên đặc hiệu với mAb. Vì
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10 5
vậy, mAb có thể không gắn được vào tất cả các
tế bào ung thư.
+ Các kháng nguyên tự do (của các tế bào
đích) có mặt trong tuần hoàn có thể liên kết với
các mAb và ngăn chúng tác động trên các tế
bào đích [23, 24, 25].
Hình 1. Mô hình sản xuất KT đơn dòng từ chuột [7].
b. Trong ức chế miễn dịch cấy ghép nội tạng
Thông thường, các thuốc ức chế miễn dịch
như cyclosporin và prednisone được dùng để
chống thải ghép. Trong những năm gần đây,
mAb đặc hiệu với kháng nguyên bề mặt tế bào
lympho T đang được sử dụng cho mục đích
này. KT đơn dòng OKT3 là mAb đầu tiên được
FDA cấp phép để sử dụng như tác nhân ức chế
miễn dịch sau khi cấy ghép tạng ở người. OKT3
đặc hiệu chống lại kháng nguyên CD3 của tế
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
6
bào lympho T, được sử dụng thành công trong
ghép thận và tủy xương [26].
c. Trong điều trị AIDS
AIDS là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người do nhiễm virus HIV gây suy giảm
các tế bào lympho T-CD4. Virus HIV liên kết
với các thụ thể đặc hiệu trên tế bào CD4 bằng
cách sử dụng glycoprotein bề mặt (gp120). Các
nhà khoa học kỹ thuật gen đã thành công trong
việc gắn phần Fc của KT đơn dòng từ chuột vào
phân tử CD4 của người. Phức hợp này có ái lực
cao, gắn với màng glycoprotein gp120 của các
tế bào bị nhiễm virus. Đoạn Fc gây phá hủy tế
bào bị nhiễm HIV qua trung gian tế bào [27].
d. Trong điều trị các bệnh tự miễn
Các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp
và bệnh đa xơ cứng là một vấn đề lớn trong y
học. Một số thành công đã được báo cáo trong
các thử nghiệm lâm sàng của bệnh nhân viêm
khớp dạng thấp sử dụng mAb trực tiếp chống
lại lympho B và lympho C [7, 17].
Một số thuốc điều trị đặc hiệu ứng dụng
phỏng sinh học miễn dịch đã được phát triển
được trình bày trong bảng 1.
2.3.2. Sử dụng mAb như tác nhân hướng
đích trong điều trị
Độc tố, thuốc, đồng vị phóng xạ có thể
được gắn hoặc liên kết với các KT đơn dòng
đặc hiệu mô và được mang đến các mô đích.
Điều này cho phép tăng nồng độ thuốc tại đích
và giảm độc tính trên mô lành.
Sử dụng như độc tố miễn dịch.
Các độc tố có thể được kết hợp với mAb để
tạo thành độc tố miễn dịch và được sử dụng
trong các liệu pháp như độc tố bạch hầu, độc tố
Pseudomonas, độc tố được sử dụng để điều trị
ung thư. Anti-Tac mAb tăng lên chống lại
IL2-R (thụ thể yếu tố tăng trưởng tế bào T) có
thể được liên hợp với độc tố của Pseudomonas
sp. Độc tố miễn dịch này có thể được sử dụng
để tiêu diệt các tế bào T ác tính ở những bệnh
nhân bị bệnh bạch cầu tế bào T (IL2-R được
biểu hiện trong các tế bào T bất thường ở khối
ulympho ác tính). Ricin là một protein độc tế
bào có nguồn gốc từ cây thầu dầu. Nó bao gồm
hai chuỗi polypeptide (A và B) liên kết với
nhau bởi một liên kết disulfide. Chuỗi B của
ricin liên kết với bề mặt tế bào. Sự liên kết này
tạo điều kiện cho chuỗi A xâm nhập vào tế bào
và ức chế chức năng của ribosome (dẫn tới ức
chế sinh tổng hợp tất cả các protein), gây chết
các tế bào. Ricin có thể bị oxy hóa để tách
thành chuỗi A và B. Các chuỗi A gây độc có
thể được liên kết với mAb đặc hiệu với các tế
bào ung thư và không liên kết với các tế bào
bình thường. Khi chuỗi A đi vào các tế bào, nó
ức chế chức năng ribosome, gây chết tế bào ung
thư [17].
Ứng dụng trong vận chuyển thuốc.
