Để so sánh ưu nhược điểm của OpenSees với
phần mềm thương mại hiện nay trong lĩnh vực phân
tích kết cấu, đặc biệt là kết cấu cầu. Bài báo sử dụng
phần mềm Midas/Civil để phân tích và so sánh kết
quả. Midas/Civil là phần mềm thương mại của hãng
Midas IT (Hàn Quốc). Đây là phần mềm phân tích kết
cấu có độ chính xác cao cùng với các phần mềm như
Sap2000, ADINA và ANSYS. Midas/Civil hiện nay
được nhiều kỹ sư và nhà khoa học sử dụng để phân
tích kết cấu đặc biệt là trong kết cấu cầu. Các thông
số đầu vào đưa vào phần mềm Midas/Civil tương tự
như các thông số được sử dụng lập trình trong
OpenSees
18 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 633 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp phân tích động phi tuyến kết cấu theo lịch sử thời gian không có điều kiện ổn định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tính
lặp trong mỗi bước. Trong bài báo này, tác giả đề xuất
một họ phương pháp phân tích động phi tuyến mới.
Họ phương pháp này, tuy là ngoại hiển thức nhưng lại
không có điều kiện ổn định. Phương pháp này còn có
hệ số tiêu tán thích hợp và có thể kiểm soát được, có
thể điều chỉnh để hệ số cản nhớt số bằng không. Ưu
điểm lớn nhất của phương pháp này là không cần tính
lặp trong mỗi bước, do vậy tiết kiệm được rất nhiều
công sức tính toán so với các phương pháp nội ẩn
thức hiện có.
1. Đặt vấn đề
Về cơ bản, các bài toán về dao động của hệ kết
cấu được chia làm hai dạng chính: Dạng thứ nhất là
các hệ kết cấu bị chi phối bởi lực quán tính, chiếm đa
số trong các bài toán động lực học công trình, dao
động của dạng kết cấu này chủ yếu ảnh hưởng bởi
các dạng dao động có tần số thấp; Dạng thứ hai là
các hệ kết cấu bị chi phối bởi cả các dạng dao động
có tần số thấp và tần số cao, ví dụ như khi hệ kết cấu
công trình bị tác động bởi lực gây ra do nổ và va
chạm. Phương pháp để giải các bài toán thuộc dạng
thứ nhất thường được đề xuất là phương pháp nội ẩn
thức (implicit) như các phương pháp [1, 2, 3, 9, 11,
12, 13, 16]. Trong khi đó, ngoại hiển thức (explicit) là
phương pháp thích hợp để giải các bài toán dạng thứ
hai, ví dụ như phương pháp của Newmark [13]. Điều
này là do các phương pháp nội ẩn thức không có điều
kiện ổn định do vậy có thể sử dụng các bước thời
gian (time step) lớn hơn, ngoài ra còn do các dạng
dao động bậc cao không ảnh hưởng nhiều đến kết
quả bài toán. Ngược lại, ưu điểm chính của các
phương pháp ngoại hiển thức là các giá trị của bước
sau được tính trực tiếp từ bước trước mà không cần
sử dụng các thuật toán tính lặp, thường khá phức tạp
trong các bài toán phi tuyến, do vậy khối lượng tính
toán trong một bước sẽ ít hơn nhiều so với phương
pháp nội ẩn thức. Khi áp dụng phương pháp ngoại
hiển thức cho các bài toán cần quan tâm đến các
dạng dao động bậc cao, nếu giá trị của các bước thời
gian tính toán được lựa chọn để thỏa mãn điều kiện
ổn định thì độ chính xác của kết quả cũng sẽ tự động
được thỏa mãn.
Đã có một số các phương pháp tính tích phân phụ
thuộc kết cấu được đề xuất bởi Chang [4, 5, 6, 7]
nhằm tích hợp đồng thời các ưu điểm của hai phương
pháp nội ẩn thức và ngoại hiển thức, các phương
pháp này đều có đặc điểm không có điều kiện ổn định
(giống ưu điểm như phương pháp nội ẩn thức) và
không cần tính lặp phi tuyến (giống ưu điểm của
phương pháp ngoại hiển thức). Các phương pháp
này rất phù hợp để giải các bài toán thuộc dạng thứ
nhất. Tuy nhiên, khi giải các bài toán thuộc dạng thứ
hai thì các phương pháp đó không có hệ số tiêu tán
(numerical dissipation) phù hợp để loại bỏ nhiễu do
ảnh hưởng bởi các dạng dao động bậc cao. Trong
các phương pháp được biết đến rộng rãi hiện nay, có
một số họ phương pháp tính toán đã được phát triển
có hệ số tiêu tán thích hợp, như các phương pháp
trong tài liệu [1, 10, 15, 16, 17], nhưng các phương
pháp này đều thuộc nhóm phương pháp nội ẩn thức,
do vậy đều cần tính lặp phi tuyến khi giải các bài toán
kết cấu phi tuyến.
