mở đầu
Việc giảng dạy và học tập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam đã được thống nhất trong các trường đại học và cao đẳng cùng với các bộ môn khoa học Mác – Lê Nin.
Từ năm 1985, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp đã ban hành chương trình cải cách lý luận chính trị. Năm 1988, Bộ đã biên soạn và xuất bản cuốn lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gồm 2 tập (tập 1: 1920 – 1954; tập 2: 1954 – 1987). Từ năm học 1991 – 1992, Bộ giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo việc “đổi mới một cách cơ bản nội dung và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác – Lê Nin”. Để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới và bước đầu vận dụng những quan điểm cơ bản của Đại hội VII vào giảng dạy và học tập các môn lý luận – chính trị, Bộ đã chính thức ban hành chương trình mới và Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, xuất bản tháng 8/1991 và đã qua nhiều lần tái bản bổ sung sửa chữa làm cơ sở cho việc dạy và học. Đến năm 2000, Bộ đã biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia nhằm định hướng thống nhất vế những nội dung cơ bản môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Viện Nam (LSĐ).
Các giáo trình và Đề cương bài giảng xuất bản những năm gần đây đều có phần mở đầu trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu trước khi đi vào nội dung chương trình của môn học.
Nhìn chung ở các trường đại học môn LSĐ thường được học sau cùng và ở năm cuối cùng với số lượng lớp học tập trung rất đông, thậm chí còn ghép nhiều khoa lại. Do vậy, trong người học dễ nảy sinh tư tưởng “chợ chiều”, kém hướng thú say mê học tập. Mặt khác, không ít người học hiểu chưa đúng môn học, cho rằng môn học này đã “được biết” rồi, không hấp dẫn vì chẳng có gì mới và chỉ cần thiết đối với người trực tiếp làm công tác lý luận – chính trị nói chung và học viên trong hệ thống trường Đảng nói riêng.
Vì vậy, khi bước vào môn học việc làm rõ tầm quan trọng của môn học, làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định thái độ trách nhiệm của người dạy lẫn người học là việc rất cần thiết. Qua kinh nghiệm giảng dạy, “chúng tôi thấy” tinh thần học tập và hiệu quả của môn học phụ thuộc không nhỏ vào ngay những tiết đầu trên giảng đường. Những “lời nói đầu” này nếu được quán triệt đầy đủ người học sớm xoá đi những mặc cảm ban đầu sẽ học tập nghiêm túc và khi học xong đều cảm thấy đây là môn học cần thiết, bổ ích và thiết thực.
I. VỊ TRÍ CỦA MÔN HỌC.
Trước hết, LSĐ là một ngành khooa học xã hội Mácxít. Ở nước ta, LSĐ đã được nghiên cứu từ khá sớm và là môn học có bề dày lịch sử. Song thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), công tác này chỉ là một bộ phận đặc biệt trong hoạt động lý luận – chính trị của Đảng. Từ năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công tác nghiên cứu LSĐ được đẩy mạnh và đã phát triển thành một ngành khoa học độc lập.
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng ta là người nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất và tổ chức nên mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Như Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: “Lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng” và “với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã viết: “Đảng cộng sản Việt Nam, người lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam ta tạo dựng nên pho tượng lịch sử bằng vàng thời chống Mỹ, ngày nay đang cùng với cộng đồng dân tộc tiếp tục viết pho lịch sử bằng vàng mới”.
Trong sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng là yếu tố quyết định nhất. Tổng kết hơn 60 năm hoạt động, Đại hội VII của Đảng đã nêu lên một trong 5 bài học lớn là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đại hội IX của Đảng tổng kết 15 năm đổi mới đã rút ra một trong 4 bài học chủ yếu là: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. Đảng rất coi trọng công tác nghiên cứu LSĐ và khái quát một cách sâu sắc kinh nghiệm lịch sữ đã tích luỹ được trong từng thời kỳ cũng như toàn bộ tiến trình cách mạng của Đảng. Nghiên cứu LSĐ và tổng kết các bài học kinh nghiệm cách mạng của Đảng là một phương pháp tốt để nâng cao trình độ của cán bộ đảng viên, nâng cao năng lực lãng đạo của Đảng. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã từng nhấn mạng rằng nếu các Đảng cộng sản không chú ý nghiên cứu và khái quát sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm lịch sử đã tích luỹ được trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không hiểu được mối liên hệ lịch sử tất yếu và qua đó hiểu tiến trình phát triển có thể có của các sự kiện, thì Đảng không thể có một đường lối chính trị thành công nào.