Nói chung, các thuốc sử dụng trong in vivo
(trong cơ thể sống) có hiệu quả kém hơn khi thử
in vitro. Điều này chủ yếu do trong cơ thể sống
thuốc đến mô đích không đủ nồng độ gây tác
dụng. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng
cách sử dụng mAb đặc hiệu với kháng nguyên
mô đích để vận chuyển thuốc. Các thuốc kết
hợp với mAb (đặc hiệu với một kháng nguyên
bề mặt tế bào như tế bào khối u) có thể đến
đúng đích cần tác dụng để giải phóng dược
chất. Trong điều trị các bệnh nhất định, có thể
sử dụng tiền thuốc và sẽ được enzyme chuyển
thành thuốc dạng hoạt động tại mô đích. Trong
trường hợp này enzyme sẽ được kết hợp với
một mAb đặc hiệu với kháng nguyên bề mặt
mô đích. Cách tiếp cận này, được gọi là liệu
pháp enzyme tiền thuốc hướng KT (ADEPT),
cho phép đưa thuốc phân bố hiệu quả thuốc đến
các tế bào đích. Một số enzyme đã được sử
dụng trong ADEPT: Phosphatase kiềm chuyển
hóa các tiền thuốc phosphate; carboxy peptidase
chuyển hóa nhóm carboxyl không hoạt động
thành dạng hoạt động; lactamase thủy phân
vòng β-lactam của kháng sinh [28].
Ứng dụng làm tan cục máu đông
Phần lớn các trường hợp đột tử là do tắc
nghẽn động mạch hoặc động mạch não do cục
máu đông (huyết khối). Fibrin là thành phần
chính của cục máu đông được phân hủy bởi
plasmin. Plasmin lần lượt được hình thành bởi
sự kích hoạt của plasminogen bởi các chất hoạt
hóa. Sự tắc nghẽn động mạch xảy ra do phân
hủy không đầy đủ các cục máu đông. Chất hoạt
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10 7
hóa plasminogen (tPA) có thể được sử dụng
như một tác nhân trị liệu để loại bỏ cục máu
đông. Một KT đơn dòng tác động lên fibrin có
thể được gắn với tPA và được sử dụng để làm
tan cục máu đông. Phức hợp mAb-tPA do có ái
lực cao được gắn với fibrin làm tăng nồng độ
tPA tại cục máu đông, chuyển plasminogen
thành plasmin hiệu quả hơn, do đó làm tan cục
máu đông (fibrin) [29].
Vận chuyển thuốc bằng liposome gắn mAb
đặc hiệu mô.
Thuốc được gói trong liposome có gắn mAb
đặc hiệu với mô đích. Tuy nhiên phương pháp
này hiện còn gặp nhiều hạn chế, vì các
liposome khó tới được các tế bào đích, chúng
được giữ lại chủ yếu ở gan và lách (tế bào lưới
nội mô) và suy thoái [30].
Ứng dụng trong liệu pháp miễn dịch phóng
xạ (RAIT).
Các đồng vị phóng xạ có thể được gắn với
mAb, làm tăng nồng độ tại các mô đích, có tác
dụng diệt các tế bào hiệu quả (ví dụ tế bào khối
u). Ưu điểm của liệu pháp miễn dịch phóng xạ
là chất phóng xạ không tác động lên tế bào
lành, tương tự liệu pháp immunotoxin. Tuy
nhiên các tế bào bình thường lân cận cũng có
thể bị ảnh hưởng. Điều này có thể được giảm
thiểu bằng cách sử dụng đồng vị phóng xạ với
chu kỳ bán rã ngắn. Yttrium-90 với chu kỳ bán
rã 64 giờ là một đồng vị thích hợp được sử
dụng trong RAIT. Hiện nay do thiếu hụt
Yttrium-90, Indium-111 thường được sử dụng
nhiều hơn [17].
Ứng dụng trong tinh chế protein
Cột KT đơn dòng có thể được điều chế
bằng cách liên kết mAb với cyanogen bromide
được hoạt hóa bởi Sepharose. Các mAb cố định
theo cách này rất hữu ích cho việc tinh chế các
protein bằng phương pháp ái lực miễn dịch.
Ưu điểm: Tính đặc hiệu của mAb khi liên
kết với protein mong muốn, giải phóng hiệu
quả từ cột sắc ký và mức độ tinh chế cao. Sắc
ký ái lực miễn dịch thường được sử dụng để
tinh chế các interferon tái tổ hợp. Chỉ với một
bước duy nhất có thể thực hiện được hơn 5.000
lần tinh chế interferon-α2.
