Sở dĩ ngành công nghiệp da giầy đã được Đảng và nhà nước quan tâm định hướng đầu tư phát triển đến năm 2010 là bởi vì nó dựa trên một số căn cứ tổng quát về tình hình sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ và nhập khẩu da giầy trên thế giới. Cụ thể là
-Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia kinh tế thì trong những năm tới, các nước Châu Á và Viễn Đông sẽ chiếm 75% sản lượng giầy dép trên toàn thế giới(khoảng trên 10tỷ đôi).Việt Nam là nước được đánh giá là nước có tiềm năng để chiếm lĩnh thị trường này.
-Các nước và khu vực có mức tiêu thụ và nhập khẩu giầy dép lớn trên thế giới mà Việt Nam có lợi thế xâm nhập là Mỹ, EU, Nhật.
ã Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giày dép của Việt Nam, chiếm xấp xỉ 80% kim ngạch xuất nhập khẩu. Chúng ta cần củng cố và phát triển trường này, khai thác tối đa các ưu đãi mà thị trường này còn dành choViệt Nam(chưa bị quản lý bằng các hạn ngạch) được hưởng ưu đãi thu quan bằng 70% mức thuế bình thường nếu đảm bảo tiêu chuẩn mà họ yêu cầu. Tăng cường mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU, một vấn đề đang được EU quan tâm.
ã Nhật bản là thì trường có nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoảng 350 triệu đôi giầy dép từ nước ngoài. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào Nhật bản chỉ chiếm khoảng 7 đến 8% tổng kim ngạch. Tuy nhiên chúng ta có khả năng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm tới.
ã Mỹ là nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giầy lớn nhất thế giới. Hàng năm Mỹ nhập khoảng 1.4 tỷ đôi giầy dép các loại trị giá 14 đến 15 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam mới đạt kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 1998 trên 110 triệu USD (chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành). Nếu có hiệp định thương mại và quy chế tối huệ quốc, nếu các doanh nghiệp Việt nam đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường và có khả năng cạnh tranh thì chúng ta có thể xuất khẩu giầy dép sang Mỹ không thua kém vào EU, thậm chí có thể cao hơn.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 201, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng đem lại lợi ích kinh tế xã hội thường kéo dài.
Thứ ba: Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng thường kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn.
Thứ tư : Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng, vật kiến trúc như nhà máy, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi đường xá cầu cống bến cảng... sẽ hoạt ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của các kết quả đầu tư.
Thứ năm : Với đặc điểm là thời gian thực hiện đàu tư dài, vốn lớn, lao động nhiều, thời gian vận hành các kết quả đầu tư dài. Do đó nó tạo ra một đặc điểm cho hoạt động đầu tư phát triển là mức độ rủi ro cao.
3- Vai trò của đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển có một vai trò hết sức quan trọng với mọi quốc gia cũng như với mọi doanh nghiệp. Thông qua hoạt động đầu tư thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta có thể xem xét một cách cụ thể vai trò của đầu tư phát triển trên hai góc độ như sau :
Đứng trên góc độ vĩ mô.
-Thứ nhất : Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Đối với tổng cầu thì đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn. Theo số liệu của ngân hàng thế giới đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động ngắn hạn đến tổng cầu. Đối với tổng cung thì kết quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng làm cho tổng cung dài hạn tăng lên. Từ đó kích thích tiêu dùng, tăng sản xuất.
-Thứ hai : Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế.
Tăng đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định nền kinh tế. Mặt tích cực là tăng đầu tư dẫn đến sản xuất phát triển, từ đó tăng thu nhập, việc làm tăng, nâng cao đời sống xã hội, giảm các tệ nạn xã hội. Mặt tiêu cực đó là khi đầu tư tăng thì giá tăng lên dẫn đến lạm phát làm cho thu nhập thực tế giảm, chi phí đầu vào tăng, dẫn đến sản xuất giảm,việc làm giảm.
Giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt. Tác động tích cực là khi giảm đầu tư dẫn đến lạm phát giảm từ đó làm tăng lợi nhuận cho người sảm xuất, kích thích sản xuất. Tác động tiêu cực là đầu tư giảm dẫn đến sản xuất giảm, việc làm giảm, thu nhập giảm.
Thứ ba : Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kết quả của các nhà nghiên cứu kinh tế cho thấy muốn giữ được tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15- 25% so với GDP và phải tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước :
Vốn đầu tư
Ta có: ICOR =
Mức gia tăng GDP
Vốn đầu tư
Suy ra : Mức gia tăng GDP(g) =
ICOR
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước là khác nhau, nó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước.
Thứ tư : Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự tác động của đầu tư làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp dần sang dịch vụ. Chuyển dần các vùng lãnh thổ nghèo kém, chậm phát triển thành các vùng có tốc độ phát triển cao hơn, đẩy lùi được đói nghèo.
Thư năm : Đầu tư tác động đến sự phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có công nghệ thiết bị tiên tiến. Mà để có công nghệ thiết bị hiện đại phù hợp với yêu cầu phất triển thì có hai con đường đó là tự nghiên cứu và tiến hành đầu tư mua công nghệ tư nước ngoài. Bất cứ con đường nào cũng đòi hỏi phải có sự đầu tư và chỉ có đầu tư mới phát triển được trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất nước.
b-Đứng trên góc độ vi mô.
Trên góc độ vi mô, ta thấy đầu tư có vai trò quyết dịnh đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Bởi doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi sản phẩm đầu ra được tiêu thụ. Muốn vậy thì các sản phẩm của doanh nghiệp phải có chất lượng cao, giá rẻ, đẹp. Để có được điều này thì cầc tăng cường hoạt động đầu tư bởi vì:
-Đầu tư làm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
-Đầu tư tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
-Đầu tư dẫn đến làm giảm chi phí sản xuất, tư đó sẽ giảm giá thành sản phẩm và tất là sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhiều hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp tư đó cũng được tăng lên.
-Thông qua đầu tư chiều sâu sẽ làm cho chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng phong phú và đa dạng đồng thời kết hợp với giá thành hạ sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế.
-Một vai trò nữa của đầu tư đứng trên góc vi mô đó là đầu tư tác động đến việc nâng cao trình độ tay nghề của các bộ công nhân viên, cải thiện hệ thống quản lý của doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển của thị trường.
II. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành.
Khái niệm về hiệu quả đầu tư.
Hiệu quả có thể được khái niệm một cách chung nhất là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người lao động của cơ sở, của ngành địa phương hoặc của cả nước Chỉ tiêu hiệu quả được tính như sau:
Các kết quả của đầu tư
Chỉ tiêu hiệu quả =
Chi phí để có đựoc các kết quả trên
Để đánh gía hiệu quả đầu tư người ta sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh hiệu quả, đáp ứng một yêu cầu nhất định trong quản lý, nghiên cứu kinh tế.
Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội
Thông thường hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá ở hai mặt đó là mặt tài chính và mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên ở đây chúng ta đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành, do đó chúng ta chỉ xét trên mặt hiệu quả kinh tế xã hội.