5 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp nghiên cứu lịch sử đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MẤY Ý KIẾN KHI BƯỚC VÀO MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Việc giảng dạy và học tập môn lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam đã được thống nhất trong các trường đại học và cao đẳng cùng với các bộ môn khoa học Mác – Lê Nin.
Từ năm 1985, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp đã ban hành chương trình cải cách lý luận chính trị. Năm 1988, Bộ đã biên soạn và xuất bản cuốn lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gồm 2 tập (tập 1: 1920 – 1954; tập 2: 1954 – 1987). Từ năm học 1991 – 1992, Bộ giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo việc “đổi mới một cách cơ bản nội dung và phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác – Lê Nin”. Để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới và bước đầu vận dụng những quan điểm cơ bản của Đại hội VII vào giảng dạy và học tập các môn lý luận – chính trị, Bộ đã chính thức ban hành chương trình mới và Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, xuất bản tháng 8/1991 và đã qua nhiều lần tái bản bổ sung sửa chữa làm cơ sở cho việc dạy và học. Đến năm 2000, Bộ đã biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia nhằm định hướng thống nhất vế những nội dung cơ bản môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Viện Nam (LSĐ).
Các giáo trình và Đề cương bài giảng xuất bản những năm gần đây đều có phần mở đầu trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu trước khi đi vào nội dung chương trình của môn học.
Nhìn chung ở các trường đại học môn LSĐ thường được học sau cùng và ở năm cuối cùng với số lượng lớp học tập trung rất đông, thậm chí còn ghép nhiều khoa lại. Do vậy, trong người học dễ nảy sinh tư tưởng “chợ chiều”, kém hướng thú say mê học tập. Mặt khác, không ít người học hiểu chưa đúng môn học, cho rằng môn học này đã “được biết” rồi, không hấp dẫn vì chẳng có gì mới và chỉ cần thiết đối với người trực tiếp làm công tác lý luận – chính trị nói chung và học viên trong hệ thống trường Đảng nói riêng.
Vì vậy, khi bước vào môn học việc làm rõ tầm quan trọng của môn học, làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định thái độ trách nhiệm của người dạy lẫn người học là việc rất cần thiết. Qua kinh nghiệm giảng dạy, “chúng tôi thấy” tinh thần học tập và hiệu quả của môn học phụ thuộc không nhỏ vào ngay những tiết đầu trên giảng đường. Những “lời nói đầu” này nếu được quán triệt đầy đủ người học sớm xoá đi những mặc cảm ban đầu sẽ học tập nghiêm túc và khi học xong đều cảm thấy đây là môn học cần thiết, bổ ích và thiết thực.
VỊ TRÍ CỦA MÔN HỌC.
Trước hết, LSĐ là một ngành khooa học xã hội Mácxít. Ở nước ta, LSĐ đã được nghiên cứu từ khá sớm và là môn học có bề dày lịch sử. Song thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), công tác này chỉ là một bộ phận đặc biệt trong hoạt động lý luận – chính trị của Đảng. Từ năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, công tác nghiên cứu LSĐ được đẩy mạnh và đã phát triển thành một ngành khoa học độc lập.
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng ta là người nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất và tổ chức nên mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Như Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: “Lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng” và “với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã viết: “Đảng cộng sản Việt Nam, người lãnh đạo toàn thể nhân dân Việt Nam ta tạo dựng nên pho tượng lịch sử bằng vàng thời chống Mỹ, ngày nay đang cùng với cộng đồng dân tộc tiếp tục viết pho lịch sử bằng vàng mới”.