Nhược điểm: Độ tinh khiết của protein
không thể đạt được 100% do có một lượng nhỏ
mAb bị rửa giải cùng. Hơn nữa, mAb không thể
phân biệt giữa protein nguyên vẹn và một mảnh
của nó với cùng vị trí kháng nguyên [7].
Các ứng dụng khác.
Các mAb xúc tác (abzymes).
Tính chất chung quan trọng và phổ biến
nhất của enzyme và KT là chúng đều là protein.
Liên kết giữa KT với kháng nguyên cũng tương
tự như liên kết giữa enzyme và cơ chất (liên kết
tĩnh điện, liên kết hydro và liên kết Van der
Waals). Trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu tìm
hiểu khả năng sử dụng KT trong xúc tác. Các
enzyme KT, được coi là các abzyme, là KT xúc
tác. Một số phản ứng thực hiện bởi mAb: thủy
phân ester, thủy phân amid và carbonat, phản
ứng loại, và các phản ứng hóa học phân tử sinh
học. Việc khám phá ra abzyme có một loạt các
ứng dụng như cắt các peptide và DNA, làm tan
các cục máu đông, diệt virus
Ưu điểm của abzyme: Số lượng enzyme tự
nhiên và chức năng xúc tác của chúng bị giới
hạn. Mặt khác các KT đơn dòng là không giới
hạn, và có thể được phát triển để nhận ra được
vị trí tác dụng, phù hợp với chức năng xúc tác.
Điều này làm cho abzyme linh hoạt với nhiều
ứng dụng xúc tác khác nhau. Do đó, lĩnh vực
công nghệ abzyme rất hứa hẹn, mặc dù các
nghiên cứu đang ở giai đoạn sơ bộ.
Hạn chế của abzyme: Mặc dù những tiến bộ
được thực hiện trong sản xuất và lợi ích của
abzyme, tuy nhiên vẫn còn nhiều nghi ngờ về
tính phù hợp với các enzyme tự nhiên về khả
năng xúc tác. Tuy nhiên, các abzyme chắc chắn
sẽ hữu ích cho một loạt các phản ứng mà các
enzyme tự nhiên không thực hiện được [7].
Dấu vân tay tự động
Sự xuất hiện của các tự KTvà sự liên quan
của chúng trong một số bệnh nhất định cũng
được biết đến (ví dụ như viêm khớp dạng thấp).
Một danh mục mới về các tự KT đặc hiệu cho
từng người đã được tìm ra trong những năm gần
đây. Những tự KT này được sinh ra sau khi sinh
và đạt tối đa sau 2 năm, sau đó không thay đổi.
Các KT đơn dòng được tạo ra chống lại tự
KT trên có thể được sử dụng để phát hiện và
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
8
xác định danh tính. Kỹ thuật này được gọi là
vân tay tự động, đặc biệt hữu ích cho việc phát
hiện tội phạm, thông qua các tự KT thu thập
từ các mẫu như máu, nước bọt, tinh dịch và
nước mắt [7, 8].
Bảng 1. Kháng thể đơn dòng trong điều trị bệnh [31]
Nhóm Thuốc Điều trị bệnh Cơ chế/Đích tác dụng
Chống viêm
Infliximab
Viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn,
viêm loét đại tràng, viêm cột sống
dính khớp
Ức chế TNF-α
Adalimumab
Viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn,
viêm loét đại tràng, viêm cột sống
dính khớp
Ức chế TNF-α
Basiliximab Ngăn thải ghép trong ghép thận
Ức chế IL-2 trên các tế bào
T hoạt hóa
Daclizumab Ngăn thải ghép trong ghép thận
Ức chế IL-2 trên các tế bào
T hoạt hóa
Omalizumab Hen Ức chế IgE
Chống ung thư
Gemtuzumab Bệnh bạch cầu myeloid cấp tính
Đích là kháng nguyên
CD33 trên bề mặt tế bào
myeloid
Alemtuzumab Bệnh bạch cầu lympho
Đích là kháng nguyên
CD52 trên Lympho B và T
Rituximab
U lympho không Hodgkin
Viêm khớp dạng thấp
Đích là phosphoprotein
CD20 trên lympho B
Trastuzumab
Ung thư vú biểu hiện quá mức
HER2/neu
Đích là thụ thể HER2/neu
Nimotuzumab
Ung thư biểu mô tế bào vảy,
Glicoma
Ức chế EGFR
Cetuximab
Ung thư biểu mô tế bào vảy, ung
thư đại trực tràng
Ức chế EGFR
Bevacizumab và
Ranibizumab
Liệu pháp điều trị ức chế tạo mạch