Về phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư xét trên mặt kinh tế xã hội được đứng trên hai góc độ vĩ mô và vi mô cũng có sự khác nhau.
Đứng trên góc độ vi mô ta có:
-Mức đóng góp vào ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi các kết quả của hoạt động đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế đát, lệ phí chuyển nhượng...) từng năm của ngành.
-Số chỗ làm việc tăng thêm của từng năm do hoạt động đầu tư của nghành tạo ra :
Phương pháp tính :
Số làm việc tăng thêm
=
Số lao động thu hút thêm
-
Số lao động mất việc làm
-Số ngoại tệ thu hút được từ hoạt động đầu tư đem lại :
Phương pháp tính :
Số ngoại tệ thực thu
=
Tổng thu ngoại tệ
-
Tổng chi ngoại ệ
-Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư.
-Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư.
Phương pháp tính :
Mức độ chiếm lĩnh thị trường mới
=
Doanh thu do bán sản phẩm của cơ sở tại thị trường này
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cùng loại tại thị trường này
- Nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý.
-Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
b. Đứng trên góc độ vĩ mô
Đối với cấp quản lý vĩ mô của nhà nước, của địa phương và ngành khi xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư cần tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến việc thực hiện đầu tư, mọi lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu được do đầu tư đem lại.
Chi phí ở đây bao gồm chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành và của đất nước.
Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa phương và cả nền kinh tế được hưởng.
Để xác định các chi phí, lợi ích đầy đủ của công cuộc đầu tư phải sử dụng các báo cáo tài chính, tính lại giá đầu vào, đầu gia theo giá xã hội (giá ẩn, giá tham khảo) không thể sử dụng giá thị trường để tính các khoản thu chi và lợi ích kinh tế xã hội vì giá thị trường chịu sự chi phối của các chính sách tài chính, kinh tế của nhà nước.
Vì vậy, khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những công cuộc đầu tư có tầm cỡ lớn bao quát cả một vùng, một ngàn rộng lớn hay quan trọng với nền kinh tế thì phải điều chỉnh lại giá này theo giá xã hội, phải lưu ý đến các yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến dự án và ngược lại.
3. Các chi tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư xét ở tầm vĩ mô.
Chỉ tiêu 1: giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm (NVA).
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư. NVA là mức chênh lệch gữa giá trị đầu gia và giá trị đầu vào.
Phương pháp tính :
NVA
=
O
-
(Mi+iv)
Trong đó : NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại.
O: là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư
Mi: là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây.
iv: là vốn đầu tư hoặc khấu hao
NVA có thể được tính theo từng năm như sau:
Phương pháp tính :
NVAi
=
Oi
-
(Mii+Di)
Di :là khấu hao năm thứ i
Đối với các dự án liên doanh NVA gồm hai bộ phận là:
-Giá trị sản phẩm thuần tuý gia tăng quốc gia. Giá trị này chính là phần giá trị gia tăng được sử dụng trong nước (NNVA).
-Giá trị gia tăng thuần tuý được chuyển ra nước ngoài (RP) là tiền lương, tiền thưởng, trả lãi vay vốn, lợi nhuận thuần, lãi cổ phần của người nước ngoài, các khoản thanh toán khác không được đưa vào trong đầu vào nguyên vật liệu.
NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của đầu tư đối với nền kinh tế của đất nước.
Ta có:
Chỉ tiêu 2: Số lao động có việc làm do thực hiện dự án và có việc làm tính trên một đơi vị giá trị vốn đầu tư.
-Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (số lao động gián tiếp).
-Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư :
Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư, cũng tương tự như đối với số lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và số vốn đầu tư của các dự án liên đới. Sau đó ta tính toán các chỉ tiêu :
Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp (Id).
Id
=
Ld
Ivd
Ld : là số lao động trực tiếp.
Ivd : Số vốn đầu tư trực tiếp
Toàn bộ số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ (It)
It
=
Lt
Ivt
Lt : là toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp.
Ivt : là toàn bộ số vốn đầu tư đầy đủ.
Lt = Ld +Lind (Lind: số lao động có việc làm gián tiếp)
Ivt = ivd +ivind (ivind: số vốn đầu tư gián tiếp )
Chỉ tiêu 3: Mức tiết kiệm ngoại tệ.
Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến các cân thanh toán của dất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức đóng góp vào cán cân thanh toán của đất nước.
Bước 1: Xác định chênh lệch thu chi ngoại tệ của dự án xem xét. Phần chênh lệch này được tính cho cả đời dự án và từng năm.
Bước 2: Xác định mức thu ngoại tệ của dự án có liên quan xem xét (chênh lệch gián tiếp ).
Bước 3: Tính mức chênh lệch thu chi ngoại tệ dự án trực tiếp và gián tiếp bằng cách cộng bước1 và bước2.
Bước 4: Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu không phải nhập của nước ngoài.
Bước 5: Xác định mức tiếp kiệm ngoại tệ bằng cách cộng toàn bộ mức chênh lệch của bước 3 và bước4.
Chỉ tiêu 4: Tác động của dự án tới việc phân phối thu nhập trong xã hội.
Bước 1: Tính mức gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng.
Bước 2: Tính mức giá trị gia tăng phân phối cho vùng.
Chỉ tiêu này được tính bằng phần giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng thuộc vùng đó.
Bước 3: Xác định tỷ trọng giữa giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho từng nhóm đối tượng so với tổng mức giá trị gia tăng hàng năm của dự án
Chỉ tiêu 5: Khả năng cạnh tranh quốc tế.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế.
Phương pháp tính chỉ tiêu này như sau:
-Xác định P(FE).
Tính đầu vào của dự án từ nguồn trong nước (vốn đầu tư, nguyên vật liệu, dịch vụ kết cấu hạ tầng, tiên lương trả cho người lao động trong nước...)phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Giá trị các đầu vào này được tính theo giá thị trường trong nước điều chỉnh, ở mặt bằng thời gian hiện tại và tỷ giá hối đoái điều chỉnh.
So sánh số ngoại tệ tiết kiệm với giá trị các đầu vào trong nước. Nếu tỷ số này >1 thì sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Ta có :
Trong đó: iC: là chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế
DR: là các đầu vào trong nước dùng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
Chỉ tiêu 6: Một số tác động khác của dự án.
III. Một số vấn đề về ngành công nghiệp da giầy.
Đặc điểm của ngành công nghiệp da giầy.
Khi nghiên cứu hoạt động đầu tư trong ngành da giầy chúng ta thấy được các đặc điểm nổi bật như sau:
Một là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã hội. Số lao động có việc làm tính đến năm 1999 vào khoảng 300000 người, ngoài ra tạo thêm nhiều việc làm gián tiếp thông qua việc phát triển các ngành nghề phụ như chăn nuôi gia súc...
Hai là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành có công nghệ đơn giản hơn so với các ngành công nghiệp khác, cần ít vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế cao. Mặc dù đặc điểm là thiết bị gản đơn song ngành công nghiệp da giầy hiện nay vẫn phải mua máy móc thiết bị, công nghệ của nước ngoài.