Trong sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng là yếu tố quyết định nhất. Tổng kết hơn 60 năm hoạt động, Đại hội VII của Đảng đã nêu lên một trong 5 bài học lớn là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đại hội IX của Đảng tổng kết 15 năm đổi mới đã rút ra một trong 4 bài học chủ yếu là: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. Đảng rất coi trọng công tác nghiên cứu LSĐ và khái quát một cách sâu sắc kinh nghiệm lịch sữ đã tích luỹ được trong từng thời kỳ cũng như toàn bộ tiến trình cách mạng của Đảng. Nghiên cứu LSĐ và tổng kết các bài học kinh nghiệm cách mạng của Đảng là một phương pháp tốt để nâng cao trình độ của cán bộ đảng viên, nâng cao năng lực lãng đạo của Đảng. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã từng nhấn mạng rằng nếu các Đảng cộng sản không chú ý nghiên cứu và khái quát sâu sắc, toàn diện kinh nghiệm lịch sử đã tích luỹ được trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không hiểu được mối liên hệ lịch sử tất yếu và qua đó hiểu tiến trình phát triển có thể có của các sự kiện, thì Đảng không thể có một đường lối chính trị thành công nào.
Việc đưa môn học vào chương trình đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng có ý nghĩa quan trong và rất cần thiết. Theo thiết kế chương trình đào tạo đại học đại cương và hai giai đoạn đào tạo bậc đại học đang được áp dụng hiện nay thì nhóm các môn học về chủ nghĩa Mác – Lê Nin gồm 4 môn, trong đó có môn Lịch Sử Đảng được dạy theo một trình tự kế tiếp nhau: Triết – Kinh tế chính trị – Chủ nghĩa xã hội khoa học – LSĐ. Việc xắp xếp trình tự dạy và học như trên, trong đó Triết là môn mở đầu và LSĐ là môn kết thúc là hợp lý. Bởi vì chỉ sau khi được trang bị những nguyên lý lý luận về ba môn cơ bản người học mới có thể học tốt môn LSĐ, mới hiểu được Đảng đã nắm vững và vận dụng học thuyết Mác – Lê Nin đúng đắn sáng tạo như thế nào vào thực tiễn cách mạng ở nước ta. Không những thế, qua học LSĐ, sinh viên có dịp củng cố vững chắc hơn những kiến thức lý luận Mác – Lê Nin đã học trước vì những lý luận đó đã được kiểm nghiệm, giúp cho họ nắm được những mẫu mực vế vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống.
Lịch sử Đảng là môn học về chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong lịch sử vận động và phát triển, là môn học vế quá trình kết hợp lý luận Mác – Lê Nin với thực tiễn đấu tranh cách mạng được thể hiện bằng những sự kiện và diễn biế lịch sử vô cùng sinh động và phong phú. Lý luận được vận dụng trong thực tiễn, từ thực tiễn kiểm tra sự đúng đắn của lý luận, đồng thời bổ sung phát triển lý luận. Vị trí và tầm quan trọng của môn học LSĐ đối với toàn bộ quy trình giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê Nin ở bậc đại học và cao đẳng được hiểu theo tinh thần đó.
Với tư cách là một bộ môn về khoa học lịch sử, bằng phương pháp tái hiện những trang sử đấu tranh gian khổ nhưng hào hùng của nhiều thế hệ cách mạng, môn LSĐ có những lợi thế riêng trong việc giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, lý tưởng và hoài bão cao đẹp cho thế hệ trẻ. Qua nghiên cứu học tập một cách nghiêm túc, khoa học, người học sẻ được lịch sử giải đáp thoả đáng nhiều vấn đề trong nhận thức như: Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam có phải là một tất yếu lịch sử không? Con đường xây dựng đất nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có phải là sự lựa chọn của lịch sử? Vì sao ở nước ta hơn 70 năm qua, Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh đạo cách mạng duy nhất và từ đây về sau để đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên cũng chjỉ cần có một Đảng lãnh đạo mà thôi – đó là Đảng Cộng Sản Việt Nam? Vì sao sự nghiệp đổi mới cần phải nắm vững và quán triệt chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh? Học LSĐ chúng ta càng thêm tin tưởng ở Đảng, lãnh tụ, nhân dân tin tưởng trên cơ sở khoa học vững chắc với tình cảm chân thật và tự hào chính đáng.