Vì những lý do trên, phương pháp được đề xuất
trong bài báo này là một phương pháp ngoại hiển
thức không có điều kiện ổn định và không cần tính lặp
phi tuyến, giống các phương pháp đã được đề xuất
trước đó [4, 5, 6, 7]. Điểm khác là phương pháp này
còn có một hệ số tiêu tán phù hợp, có thể điều chỉnh,
dùng để giải các bài toán thuộc dạng thứ hai.
2. Phương pháp đề xuất
Phương trình dao động của hệ một bậc tự do
được viết như sau:
mu cu ku f (1)
trong đó:
m, c, k, f lần lượt là khối lượng, độ cản nhớt vật lý,
độ cứng và ngoại lực tác dụng lên hệ kết cấu;
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
4 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
u , u và u tương ứng là các giá trị chuyển vị, vận
tốc, gia tốc.
Phương pháp đề xuất để giải phương trình dao
động (1) được viết như sau:
2 1 2 1
1 0 1 1 1 11 1 1 1
2
1 0 1 1 2 3
3 1 3
1 12 1 2 1
p p p p
ma c v k d k d f fi i i i i i i ip p p p
d d d t v t ai i i i i
p p
v v t a t ai i i ip p
(2)
trong đó:
ai+1, vi+1, di+1, fi+1 là gia tốc, vận tốc, chuyển vị và
lực tác dụng lên hệ kết cấu ở bước thứ (i+1);
ai, vi, di, fi là gia tốc, vận tốc, chuyển vị và ngoại
lực tác dụng ở bước (i);
di-1 là chuyển vị nút ở bước tính toán thứ (i-1);
ki, ki+1 là độ cứng của hệ ở bước (i) và (i+1);
c0 là độ cản nhớt vật lý của hệ kết cấu (giả thiết c0
không thay đổi trong suốt quá trình tính toán, điều này
thường đúng với phần lớn các hệ kết cấu);
Δt là bước thời gian tính toán.
Các hệ số β0 đến β3 được tính như sau:
3
1 1 2 2
0 08 1
3
1 1 2 211 08 1
1 3
12 01
2
1 1 1 2 3
3 02 2 1 1
p
D p
p
D p
p
D p
p
D p p
(3)
trong đó:
ξ là hệ số cản nhớt;
Ω0 =ω0(Δt) với 0 0 /k m là tần số dao động tự
nhiên của hệ kết cấu tương ứng với độ cứng ban đầu k0;
p là hệ số dùng để kiểm soát hệ số tiêu tán của
phương pháp này (việc lựa chọn giá trị p sẽ được
trình bày rõ hơn ở mục 3).
Hệ số D được tính như sau:
3
3 2 21 0 01 4 1
p p
D
p p
(4)
Để tiện cho việc tính toán, các hệ số ξΩ0 và Ω02
được viết lại ξΩ0 = ξω0(Δt) = c0(Δt)/(2m) và Ω02 =
(Δt)2(k0/m), theo đó, các hệ số β0 đến β3 và D trở
thành:
3
21 1 2
0 08 1
3
21 1 2
11 08 1
1 3
2 02 1
2
1 1 1 2 3
3 02 4 1 1
3
23 2
0 02 1 4 1
p
t k
D p
p
t k
D p
p
m t c
D p
p
m t c
D p p
p p
D m t c t k
p p
(5)
Có thể thấy rằng, các hệ số β0 đến β3 chỉ phụ
thuộc vào độ cản nhớt c0 và độ cứng ban đầu k0 của
hệ kết cấu, nó không thay đổi trong suốt quá trình tính
toán, do vậy với mỗi bài toán chỉ cần tính duy nhất
một lần.