Ba là, Ngành công nghiệp da giầy nước ta hiện nay có hệ thống công nghệ, máy móc thiết bị tương đối lạc hậu.
Bốn là, Ngành công nghiệp da giầy phụ thuộc tương đối vào nước ngoài về các nguyên liệu đầu vào.
Năm là, Ngành da giầy là ngành sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu ăn mặc, thời trang. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Vì vậy đặc điểm của ngành da giầy là luôn có sự đổi mới về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm.
Sáu là, Là ngành có tiềm năng xuất khẩu tương đối lớn, thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Vai trò của ngành công nghiệp da giầy
Cùng với một số ngành công nghiệp khác, ngành công nghiệp da giầy được nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, đưa ra cấc kế hoạch định hưóng tới năm 2010, bởi lẽ nó có một vai trò tương đối quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của ngành công nghịêp da giầy được biểu hiện qua một số điểm như sau:
Một là, Giải quyết công ăn việc làm cho toàn xã hội. Đây là một vai trò to lớn của ngành bởi vì trong giai đoạn phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay thì vấn đề việc làm trở thành gánh nặng cho Nhà nước. Với việc tăng trưởng và phát triển còn khiêm tốn thì việc phát triển các ngành nghề giải quyết được nhiều việc làm, đặc biệt là các việc làm thủ công, không đòi hỏi trình độ cao trở lên hết sức quan trọng.
Hai là, Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong những năm qua sự phát triển của ngành công nghiệp da giầy đã đem lại cho Nhà nước nhiều khoản thu, thông qua việc mở rộng sản xuất, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tăng thu ngoại tệ, làm giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán. Tạo ra sự tăng trưởng và phát triển tương đối trong những năm vừa qua.
Ba là, Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bốn là, Có vai trò trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong nước.
3.Vai trò đầu tư với việc phát triển ngành da giầy.
Trong những năm vừa qua ngành da giầy đã có những bước đi mang tính đột phá. Sản phẩm không ngừng tăng, quy mô không ngừng phát triển. Đã tạo ra cho mình một vai trò, vị trí tương đối trong việc thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất kinh tế xã hội. Đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển cuả đất nước. Để có được những kết quả đó chúng ta phải kể đến vai trò của hoạt động đầu tư phát triển. Thông qua hoạt động đầu tư mà tác động đến ngành da giầy được cụ thể ở một số vai trò như sau.
-Thứ nhất: Đầu tư tác động đến quy mô của ngành da giầy. Nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của ngành giầy thế giới và các nước trong khu vực. Các hoạt động đầu tư phát triển của ngành da giầy ngày càng nhiều và hiệu quả, tác động đến quy mô, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Cụ thể tính đến năm 1998 ngành công nghiệp da giầy Việt Nam có 196 doanh nghiệp, trong đó:
+Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước có 109 đơn vị.
+Các doanh nghiệp sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân có 34 đơn vị.
+Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có 39 đơn vị.
+Các doạnh nghiệp liên doanh có 14 đơn vị.
Quy mô sản phẩm không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn nhiều so với năm trước. Theo số liệu thống kê thì năm 1998 toàn ngành đã sản xuất được 300 triệu đôi giầy dép các loại; 26 triệu đôi túi, cặp; 17 triệu(SQFT) da thuộc các loại. Đến năm 1999 với 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại sản lượng đã tăng là 80 triệu đôi giầy dép các loại, bốn triệu cặp túi và năm triệu sản phẩm da thuộc. Qua đây ta có thấy được vai trò của đầu tư đối với sự phát triển quy mô của ngành da giầy.
-Thứ hai : Đầu tư tác động đến sự phát triển trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý.
Bằng việc đầu tư cải tiến công nghệ, mua linh kiện, thiết bị mới đồng thời thông qua tăng cường đầu tư hợp tác với liên doanh với các doanh nghiệp nhà đầu tư nước ngoài mà trình quản lý của cán bộ kỹ thuật và công nhân được nâng cao, tính năng động, tính sáng tạo và sự khéo léo của lực lượng lao đông trẻ được phát huy. Trình độ quản trị kinh doanh của các cán bộ quản lý, ý thức kỷ luật có nhiều tiến bộ.
-Thứ ba: Đầu tư tác động đến sức cạnh tranh của sản phẩm của ngành da giầy trên thị trường thế giới.
Thông qua hoạt động đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các hình thức mẫu mã phù hợp, thời trang mà trong những năm qua các sản phẩm của ngành chiếm được một số thị trường mới và đầy tiềm năng như EU, Mỹ, Nhật và đồng thời khôi phục lại một số thị trường truyền thống như Nga và các nước Đông Âu.
Trên đây là một số vai trò cơ bản của đầu tư đã tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển ngày càng mạnh của ngành da giầy trong một số năm qua.
Song thông qua sự phát triển một cách nhanh chóng mà ngành da giầy cũng tác động trở lại đến đầu tư. Bởi vì sự tăng trưởng và phát triển nhanh tạo ra một môi trường đầu tư tương đối hấp dẫn. Do đó mà Nhà nước cũng như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đều có kế hoạch, chiến lược đầu tư phát triển ngành da giầy trong tương lai.
PhầnII: Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy.
I.Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy trong thời gian qua.
Trong thời gian qua ngành công nghiệp da giầy đã có một bước phát triển đột phá. Tốc độ phát triển không ngừng tăng, để có được điều đó trước hết phải kể đến vai trò của đầu tư. Chúng ta có thể thấy rõ được vấn đề này qua việc đánh giá thực trạng của ngành da giầy trong một số năm qua.
1.Vốn đầu tư qua các năm.
Trong giai đoạn 1990 – 1995 toàn ngành đã đầu tư khoảng 2200 tỷ đồng bằng nguồn vốn trong nước và khoảng 300 triệu USD bằng nguồn vốn nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư như là xí nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Và trong giai đoạn 1996 – 2000 vốn đầu tư toàn ngành vào khoảng 1540 tỷ đồng cho đầu tư nguyên vật liệu phụ tùng và khoảng 325 triệu USD cho đầu tư phát triển sản xuất.
Chúng ta có thể thông qua các số liệu về vốn đầu tư thực hiện qua các năm của tổng công ty da giầy Việt Nam để đánh giá về tình hình đầu tư của toàn ngành.
Bảng 1: Vốn thực hiện đầu tư qua các năm.
Năm
Thực hiện (triệu đồng)
Kế hoạch (triệu đồng)
Tỷ lệ
(%)
Tốc độ phát triển liên hoàn(%)
1995
332526
-
-
-
1996
36104
60174
60.00
111.00
1997
39689
59727
66.45
109.93
1998
44740
70110
63.81
112.73
1999
79930
155000
51.57
178.65
2000
-
Dự kiến: 205000
-
-
Qua bảng ta thấy mặc dù tốc độ vốn đầu tư thực hiên tăng liên tục qua các năm(1996 tăng 11% so với năm 1995, năm 1997 tăng 9.93% so với năm 1996...). Tuy nhiên qua bảng ta thấy vốn đầu tư thực hiện hầu như chỉ bằng khoảng 50 đến 60% vốn đầu tư kế hoạch đề ra. Qua đó ta thấy được thực trạng trong ngành da giầy là việc huy động vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngành còn cần rất nhiều vốn để đầu tư phát triển trong khi đó các nguồn đáp ứng còn hạn chế, và các giải pháp về huy động, khuyến khích đầu tư từ mọi thành phần kinh tế còn chưa hợp lý.