khối u
Ức chế VEGF
Chống ung thư và
kháng virus
Bavituximab Ung thư, viêm gan C
Liệu pháp miễn dịch, đích
là phosphatidylserin
Khác
Palivizumab
Nhiễm virus đường hô hấp ở trẻ
nhỏ
Ức chế protein dung nạp
của virus
Abciximab
Ngăn ngừa đông máu trong nong
mạch vành
Ức chế receptor GpIIb/IIIa
trên tiểu cầu
3. Kết luận
Cùng với sự thay đổi của mô hình bệnh tật
trên thế giới, miễn dịch học cũng ngày càng
phát triển mở ra nhiều hướng ứng dụng mới
trong phòng tránh, chẩn đoán và điều trị bệnh
mới. Phỏng sinh học miễn dịch học với sự ra
đời của KT đơn dòng là một bước tiến lớn của
khoa học miễn dịch và y học, được ứng dụng
rộng rãi trong chẩn đoán và điều trị một loạt các
rối loạn của con người, bao gồm cả ung thư và
các bệnh truyền nhiễm. Trong tương lai khi
càng nhiều cơ chế phân tử của các bệnh được
tìm ra sẽ là cơ sở giúp cho phỏng sinh học miễn
dịch ngày càng phát triển và chắc chắn sẽ là
lĩnh vực nghiên cứu rất tiềm năng của các nhà
khoa học.
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10 9
Tài liệu tham khảo
[1] Hwang Jangsun, Jeong Yoon, Park Jeong Min,
Lee Kwan Hong, Hong Jong Wook, Choi
Jonghoon, Biomimetics: forecasting the future of
science, engineering, and medicine, International
Journal of Nanomedicine 10 (2015) 5701-5713.
[2] Nguyễn Thanh Hải, Bùi Thanh Tùng, Phạm Thị
Minh Huệ, Phỏng sinh học trong y dược học –
Hướng nghiên cứu cần được đẩy mạnh, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa học Y
Dược 33(1) (2017) 1.
[3] Từ Minh Koóng, Nguyễn Thanh Hải, Thuốc tới
đích, Tạp chí Dược học 389(9) (2008) 2.
[4] Candy S Hwang, Lauren C. Smith, Yoshihiro
Natori, Beverly Ellis, Bin Zhou, Kim D Janda,
Efficacious Vaccine against Heroin Contaminated
with Fentanyl, ACS Chemical Neuroscience, Just
Accepted Manuscript, Publication Date (Web): 20
Mar 2018.
[5] Abul K. Abbas, Andrew H. Lichtman,Shiv Pillai,
Basic Immunology: Functions and Disorders of
the Immune System, fouth edition 1-22.
[6] Borghesi L, Milcarek C, From B cell to plasma
cell: regulation of V(D)J recombination and
antibody secretion, Immunol Res36 (1–3)(2006)
27–32.
[7] Alisa M. Campbell, Monoclonal Antibody and
Immunosensor Technology: The production and
application of rodent and human monoclonal
antibodies(1991) 1-7 21-42.
[8] James W. Goding, Monoclonal Antibodies:
Principles and Practice, third edition, 116-129.
[9] John R. Birch, Andrew J. Racher, Antibody
production, Advanced Drug Delivery Reviews 58
(2006) 671 – 685.
[10] Adriana R. Marques, Laboratory Diagnosis of
Lyme Disease - Advances and Challenges,
Infectious Disease Clinics of North America29(2)
(2015) 295–307.
[11] Linde A, Diagnosis of Epstein-Barr virus-related
diseases, Scandinavian journal of infectious
disease 100 (1996) 83-8.
[12] Stern P, Current possibilities of turbidimetry and
nephelometry,Klin Biochem Metab, 14 (3) (2006)
146–151.
[13] Douglas B. Cines, Alan D. Schreiber, Immune
Thrombocytopenia — Use of a Coombs
Antiglobulin Test to Detect IgG and C3 on
Platelets, The New England Journal of Medicine
300 (1979) 106-111.
[14] William J. Payne, JR., David L. Marshall, Robert K.
Shockley, William J. Martin, Clinical laboratory
applications of monoclonal antibodies, Clinical
Microbiology Review 1(3) (1988) 313–329.
[15] Zhang X, Soori G, Dobleman TJ, Xiao GG, The
application of monoclonal antibodies in cancer
diagnosis, Expert Rev. Mol. Diagn. 14(1) (2014)
97–106.