Trong dòng thứ hai của công thức (1), giá trị di+1
được tính phụ thuộc vào các đặc điểm của kết cấu tính
toán như khối lượng, độ cứng, độ cản nhớt, do đó
phương pháp đề xuất ở đây gọi là phương pháp phụ
thuộc kết cấu. Nó khác so với phương pháp không phụ
thuộc kết cấu [13], vì trong phương pháp Newmark,
các hệ số β0 đến β3 đều là các hằng số cố định. Ngoài
ra, giá trị di+1 khi tính toán không chỉ phụ thuộc vào các
giá trị ở bước (i) trước đó mà còn phụ thuộc vào giá trị
ở bước (i-1), do vậy, khi áp dụng phương pháp này để
tính toán cần có một chút lưu ý khi tính bước đầu tiên,
điều này sẽ được nói rõ ở mục 4.
So sánh lời giải của phương pháp này so với lời
giải của Zhou & Tamma [15, 16], mặc dù lời giải của
Zhou & Tamma cũng có độ chính xác tương tự
phương pháp này nhưng đó lại là phương pháp nội
ẩn thức, khác với phương pháp đề xuất ở đây là
phương pháp ngoại hiển thức.
3. Khảo sát tính chất của phương pháp đề xuất
Khi khảo sát tính chất của một phương pháp phân
tích động phi tuyến áp dụng cho kết cấu công trình,
các đặc tính thường quan tâm đến là khoảng ổn định
(stability), độ chính xác (accuracy) và tính hiệu quả
(efficiency) của phương pháp đó. Các tính chất này
được biểu hiện thông qua sai số tương đối của chu kỳ
(relative period error), hệ số cản nhớt số (numerical
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 5
damping ratio) và sự biến thiên đột biến
(overshooting).
Sẽ rất khó để trình bày một cách chi tiết các bước
để xây dựng lời giải này cũng như mô tả chi tiết việc
khảo sát các tính chất của phương pháp tính chỉ trong
khuôn khổ một bài báo, do vậy, ở đây chỉ nêu các đặc
điểm chính, nếu bạn đọc quan tâm chi tiết hơn có thể
tham khảo thêm các tài liệu [4, 5, 6, 7, 8].
Trong phần này, tác giả sử dụng một số thuật ngữ
sau:
- NEM (Newmark Explicit Method): phương pháp
ngoại hiển thức Newmark [13];
- AAM (Average Acceleration Method): phương
pháp nội ẩn thức gia tốc trung bình [13];
- PFM1 (Proposed Family Method): phương pháp
đề xuất với trường hợp p=1;
- PFM2 (Proposed Family Method): phương pháp
đề xuất với trường hợp p= 0,5.
3.1 Lựa chọn khoảng giá trị cho tham số p
Việc lựa chọn khoảng giá trị p cho phương pháp
này được căn cứ vào khoảng giá trị mà ở đó kết quả
tính của phương pháp này là hội tụ. Muốn khảo sát
các tính chất này, đầu tiên ta đi lập một ma trận đặc
trưng rồi xem xét đến tính hội tụ (convergence), bán
kính phổ (spectral radius). Một quy trình chung cho
cách khảo sát này được trình bày trong tài liệu [1, 10,
11] hoặc trình bày chi tiết hơn cho phương pháp này
trong tài liệu [8].
Kết quả khảo sát cho thấy với phương pháp này
khoảng giá trị thích hợp nhất của tham số p là 0,5 ≤ p
≤1, trong đó với p = 1 cho giá trị bán kính phổ luôn
bằng 1, chứng tỏ hệ số cản nhớt số (xem mục 3.3) sẽ
bằng 0. Qua hình 1 ta thấy bán kính phổ cũng bằng 1
với các giá trị p khác khi Δt/T nhỏ, nhưng nó sẽ giảm
xuống (tương ứng với hệ số cản nhớt số tăng lên) khi
Δt/T lớn hơn khoảng 0,1. Giá trị p = 0,33 cho giá trị
bán kính phổ không phù hợp nên không được xét đến
trong phương pháp này.
Hình 1. Quan hệ giữa bán kính phổ và đại lượng Δt/T
tương ứng với từng trường hợp p
3.2 Sai số tương đối của chu kỳ
Sai số tương đối của chu kỳ (relative period error)
là đại lượng được định nghĩa bằng /T T T , trong
đó T là chu kỳ dao động chính xác của hệ, T là chu
kỳ dao động tính toán của hệ. Đại lượng này đặc
trưng cho độ chính xác của phương pháp phân tích.