Lịch sử Đảng là một môn khoa học – khoa học xã hội và nhân văn. Mà đã là một môn khoa học cần phải nhận thức đúng vai trò và vị trí của nó trong chiến lược phát triển đất nước và trong công cuộc đổi mới như Đại hội VII của Đảng đã xác định:
“Khoa học (và giáo dục) đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”.
“Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu”.
Luật giáo dục cũng đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công nhân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các bộ môn khoa học Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Đại hội IX của Đảng vừa qua lại khẳng định: “Khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải đáp các vấn đề lý luận tư tưởng, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng con người, phát huy bản sắc văn hoá dân tậc, sáng tạo những giá trị văn hoá mới Việt Nam”.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MÔN HỌC.
Bất cứ một ngành học nào cũng cần xác định rõ đối tượng của mình để không khỏi chồng chéo, giẫm chân lên khoa học khác. Đồng thời cũng là để đạt được thành tựu đúnh hơn, cao hơn.
Lịch sử dân tộc ta hơn hai phần ba thế kỷ qua gắn liền với sự ra đời hoạt động và trưởng thành của Đảng, gắn liền với lịch sử Đảng ta. Song đây là hai môn khoa học khác nhau, có nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên phải khách quan công bằng mà nói việc phân định ranh giới giữa môn LSĐ (dạy ở Đại học) và Lịch sử Việt Nam cận – hiện đại (dạy ở phổ thông) không dễ dàng đơn giản nhưng lại ít được chú ý. Không dễ dàng bởi vì Lịch sử Đảng và Lịch sử dân tộc là hai môn lịch sử cùng nghiên cứu một giai đoạn lịch sử do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Lịch sử đấu tranh của Đảng quện chặt với Lịch sử dân tộc như hình với bóng. Vì vậy, lệch lạc dễ mắc phải trong dạy và học là không xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, không nắm vững mục đích đối tượng nội dung của Lịch sử Đảng, lẫn lộn với môn Lịch sử dân tộc. Giảng Lịch sử Đảng mà lệch sang Lịch sử dân tộc thì không tránh khỏi trùng lặp nội dung kiến thức mà người sinh viên đã học ở lớp 9 và lớp 12 phổ thông, có khi còn bị giản lược hơn vì quỹ thời gian giảng dạy ở đại học ít hơn. Ngoài sự trùng lặp trên còn dễ xảy ra sự trùng lặp về nội dung LSĐ với các môn khác trong nhóm lý luận Mác – Lê Nin đã dạy trước. Sự lẫn lộn này gây hậu quả rất tai hại. Trước hết là nội dung trùng lặp gây nhàm chán, không hứng thú trong học tập. Sau nữa là và đây là điều quan trọng hơn là giảng viên không thực hiện được mục đích yêu cầu đề ra cho môn lịch sử Đảng đặt trong quy trình các môn Mác – Lê Nin, gây lãng phí công sức cho cả thầy và trò và ảnh hưởng không tốt đối với các sinh viên khoá sau. Vấn đề đặt ra ở đây là để không bị lẫn lộn về nội dung giữa hai môn, phải nắm vững đối tượng nhiệm vụ nghiên cứu của từng môn học. Vấn đề này trong Đề cương bài giảng Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam của Bộ giáo dục và Đào tạo và giáo trình chuẩn quốc gia môn Lịch sử Đảng đã có viết ở phần mở đầu nhằm giúp giáo viên trong việc biên soạn và thực hiện bài giảng phải bám sát nội dung Lịch sử Đảng.