[16] Erik A. Rodriguez, Ye Wang, Jessica L. Crisp,
David R. Vera, Roger Y. Tsien, Richard Ting,
New Dioxaborolane Chemistry Enables [18F]-
Positron-Emitting, Fluorescent [18F]-
Multimodality Biomolecule Generation from the
Solid Phase, Bioconjugate Chemistry 27 (5)
1390–1399.
[17] Waldmann TA, Monoclonal antibodies in
diagnosis and therapy, Science 252(5013) (1991)
1657-62.
[18] M. Z. Siddiqui, Monoclonal Antibodies as
Diagnostics; an Appraisal, Indian Journal of
Pharmaceutical Sciences 72(1) (2010) 12–17.
[19] Urbaniak S, Greiss M, RhD haemolytic disease of
the fetus and the newborn, Blood Rev 14 (1)
(2000) 44–61.
[20] Fung Kee Fung K , Eason E , Crane J , Armson
A , De La Ronde S , Farine D , Keenan-Lindsay
L , Leduc L , Reid GJ , Aerde JV , Wilson RD ,
Davies G , Désilets VA , Summers A , Wyatt P ,
Young DC , Prevention of Rh alloimmunization,
Journal of Obstetríc and Gynaecology Canada25
(9) (2003) 765–73.
[21] Klinguer-Hamour C, Caussanel V, Beck A,
Monoclonal antibodies for treating infectious
diseases, Medecine sciences 25(12) (2009) 1116-20.
[22] Erin Sparrow, Martin Friede, Mohamud Sheikh,
Siranda Torvaldsenc, Therapeutic antibodies for
infectious diseases, Bulletin World Health
Organization 95(3) (2017) 235–237.
[23] Joseph Thomas Pento, Monoclonal Antibodies for
the Treatment of Cancer, Anticancerresearch
37(2017) 5935-5939.
[24] Andrew M. Scott, James P. Allison, Jedd D.
Wolchok, Monoclonal antibodies in cancer
therapy, Cancer immunity 12 (2012) 14.
[25] A Coulson, A Levy, M Gossell-Williams,
Monoclonal Antibodies in Cancer Therapy:
Mechanisms, Successes and Limitations, West
Indian Medical Journal 63(6) (2014) 650-654.
[26] Henri Kreis, Christophe Legendre, Lucienne
Chatenoud, OKT3 in organ transplantation,
Transplantation Reviews 5(4) (1991) 181–199.
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 1-10
10
[27] A, Purtscher M, Muster T, Ballaun C, Buchacher
A, Sullivan N, Srinivasan K, Sodroski J, Moore
JP, Katinger H, Human monoclonal antibody
2G12 defines a distinctive neutralization epitope
on the gp120 glycoprotein of human
immunodeficiency virus type 1, Journal of
Virology 70(2) (1996) 1100-1108.
[28] Ann L.Daugherty, Randall J.Mrsny, Formulation
and delivery issues for monoclonal antibody
therapeutics, Advanced Drug Delivery Review 58
(5-6) (2006) 686-706.
[29] J Mimuro,Y Koike, Y Sumi, N Aoki, Monoclonal
antibodies to discrete regions in alpha 2-plasmin
inhibitor, Blood 69 (1987) 446-453.
[30] Eloy JO, Petrilli R, Trevizan LNF, Chorilli M,
Immunoliposomes: A review on functionalization
strategies and targets for drug delivery, Colloids and
Surfaces B: Biointerfaces 159 (2017) 454-467.
[31] Rang, H. P, Pharmacology(2003) 241 Edinburgh:
Churchill Livingstone.
Biomimetics in Human Immunology and Applications
Nguyen Thi Huyen1, Tu Thi Thu Hien1, Bui Thanh Tung1,
Pham Thi Minh Hue2, Nguyen Thanh Hai1,
1
VNU
School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2Hanoi University of Pharmacy, 15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Abstract: As a scientific discipline, biomimetics has potential applications in various research
fields for improving human lives. The advances in research on human and animal immune systems
and immunological mechanisms have helped develop a lot of approaches in preventing, diagnosing,
and treating diseases. By studying the biomimetic models and materials mimicking the
components of those systems, we have advanced our knowledge and skills in developing new
products for pharmaceutical and medical applications. Therefore, immunology and biomimetics of
immune systems may have limitless potential applications in health sciences. This review focuses
on the application of biomimetic antibodies and monoclonal antibodies to the diagnosis and
treatment of diseases.
Keywords: Biomimetics, monoclonal antibody, immune system.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_sinh_hoc_mien_dich_hoc_nguoi_va_ung_dung_trong_y_duoc.pdf