Đại lượng này càng nhỏ thì phương pháp phân tích
càng chính xác.
Hình 2 biểu diễn mối quan hệ giữa sai số tương
đối của chu kỳ của phương pháp đề xuất ở đây với
các trường hợp p = 1; 0,75; 0,5. Sai số tương đối của
chu kỳ của phương pháp AAM cũng được thể hiện
trong hình vẽ để so sánh.
Hình 2 cũng cho thấy sai số tương đối của chu kỳ
tỷ lệ nghịch với giá trị của p, p càng giảm thì sai số
tương đối càng tăng, đồng nghĩa với độ chính xác của
kết quả của phương pháp giảm xuống. Biểu đồ cũng
cho thấy rằng với các giá trị Δt/T nhỏ thì sai số cũng
nhỏ. Với giá trị Δt/T ≤ 0,1 thì sai số của phương pháp
này là dưới 5%. Với trường hợp p = 1, đường cong
sai số trùng với đường cong sai số của phương pháp
AAM, nói cách khác, độ chính của phương pháp
PFM1 tương đương với độ chính xác của phương
pháp AAM.
Hình 2. Biểu đồ quan hệ giữa sai số tương đối
của chu kỳ và Δt/T với các giá trị p khác nhau
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
6 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
3.3 Hệ số cản nhớt số
Như nói ở phần đặt vấn đề, phần lớn các bài toán
phân tích phi tuyến trong xây dựng thuộc dạng thứ
nhất, chỉ cần quan tâm đến những dạng dao động bậc
thấp mà không quan tâm đến ảnh hưởng của những
dạng dao động bậc cao, do ảnh hưởng của dạng dao
động bậc cao đến tổng thể kết cấu là không lớn, hơn
nữa, kết quả tính cho những dạng dao động này
thường kém chính xác nên để đơn giản người ta sẽ
loại bỏ nó đi. Hệ số cản nhớt số (numerical damping
ratio) của mỗi phương pháp tính là đại lượng đặc
trưng cho khả năng loại bỏ sự ảnh hưởng của các
dạng dao động bậc cao mà không làm ảnh hưởng
đến độ chính xác trong kết quả tính toán của các
dạng dao động bậc thấp.
Hình 3. Biểu đồ quan hệ giữa hệ số cản nhớt số
của chu kỳ và Δt/T với các giá trị p khác nhau
Trong hình 3, đường cong biểu diễn mối quan hệ
giữa hệ số cản nhớt số với đại lượng Δt/T được thể
hiện với các trường hợp tương ứng với p = 1,0; 0,75,
0,5 cũng như với phương pháp AAM để tham khảo.
Biểu đồ cho thấy, với trường hợp p = 0,75 và p = 0,5
các dạng dao động bậc cao (Δt/T) sẽ dễ dàng bị loại
bỏ do có hệ số cản nhớt số lớn, trong khi với các
dạng dao động bậc thấp sẽ không bị ảnh hưởng. Với
trường hợp p = 1, phương pháp đề xuất ở đây cũng
giống phương pháp AAM đều không có hệ số cản
nhớt số, được dùng để tính toán với các bài toán có
xét đến đến ảnh hưởng của cả các dạng dao động
bậc thấp và bậc cao.
3.4 Ảnh hưởng của dao động bậc cao
Để làm rõ hơn đặc điểm về hệ số cản nhớt số của
phương pháp đề xuất, ta khảo sát thêm tính chất nữa.
Tính chất này thường được biết đến trong thuật ngữ
tiếng Anh với tên gọi là overshooting. Xét một hệ một
bậc tự do có khối lượng m = 1kg và độ cứng k =
1N/m, chu kỳ dao động tự do của hệ sẽ là:
2 6,28 sT m k . Cho hệ dao động tự do từ trạng
thái ban đầu d0 = 1,0 và v0 = 0. Chọn bước thời gian
Δt = 10T = 62,8 s. Kết quả tính toán với 100 bước đầu
tiên được thể hiện trong hình 4.