2.Quy mô vốn đầu tư.
Về quy mô vốn đầu tư hiện nay của ngành da giầy nhìn chung vẫn còn nhỏ chỉ có các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài là tương đối lớn. Ta có thể so sánh quy mô vốn đầu tư cho một dự án của tổng công ty da giầy với quy mô đầu tư cho một dự án của nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam qua hai bảng số liệu sau:
Bảng 2: Quy mô bình quân dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998.
Đơn vị: triệu đồng
1996
1997
1998
Tổng
Vốn đầu tư thực hiện
36104
39689
44740
120533
Số dự án
5
5
6
16
Vốn đầu tư /số dự án
7220.8
7937.8
7456.7
7533.3
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998.
Bảng 3: Quy mô bình quân dự án đầu tư nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam.
Đơnvị: 1000 USD
Liên doanh
100% vốn đầu tư nước ngoài
Tổng
Vốn đầu tư thực hiện
56545.9
425883.2
482429.1
Số dự án
14
39
53
Vốn đầu tư /số dự án
4038.99
10920.08
9102.43
Qua 2 bảng (2) và (3) ta thấy quy mô đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài(nếu lấy tỷ giá hối đoái là 10000/USD) là 9102.43 triệu đồng trên một dự án gấp 12.1 lần dự án dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam. Điều này cho thấy phần lớn quy mô các doanh nghiệp da giầy của Việt Nam còn rất nhỏ, do đó dẫn đến khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài không cao. Và từ đây cũng cho thấy việc đầu tư trong những năm qua của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế Việt Nam còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, kế hoạch đầu tư cụ thể, việc phân bổ sản xuất còn chưa theo quy hoạch chung, manh mún và phân tán.
3.Cơ cấu vốn đầu tư.
Theo số liệu thống kê cho biết trong khoảng từ năm 1992 đến năm 1997 tổng số vốn đầu tư toàn ngành vào nhà xưởng, thiết bi trong lĩnh vực sản xuất giầy, đồ da là vào khoảng 6000 tỷ đồng trong đó phần thiết bị chiếm khoảng 3500 tỷ đồng. Trong lĩnh vực thuộc da, tuy ít có sự đầu tư lớn và đồng bộ các cơ sở sản xuất da thuộc cũng đã đầu tư trên 200 tỷ đồng vào nhà xưởng, thiết bị, trong đó khoảng 140 tỷ đồng dành cho các loại thiết bị thuộc da. Chúng ta có thể thông qua các số liệu về tỷ lệ đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam để thấy được vấn đề này.
Bảng 4: Vốn đầu tư và thiết bị nhà xưởng.
Đơn vị: tỷ đồng.
Năm
Vốn đầu tư
Trong đó
Nhà xưởng
Thiết bị
Tỷ trọng(%)
1
2
3
2/1
3/1
1996
33.404
225.904
7.5
77.55
22.45
1997
28.146
16.753
11.393
59.52
44.48
1998
44.510
14.073
30.437
31.62
68.32
Tổng
106.06
56.73
41.81
53.00
47.00
Nguồn : Báo cáo thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998 - Tổng công ty da giầy Việt Nam.
Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy vốn đầu tư cho máy móc thiết bị hàng năm tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên trong cơ cấu đầu tư giá trị vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản vẫn chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, cụ thể năm 1996 chiếm 77.55% và năm 1997 chiếm 59.52% và năm 1998 chiếm 31,6 2% tổng vốn đầu tư. Từ đó, cho thấy cơ cấu vốn đầu tư giữa vốn cho xây dựng cơ bản và vốn cho máy móc thiết bị còn chưa hợp lý. ở các nước tiên tiến trên thế giới tỷ lệ này là xây cơ bản chiếm khoảng 30 đến 35%, máy móc thiết bị chiếm khoảng 65 đến 70%, còn ở nước ta thì ngược lại. Điều này chứng tỏ trình độ sản còn thấp còn mang nặng tính thủ công của nước ta. Tuy nhiên qua bảng ta cũng thấy được tỷ lệ đầu tư cho xây dựng ngày càng giảm và thay vào đó là đầu tư cho máy móc thiết bị ngày càng tăng phản ánh trình độ máy móc thiết bị ngày càng phát triển. Và qua đó cho thấy chúng ta đang có một hướng phát triển ngành da giầy một cách đúng đắn và triển vọng.
4.Cơ cấu đầu tư theo ngành hàng, mặt hàng.
Hiện nay cơ cấu vốn theo ngành hàng, mặt hàng, còn nhiều bất cập. Hầu hết lượng vốn đầu tư chủ yếu là vào ngành giầy, rất ít lượng vốn được đầu tư vào phát triển ngành da thuộc, nguyên vật liệu,phụ tùng. Theo số liệu thống kê thì giai đoạn 1992 đến 1997 ngành da giầy đầu tư 6000 nghìn tỷ đồng vào lĩnh vực sản xuất da giầy trong khi đó chỉ có 200tỷ đồng được đầu tư vào lĩnh vực thuộc da.
Một vấn đề nữa là cơ cấu vốn đầu tư vào mặt hàng của chúng ta còn thiếu cân đối. Chúng ta có thể xem xét vấn đề này qua cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng của tổng công ty da giầyViệt Nam để thấy được điều này. Theo tổng kết cho thấy hầu hết vốn đầu tư thực hiện của công ty được đầu tư vào sản xuất giầy dép. Cụ thể là vào cuối năm 1998, trong số 120533 triệu đồng vốn đầu tư thực hiện thì vốn đầu tư vào sản xuất giầy dép là 110888 triệu đồng, chiếm 92%. Ta có thể thấy sự phân phối vốn đầu tư qua bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng.
Đơn vị: triệu đồng
Tên mặt hàng
Vốn đầu tư
Tỷ trọng (%)
Giầy vải
46682
42.1
Giầy thể thao
5026
4.53
Giầy nữ
36485
32.9
Giầy da nam
0
0
Giầy da nữ
10076
9.09
Dép
12619
11.38
Túi cặp
0
0
Tổng
110888
100
Từ bảng trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư vào mặt hàng giầy vải (42.1%), giầy nữ(32.9%) là rất lớn, ngược lại vốn đầu tư vào sản xuất các mặt hàng giầy thể thao, giầy da nam, nữ lại quá ít. Trong khi đó xu hướng tiêu dùng trong thời gian tới các loại giầy dép thời trang sẽ được quan tâm và tiêu dùng nhiều hơn điều đó chứng tỏ chúng ta cần phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý hơn, phù hợp hơn để ngành da giầy trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để tất cả các thành phần trong ngành da giầy có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế trong thời gian tới.
5.Đầu tư vào lao động.