Lịch sử Việt Nam (từ 1930 trở đi) có nhiệm vụ nghiên cứu một cách toàn diện các biến cố lịch sử về các phương diện kinh tế – xã hội, chính trị, quân sự, tư tưởng, văn hoá của nước Việt Nam: Nói cách khác, các biến cố lịch sử đã diễn ra ở cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam từ thuộc địa nửa phong kiến qua xã hội dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực phát triển là cuộc cách mạng đấu tranh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam là một bộ phận của lịch sử dân tộc, nên có phạm vi nghiên cứu hệp hơn. Nhiệm vụ của nó là nghiên cứu các đặc điểm và biến cố lịch sử thuộc về quá trình ra đời, lãnh đạo và đấu tranh của Đảng – người quyết sự phát triển và thắng lợi của cách mạng nước ta. Vì vậy càn tập trung làm nổi bật những nội dung cơ bản sau:
Nghiên cứu điều kiện lịch sử, quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng ta – bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam; nghiên cứ bản thân tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở? Qua đó cho thấy quy luật ra đời của Đảng ta vừa theo quy luật chung vừa mang tính đặc thù do điều kiện, đặc điểm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Chính điều này đã chi phối đến quy luật xây dựng Đảng ở nước ta, cũng là những vấn đề quyết định đến sự tồn tại và trưởng thành của Đảng.
Tái tạo quá trình hoạt động của Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp cong nhân Việt Nam, là chủ thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều trước hết là Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương. Cho nên, hoạch định đường lối là nội dung căn bản nhất của sự lãnh đạo của Đảng. Không có đường lối coi như không có lãnh đạo. Do đó, nghiên cứu Đảng lãnh đạo phải thông qua đường lối, cương lĩnh của Đảng, phải nắm vững một cách có hệ thống đường lối, cương lĩnh thông qua hệ thống văn kiện Đảng.
Có đường lối rồi, lại phải có tổ chức thực tiễn, biến đường lối thành hiện thực. Đây là quá trình rất phức tạp, khó khăn đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo và sự nhạy cảm chính trị, đồng thời chứng tỏ năng lực trí tuệ và vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Khoa học lịch sử Đảng có nhiệm vụ khái quát những kinh nghiệm lịch sử, tổng kết những kinh nghiệm, bài học lịch sử (cả thành công và không thành công) trong thời kỳ cũng như trong toàn bộ cuộc vận động cách mạng – những quy luật chung và tính đặc thù trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khoa học lịch sử Đảng cần làm rõ nội dung về truyền thống cách mạng của Đảng. Truyền thống cách mạng của Đảng đã góp phần làm nên “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng. Những truyền thống đó một mặt khẳng định niềm tự hào chính đáng của chúng ta về “Đảng ta thật vĩ đại”; mặt khác sẽ góp phần làm tăng cường vai trò và sức chiến đấu của Đảng. Thực tiễn hơn 70 năm hoạt động đã hun đúc nên truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta – đó là: truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ đảng viên của Đảng; đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng; truyền thống gắn bó với dân tộc và quần chúng nhân dân; bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo; truyền thống thuỷ chung trong sáng, luôn trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân…
Với nhiệm và đối tượng nêu trên là những nội dung căn bản của lịch sử Đảng thì tự nó không phải là môn khoa học mô tả giản đơn các sự kiện, biến cố lịch sử cụ thể rời rạc. Trái lại, nó là một hệ thống những tri thức đáng tin cậy về các sự kiện, biến cố của quá trình hoạt động, đấu tranh và lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn lịch sử phong phú đa dạng đó đã được khái quát thành những quy luật phổ biến và đặc thù của nó. Đây chính là điều làm cho lịch sử Đảng trở thành một khoa học chân chính.
Hơn nữa, đối tượng lịch sử Đảng không chỉ là sự hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách hoặc lịch sử của những Đại hội, Hội nghị, không phải chỉ là lịch sử chuyên về xây dựng Đảng, cũng không phải giống như lịch sử quân sự, lịch sử chiến tranh thời có Đảng, mà là lịch sử toàn bộ hoạt động của Đảng, toàn bộ sự thật lịch sử về sự lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng.
Đồng chí Trường Chinh đã viết: “lịch sử xã hội là một khoa học. Nhiệm vụ của khoa học lịch sử là làm sáng tỏ những quy luật phát triển của xã hội. Lịch sử Đảng của giai cấp công nhân là lịch sử lãnh đạo cách mạng nhằm giải phóng giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân khỏi mọi áp bức bóc lột, dựa trên những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- pp_nc_lich_su_dang_4352.doc