Ngành da giầy có số lượng lao động đến nay có khoảng 300000 người, song so với yêu cầu thì vẫn còn thiếu hụt một lượng rất lớn về đội ngũ cán bộ, công nhân được đào tạo chuyên sâu nhất là về công nhân trong khâu kỹ thuật và thiết kế sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành phần lớn được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào những năm 1970 – 1980. Trong những năm gần đây hầu như không có sự bổ sung gì loại trừ một số cán bộ kỹ thuật về thuộc da được đào tạo dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia UNiDO, hoặc được đào tạo ở một số nước như Italia, Xingapore, Hà Lan. Trong nước chưa có trường lớp đào tạo kỹ sư, công nhân chuyên ngành da giầy.
Tổng công ty da giầy Việt Nam là trung tâm của hiệp hội da giầy Việt Nam, có sản lượng cũng như kim nghạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 17 đến 19% toàn ngành. Năm 1997 số lao động bình quân trong tổng công ty là 19703 người trong đó lao động có trình độ cao đẳng và đại học chiếm tỷ lệ thấp 3.69%, lao động bậc 3 trở lên chiếm khoảng 11.72% còn lại là lao động bậc thấp. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì vấn đề về lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao còn trở nên cấp bách hơn vì đa số các doanh nghiệp này không có được đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo cơ bản, số cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tình hình lao động có khả quan hơn, vì thông qua các dự án này cán bộ, công nhân của doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài. Từ đó trình độ tay nghề của công nhân, cán bộ kỹ thuật, quản lý sản xuất... được nâng cao.
Qua việc đánh giá trình độ, số lượng công nhân của tất cả các thành phần trong ngành da giầy trên ta thấy được thực trạng đầu tư vào lực lượng lao động có trình độ, kỹ thuật còn rất ít. Từ đó hiệu quả đầu tư cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của chúng ta trong những năm qua còn bị hạn chế. Vấn đề cấp bách ở đây phải tăng cường đầu tư đào tạo thật tốt các cán bộ có chuyên môn cao để đáp ứng được phương hướng phát triển của Ngành trong thời gian tới.
6.Nguồn vốn đầu tư
Để có được kết quả tăng trưởng và phát triên tốt trong những năm vừa qua thì ngành da giầy phải đầu tư một lượng vốn tương đối lớn. Để đáp ứng được nhu cầu về vốn này ngành da gíầy đã phải huy động tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước. Chúng tă có thể xem xét thực trạng về nguồn vốn đầu tư của Ngành thông qua các nguồn vốn đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam.
Bẳng 6: Các nguồn vốn đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam năm 1996 – 1997.
Stt
Nguồn vốn đầu tư
1996
1997
Giá trị (tỷ đồng)
% so với tổng mức
Giá trị (tỷ đồng)
% so với tổng mức
1
Tín dụng Nhà nước
6.136
17
12.430
43.3
2
Khấu hao cơ bản để lại
2.199
6
1.700
5.9
3
Lợi tức sau thuế
0.350
1
-
-
4
Vay nước ngoài và vay khác
27.419
76
14.555
50.8
5
Tổng mức
36.104
100
28.685
100
Qua bảng trên ta có thể thấy cơ cấu các nguồn vốn đầu tư còn chưa hợp lý, cụ thể là nguồn vốn tự đầu tư của ngành còn rất thấp, năm 1996 tỷ lệ này của tổng công ty da giầy chỉ chiếm 7% (tính cả khấu hao cơ bản để lại), năm 1997 chỉ có 5.9%. Hơn nữa cũng trong năm 1996 nguồn khấu hao cơ bản trở lại tái đầu tư chỉ đạt 13.5% so với tổng trích khấu hao là 16.285 tỷ đồng. Điều này phản ánh gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp là rất lớn. Tỷ lệ nguồn vốn vay nước ngoài và vay khác lại quá nhiều, tổng công ty da giầy là 76 % năm 1996 và 50.8% năm 1997 trong tổng số các nguồn vốn huy động đầu tư.
II.Hiệu quả của hoạt động đầu tư trong ngành công nghiệp da giầy qua các giai đoạn.
1.Giai đoạn 1990 - 1995
a.Những thành tựu đạt được
Đây là giai đoạn ngành da giầy Việt Nam vượt qua cơn suy thoái, khó khăn thử thách (từ năm 1990 đến 1992) và phát triển (từ năm 1993 đến năm 1995), đồng thời là giai đoạn ngành da giầy thực hiện nghị quyết lần thứ Vii của Đảng. Do đó ta có thể thấy được trong giai đoạn này ngành da giầy có nhịp độ phát triển rất cao, vượt nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch định hướng 1990 đến năm 1995, tạo nhiều cơ hội cho các sản phẩm giầy đồ da Việt Nam hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Năng lực sản xuất năm 1995 tăng 7 đến 9 lần so với năm 1992. Bình quân hàng năm tăng trưởng về sản lượng trên 40%, về giá trị xuất khẩu trên 50% vượt 15% so với kế hoạch định hướng.
Trong giai đoạn này đã tạo ra một số hiệu quả về mặt xã hội rất tích cực. Trước năm 1990 chỉ có làm việc làm cho trên 25 nghìn lao động tại các xí nghiệp quốc doanh là chính, đến giai đoạn này đã thu hút được gần 200 nghìn người vào làm việc cho ngành da giầy. Đó là chưa kể đến số lao động đang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ và sản xuất nguyên vật liệu cho ngành da giầy.
Trình độ kỹ thuật và tay nghề của cán bộ và công nhân được nâng cao nhiều lần, trình độ kinh doanh của cán bộ quản lý, ý thức kỷ luật trong lao động cũng có nhiều tiến bộ.
Trong giai đoạn này cũng phát triển khá mạnh các mối quan hệ với các thị trường nước ngoài. Thiết lập được nhiều bạn hàng lâu dài, bền vững, có tiềm lực về tài chính, kỹ thuật trong đó có cả các hãng giầy lớn như NiKE, REEBOK, BATA... các sản phẩm từ da và giả da của Việt Nam như giầy, túi, cặp... đã có mặt ở các thị trường Tây Âu, Đông Âu, Bắc Mỹ, Đông á... cùng với nhiều nhãn hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế.
Thành tựu trên lĩnh vực xuất khẩu giầy da là nhân tố quan trọng để mở rộng sản xuất, tạo môi trường thuận lợi cho kỹ thuật, công nghệ giai đoạn này được đầu tư phát triển, tham gia ngày càng tích cực vào cộng đồng giầy dép quốc tế.
b.Những tồn tại và yếu kém.
Đây là giai đoạn đầu phát triển ngành da giầy, chúg ta đã đạt được nhiều thành công rực rỡ. Tuy nhiên, trong giai đoạn này vẫn còn tồn tại những nhược điểm, hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Cụ thể:
-Sản phẩm của ngành da giầy giai đoạn này lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu, hoá chất, phụ tùng máy móc từ nước ngoài và nhất là từ chính các đối tác đặt sản xuất hoặc mua sản phẩm của chúng ta. Yếu kém này đã làm hạn chế rất nhiều về hiệu quả sản xuất cũng như lợi ích của các doanh nghiệp và Nhà nước.
-Tình trạng yếu kém tài lực, vốn đầu tư đều phải vay trung hạn với lãi suất cao nên 70% các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện gia công sản phẩm cho nước ngoài.
-Ngoài sự yếu kém về vốn, giai đoạn này mới phát triển nên chưa có đủ uy tín và điều kiện để trực tiếp xuất sản khẩu sản phẩm, mà phải thông qua nhiều tầng, nấc trung gian mới đưa được hàng đến tận nơi tiêu thụ ở nước ngoài.
Trình độ quản lý kĩ thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt, quản lý và vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh tế kỹ thuật, chưa có trường lớp đào tạo. Phần lớn các bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất một cách khoa học, đồng bộ, đúng tiến độ và chất lượng.
2-Giai đoạn từ năm 1996 đến nay.
Những thành tựu đạt được.
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ và thành công của ngành da giầy Việt Nam.Với sự tăng trưởng và phát triển liên tục Ngành đã đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho đất nước thông qua xuất khẩu sản phẩm của nình. Đồng thời còn tạo thêm hàng chục nghìn chỗ việc làm mới. Chúng ta có thể thấy được hiệu quả kinh tế xã hội mà ngành tạo được thông qua việc xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của tổng công ty Da Giầy
Bảng 7:Kết quả đạt được của tổng công ty da giầy Việt Nam.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1997
1998
Giá trị xuất khẩu
Triệu đồng
134965
192298
187920
Nộp ngân sách
-
12957
11700
12300
Lao động
-
20930
20956
20006
Vốn đầu tư
-
36104
39689
44740
Nộp NS/VĐT
-
0.36
0.29
0.27
Lao động/VĐT
-
0.06
0.07
0.07
Qua bảng ta thấy tổng công ty đã tạo công ăn việc làm cho hơn 20000 người lao động, trung bình mỗi động vốn đầu tư tạo ra 0.65 chỗ việc làm. Đây là một sự đóng góp to lớn của tổng công ty vào giải quyết nạn thất nghiệp của đất nước ta hiện nay.
-Tổng công ty hàng năm đã mang lại một lượng ngoại tệ tương đối lớn cho đất nước, năm 1996 là 134.965 triệu USD, năm 1997 là 192.298 triệu USD và năm 1998 là 187.920 triệu USD. Đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng, trung bình mỗi đồng vốn đầu tư đóng góp vào ngân sách nhà nướclà 0.30 đồng.
-Với các doanh nghiệp tư nhân và sở hữu tập thể (gồm các công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ) cũng có năng lực sản xuất 50 triệu đôi /năm chiếm 19% tổng năng lực sản xuất toàn ngành.
-Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài : cũng có năng lực sản xuất 18 triệu đôi/năm chiếm 7% tổng năng lực sản xuất toàn ngành, với tổng số vốn đầu tư 39 triệu USD, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1997 đạt 174 triệu USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
-Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài gồm 28 doanh nghiệp, chiếm 16,9% tổng số doanh nghiệp, với tổng số vốn đầu tư thực hiện 259.7 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu năm 1997 đạt 360.6 trriệu USD chiếm 37.3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Đến cuối năm 1999 đầu tư toàn ngành là 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại giầy dép với năng lực sản xuất là 380 triệu đôi/năm, 30 triệu sản phẩm cặp túi và 22 triệu(sqrt) da thuộc. Toàn ngành tạo được 300000 việc làm cho người lao động chưa kể lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực phục vụ cho ngành da giầy. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1.3 tỷ USD và ước tính trong năm 2000 này là vào khoảng 1.6 tỷ USD.
Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua đã đưa ngành công nghiệp da giầy trở thành ngành công nghiệp da giầy trở thành công nghiệp phát triển mạnh đứng thư 3 sau ngành Dầu Khí và Dệt May.
Những hạn chế và yếu kém.
- Cũng giống như giai đoạn 1990 -1995 thì hiện nay ngành da giầy vẫn còn phải phụ thuộc vào nguyên vật liệu nước ngoài. Tuy nhiên chung ta đã có sự đầu tư phát triển các nguồn đầu vào trong nước nhưng chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện nay.
-Trong những năm qua ngành da giầy đã chú ý tới việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đã cử các công nhân đi đào tạo ở nước ngoài song nhìn chung là trình độ, năng lực, kỹ thuật sản xuất của toàn ngành vẫn còn yếu, hiệu quả kinh doanh chưa cao, đóng góp vào ngân sách nhà nước còn ít.
-Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển còn thiếu đồng bộ. Từ đó làm cho nhu cầu vốn đầu tư thường không được đáp ứng, ảnh hưởng tới năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
-Vấn đề mở rộng, nghiên cứu nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước còn ít được quan tâm.
phần iii : Phương hướng và giải pháp đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010.
i. Phương hướng đầu tư.
Một số căn cứ định hướng đầu tư
Sở dĩ ngành công nghiệp da giầy đã được Đảng và nhà nước quan tâm định hướng đầu tư phát triển đến năm 2010 là bởi vì nó dựa trên một số căn cứ tổng quát về tình hình sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ và nhập khẩu da giầy trên thế giới. Cụ thể là
-Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia kinh tế thì trong những năm tới, các nước Châu á và Viễn Đông sẽ chiếm 75% sản lượng giầy dép trên toàn thế giới(khoảng trên 10tỷ đôi).Việt Nam là nước được đánh giá là nước có tiềm năng để chiếm lĩnh thị trường này.
-Các nước và khu vực có mức tiêu thụ và nhập khẩu giầy dép lớn trên thế giới mà Việt Nam có lợi thế xâm nhập là Mỹ, EU, Nhật.
Hiện nay EU là thị trường nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giày dép của Việt Nam, chiếm xấp xỉ 80% kim ngạch xuất nhập khẩu. Chúng ta cần củng cố và phát triển trường này, khai thác tối đa các ưu đãi mà thị trường này còn dành choViệt Nam(chưa bị quản lý bằng các hạn ngạch) được hưởng ưu đãi thu quan bằng 70% mức thuế bình thường nếu đảm bảo tiêu chuẩn mà họ yêu cầu. Tăng cường mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với các nhà nhập khẩu EU, một vấn đề đang được EU quan tâm.
Nhật bản là thì trường có nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoảng 350 triệu đôi giầy dép từ nước ngoài. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào Nhật bản chỉ chiếm khoảng 7 đến 8% tổng kim ngạch. Tuy nhiên chúng ta có khả năng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm tới.
Mỹ là nước có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giầy lớn nhất thế giới. Hàng năm Mỹ nhập khoảng 1.4 tỷ đôi giầy dép các loại trị giá 14 đến 15 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam mới đạt kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 1998 trên 110 triệu USD (chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành). Nếu có hiệp định thương mại và quy chế tối huệ quốc, nếu các doanh nghiệp Việt nam đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường và có khả năng cạnh tranh thì chúng ta có thể xuất khẩu giầy dép sang Mỹ không thua kém vào EU, thậm chí có thể cao hơn.
Ngoài ra, các khu vực thị trường khác như Trung Đông, Bắc âu, úc, Liên Xô cũ...cũng đáng để chúng ta quan tâm và phát triển.
- Một căn cứ tiếp theo chúng ta có thể kể đến đó là chúng ta có một thị trường nội địa rộng lớn chưa được khai thác hết. Trong thời gian qua sản phẩm của ngành mới được tiêu thụ với một lượng không đáng kể từ sự dư thừa xuất khẩu. Chỉ có được một số ít các doanh nghiệp chiếm được thị trường nội địa (giầy vải Thượng Đình, vina giầy...). với số dân xấp xỉ 80 triệu người giai đoạn hiện nay và dự kiến đến năm 2010 nó vào khoảng 100 triệu người thì tất yếu nhu cầu về sản phẩm da giầy phải tăng lên. Tức là trong tương lai không xa ngành công nghiệp da giầy có một thị trường nội địa rất lớn. Vấn đề đó là căn cứ cơ bản để thúc đẩy các hoạt động đàu tư phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng để đảm bảo đủ khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa.
Dựa vào các căn cứ có tính chất tương đối trên mà chúng ta có thể xây dựng cho ngành công nghiệp da giầy những mục tiêu cụ thể cho đến những năm 2010.
Mục tiêu của ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010.
Chúng ta có thể xem xét một số mục tiêu cơ bản của ngành da giầy cho thời gian tới như sau:
-Nâng cao trình độ phát triển của toàn ngành nhằm để có đủ năng lực, điều kiện hội nhập với thị trường thế giới, trụ vững được xuất khẩu, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đây có thể nói là mục tiêu cơ bản và tổng quát nhất. Nó xác định tất cả các nhiệm vụ cho ngành da giầy phải làm ltrong thời gian tới.
-Với mục tiêu cụ thể về số lượng như sau:
Mục tiêu về kim nghạch xuất nhập khẩu.
Dựa vào tình hình phát triển trong những năm qua mà chúng ta xây dựng một mục tiêu cụ thể là đến năm 2005 thì phải phấn đấu xuất khẩu đạt 3.1 tỷ USD và đến năm 2010 thì con số này cần phải đạt được 4.7 tỷ USD.
Mục tiêu về sản lượng
Để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng mà mục tiêu đưa ra cho toàn ngành da giầy phải phấn đấu đến năm 2010 là sản phẩm sản xuất ra là:
Chủng loại sản phẩm
Đơn vị
Số lượng (triệu)
Giầy dép các loại
Túi cặp các loại
Da thuộc các loại
đôi
đôi
SQFT
640
80.89
80
Về việc làm:
Với số lao động thu hút vào ngành hiện nay là khoảng 300000 lao động chưa kể đến số lao động phục vụ cho các lĩnh vực ngành da giầy. Thì mục tiêu ở đây là ngày càng tạo thêm được nhiều việc làm hơn nữa, phát triển nhiều ngành nghề phụ có thể giải quyết được công ăn việc làm.
Mục tiêu về trình độ các bộ công nhân viên.
Với trình độ của công nhân như hiện nay thì chưa có thể đáp ứng được các yêu cầu phát triển và hoà nhập với quốc tế. Vì vậy mục tiêu là cần phải nâng cao dần trình độ của tất cả các cán bộ, công nhân lao động để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của một ngành công nghiệp phát triển, hiện đại
Phương hướng đầu tư.
Với mục tiêu vươn lên trụ vững, phát triển và hoà nhập với thế giới, các nước trong khu vực trong những năm tới thì ngành công nghiệp da giầy cần có phương hướng cụ thể như sau:
Đầu tư phát triển ngành sản xuất da giầy hướng ra xuất khẩu. Khẳng định quan điểm hướng về xuất khẩu này, thì cần có sự đầu tư phát triển chuyển mạnh từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm, đảm bảo nâng cao hiệu quả, tăng nhanh tích luỹ, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu.
Đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu, hoá chất, phụ tùng, thiết bị...phục vụ cho ngành nhằm hạn chế tối đa nguyên liệu nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp thuộc da với sản xuất giầy dép và các sản phẩm khác chế biến từ da thuộc.
Đầu tư nghiên cứu thiết kế, triển khai mẫu mốt, ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, đổi mới thiết bị tạo thế chủ động trong sản xuất, chào hàng, đáp ứng các yêu cầu phát triển của ngành cũng như mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đầu tư bồi dưỡng và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề của Ngành đảm bảo tiếp tục nhanh chóng sự chuyển dịch sản xuất, chuyển giao công nghệ kỹ thuầt tiên tiến từ các nước phát triển, làm chủ trong quá trình sản xuất, hạn chế sự lệ thuộc vào đối tác bên ngoài.
Đầu tư nghiên cứu thị trường nội địa, khai thác tối đa các nhu cầu về các sản phẩm của ngành.
Chú trọng đầu tư chiều sâu để cân đối lại dây chuyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung các thiết bị lẻ để thay thế các máy móc cũ đã quá lạc hậu, đầu tư cải tạo nâng cấp một số trang thiết bị, đổi mới công nghệ với phương trâm là tăng sản lượng, tăng năng suất thiết bị và năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng mặt hàng, khắc phục sự ô nhiễm môi trường...
ưu tiên các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư mới nhằm gia tăng công suất, đảm bảo đạt trình độ công nghệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá.
II. Một số giải pháp.
Để đạt được mục tiêu đề ra cho kế hoạch phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010 cũng như thực hiện tốt phương hướng đầu tư đề ra. Cần có những giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về đầu tư phát triển...Cụ thể là các giải pháp :
1.Phát triển thị trường.
Phát triển thị trường là giải pháp tương đối quan trọng đối với ngành da giầy. Bởi vì thị trường tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngành.
Để phát triển thị trường thì yêu cầu ngành da giầy tích cực tham gia hoặc tổ chức các cuộc triển lãm, giới thiệu sản phẩm. Xúc tiến việc thiết lập các văn phòng đại diên ở các nước có tiềm năng tiêu thụ lớn.
2.Về đầu tư phát triển.
2.1.Giải pháp về tìm kiếm và phát triển nguồn lực tài chính.
Trước mắt để có thể đảm bảo cho hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp huy động các nguồn lực từ nhiều nguồn khác nhau như: Nguồn doanh nghiệp tự đầu tư, nguồn tự có, tự vay và tự trả tín dụng đầu tư nhà nước, vốn đầu tư dân cư thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đồng thời tranh thủ các nguồn ưu đãi của nhà nước, từ phía các đối tác nước ngoài, từ các nguồn hỗ trợ quốc tế; khuyến khích huy động tiêm năng phát trriển đầu tư của các thành phần kinh tế tư nhân theo định hướng của ngành: phát triển liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với tư nhân hoặc với nước ngoài.
2.2.Về đâu tư phát triển sản xuất.
a. Đầu tư chiều sâu:
Củng cố các cơ sở sản xuất hiện có bằng cách đầu tư chiều sâu, đổi mới các trang thiết bị, đặc biệt ở một số công đoạn quan trọng làm tăng giá trị sản phẩm và kiểu dáng sản phẩm, bố trí sắp xếp lại quy mô nhà xưởng cho phù hợp với yêu cầu công nghệ kể cả phương án di rời, bố trí lại các cơ sở phân tán, manh mún vào các khu tập trung có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Kết hợp với đầu tư chiều sâu, bố trí lại sản xuất, có thể mở rộng sản xuất để có quy mô sản xuất lớn hơn đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó cần quan tâm củng cố các mặt quản lý, điều hành, đặc biệt cần tiến tới áp dụng hệ thống quản lý chất lượng iSO 9000.
b. Đầu tư mở rộng :
Để đạt được mục tiêu đề ra, đồng thời khai thác các lợi thế của Việt Nam, đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt xuất khẩu vào các thị trường mới, bên cạnh việc đầu tư chiều sâu củng cố và phát triển các cơ sở hiện có cần tăng cường xây dựng các cơ sở mới theo yêu cầu của thị trường. Do đặc thù của ngành sản xuất da giầy là phục vụ cho xuất khẩu, các cơ sở sản xuất chỉ nên tập trung ở các vùng thuận lợi về giao thông, cung ứng vật tư và giao nhận hàng hoá, có cơ sở hạ tầng tốt đáp ứng các dịch vụ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh.. các cơ sở sản xuất mới phải sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Về qui mô nhà xưởng, máy móc thiết bị thông thường mỗi doanh nghiệp phải có sản lượng từ 3-4 triệu đôi sản phẩm năm điều đó đòi hỏi phải có sự đầu tư mở rộng 6-8 dây chuyền sản xuất. Cũng có thể hình thành một cụm công nghiệp giầy da trong đó có một số cơ sở sản xuất giầy dép lớn và một số cơ sở sản xuất các vật liệu làm giầy.
3.Về vấn đề phát triển các vùng nguyên vầt liệu, phụ tùng làm giầy.
Vấn đề phát triển các cơ sở sản xuất vật tư, nguyên vật liệu làm giầy ở trong nước sẽ tạo khả năng chủ động trong cung ứng vật tư nguyên phụ liệu, tạo thêm công ăn việc làm và tăng hiệu quả kinh tế.
-Về thuộc da : Trước mắt cần tập trung củng cố, sắp xếp hoàn thiện các cơ sở thuộc da hiện có để khai thác năng lực thiết bị đã được đầu tư kịp thời cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, đồng thời đáp ứng về công tác bảo vệ môi trường đặc biệt tại hai khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ CHí Minh. Song song với việc cần xây dựng một số cơ sở thuộc da mới có quy mô ở khu vực phía bắc và phía nam nhằm đạt được sản lượng da thuộc như mục tiêu đề ra là 80 triệu sqft đến năm 2010.
-Về các vật liệu khác cho mũi giầy và đồ da.
Cần kết hợp với các ngành chất dẻo dệt may, hoá dầu và các đối tác nước ngoài để giải quyết những nguyên liệu này sao cho tiến đến có thể tự sản xuất được đa số các loại nguyên vật liệu này.
-Về các vật liệu đế giầy.
Chủ động nghiên cứu, giải quyết các vật liệu đế giầy ứng với mỗi loại đế giầy cụ thể. Ngoài ra ngành cần có chính sách thích hợp để giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước có đủ khả năng cung ứng các loại vật liệu đế giầy, khuôn, phụ tùng, phụ liệu.
-Giải quyết khuôn, phụ tùng, phụ liệu bằng kim loại và phi kim loại.
Ngành cần đầu tư xây dựng các xưởng kim khí nhỏ độc lập hoặc các xưởng phụ tùng tại nhà máy cơ khí chuyên ngành hay các nhà máy nhựa nhiệt cứng, nhựa nhiệt dẻo để chế tạo các loại khuôn mẫu phụ tùng, phụ liệu, trang sức rất đa dạng cho giầy, đồ da. Chỉ có huy động khuyến khích các lực lượng tư nhân, tiểu thủ công cùng tham gia phục vụ thì mới phát huy được hết tính năng động, sáng tạo cho nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu của ngành.
4.Tăng cường đầu tư khoa học công nghệ và đào tạo con người.
Ngày nay khoa học công nghệ và con người là những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và cạnh tranh. Đây là một vấn đề cấp bách mà ngành công nghiệp da giầy cần phải quan tâm hơn nữa. Để góp phần vào quá trình xây dựng một ngành công nghiệp đích thực của Việt Nam, cần coi trọng việc đào tạo con người về khoa học kỹ thuật, về quản lý điều hành sản xuất kinh doanh đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập nền kinh tế. Trước mắt, cần đào tạo một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý tinh thông để có thể làm chủ trong quá trình sản xuất tại các doanh nghiệp, đầu tư đào tạo các nhà nghiên cứu mẫu, mốt, thị hiếu người tiêu dùngtại các nước nhập khẩu. Để từ đó sản xuất ra các sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng .
III. Một số kiến nghị.
1.Kiến nghị về chính sách khuyến khích đầu tư.
Trên cơ sở guy hoạch phát triển ngành da giầy đến năm 2010 thì đề nghị nhà nước có các biện pháp chỉ đạo, khuyến khích các địa phương thực hiện đầu tư phát tển ngành da giầy theo đúng hướng và quy hoạch vùng, tạo điều kiện để ngành thực hiện các mục tiêu phát triển, tránh đầu tư dàn, tự phát, kém hiệu quả.
Đối với ngành da giày thời hạn vốn đầu tư trong kế hoạch cần từ 7-10 năm, chỉ với thời hạn như vậy thì các doanh nghiệp mới có điều kiện hoàn trả vốn vay mà không chiếm dụng từ các nguồn vốn khác. Do vậy đề nghị nhà nước có điều chỉnh các chính sách về cho vay (như thời hạn, điều kiện vay, lãi suất.. )sao cho phù hợp đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu phát triển mà nhà nước đề ra.
2. Kiến nghị các chính sách và giải pháp về khoa học, công nghệ và đào tạo.
Như phần thực trạng đã nêu trên chúng ta có thể thấy được trình độ khoa học công nghệ của chung ta còn khá lạc hậu. Đến nay chưa có một trường lớp nào đào tạo kỹ sư chuyên nganh da giầy, hầu hết các cán bộ ký thuật và các bộ quản lý là chuyển tư các lĩnh vực khác chuyển sang. Chỉ có một số rất ít được đào tạo từ nước ngoài. Đề nghị nhà nước, bộ giáo dục mở một số môn, bộ môn chuyên ngành da giầy để đáp ứng nhu cầu về kỹ sư trẻ của ngành.
Đề nghị nhà nước và các ngành tiếp tục hỗ trợ trong lĩnh vực đào tạo và dạy nghề cho công nhân kỹ thuật, đảm bảo cung cấp cho các doanh nghiệp trong ngành.
Để nghị nhà nước có chính sách khuyến khích nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào ngành da giầy.
Tài liệu tham khảo:
giáo trình : Kinh tế Đầu tư Trường Đại học kinh tế quốc dân.
Sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiên hội nhậpvới khu vực và thế giới.
Tạp chí Công nghiệp số 1+2/2000; 12/2000; 9/2000; 17/2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0160.doc