Hình 4 cho thấy đường cong biểu diễn kết quả
tính theo phương pháp PFM1 và AAM hoàn toàn
trùng lên nhau, thêm vào đó chuyển vị cũng không bị
suy giảm. Trong khi đó, giá trị chuyển vị tính theo
phương pháp PFM2 bị tắt rất nhanh chỉ sau 10 bước
đầu tiên, đó là do phương pháp PFM2 có hệ số cản
nhớt số rất lớn. Với PFM2, giá trị chuyển vị bị vượt
quá không đáng kể trong vài bước đầu tiên, sau đó tắt
rất nhanh, trong khi giá trị v0/ω0 bị vượt quá
(overshoot) đáng kể trong những bước tính toán đầu
tiên, tuy nhiên sau đó tắt rất nhanh nên xét về lâu dài
thì kết quả tính vẫn không bị ảnh hưởng. Điều này
phù hợp với các kết quả khảo sát như đã trình bày ở
mục 3.3.
Hình 4. So sánh ảnh hưởng của dao động bậc cao
4. Áp dụng với hệ nhiều bậc tự do
Phần lớn các bài toán động lực học công trình là
các bài toán hệ có nhiều bậc tự do, do đó, phần này
sẽ đưa ra cách áp dụng phương pháp đề xuất ở đây
để giải các bài toán dạng này.
Với hệ nhiều bậc tự do, công thức (2) sẽ được
viết như sau:
2 1 2 1
1 0 1 1 11 1 1 1
2
1 0 1 1 2 3
3 1 3
1 12 1 2 1
p p p p
i i i i i ip p p p
t ti i i i i
p p
t ti i i ip p
a C v R R f f
d B d B d B v B a
v v a a
M
(6)
trong đó:
M, C0 là các ma trận khối lượng, ma trận độ cản
nhớt vật lý của kết cấu;
a, v, d, f tương ứng là các vec-tơ gia tốc, vận tốc,
chuyển vị và ngoại lực tác dụng;
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 7
Các hậu tố (0), (i-1), (i), (i+1) chỉ thứ tự các bước
tính toán;
Ri, Ri+1 là vec-tơ nội lực của hệ kết cấu ở bước
tính toán thứ (i) và (i+1).
Ma trận B0 đến B3 được tính như sau:
3
21 21 0 08 1
3
21 21
1 08 1
31
2 02 1
2
2 31 1 1
423 01 1
3
23 2
0 02 1 4 1
p
t
p
p
t
p
p
t
p
p
t
p p
p p
t t
p p
B D K
B I D K
B D M C
B D M C
D M C K
(7)
với I là ma trận đơn vị đường chéo chính (ma trận
vuông với các giá trị ở đường chéo chính bằng 1), K0
là ma trận độ cứng của hệ kết cấu ở thời điểm ban
đầu (initial stiffness).
Cần nói thêm rằng, các ma trận từ B0 đến B3
được xác định chỉ dựa vào các đặc điểm ban đầu của
kết cấu (điều kiện trước khi biến dạng) là M, C0, K0 và
giá trị bước thời gian Δt, do đó chỉ cần tính một lần
trong suốt quá trình tính toán, điều này làm tiết kiệm
được nhiều công sức. Dòng thứ hai của công thức (6)
cho thấy lời giải của phương trình vi phân này là lời
giải gồm hai bước, việc tính chuyển vị ở bước (i+1)
được tính từ các giá trị ở bước (i) và bước (i-1) trước
đó, do vậy cần có một bước đệm khi tính toán với
bước đầu tiên. Để ý rằng, tham số B0di-1 sẽ triệt tiêu
nếu p = 1, do vậy, ta gán giá trị p = 1 cho bước đầu
tiên. Với các bước tiếp theo, giá trị hệ số p được lựa
chọn tùy theo yêu cầu tính toán.
Quy trình tính toán với hệ nhiều bậc tự do được
thực hiện như sau:
Bước 1: Tính giá trị vec-tơ chuyển vị di+1 từ dòng
thứ hai của công thức (6);
Bước 2: Thế giá trị vec-tơ chuyển vị di+1 vừa tìm
được và giá trị vec-tơ vận tốc vi+1 ở dòng thứ ba vào
dòng thứ nhất cùng của công thức (6), giải và tìm vec-
tơ gia tốc ai+1;
Bước 3: Giá trị vec-tơ vận tốc được tính bằng
dòng thứ ba của công thức (6) sau khi đã có giá trị
vec-tơ vận tốc vi+1.
5. Một số ví dụ tính toán
Để làm rõ hơn các đặc điểm của phương pháp
này, một số ví dụ sẽ được trình bày ở đây. Các ví dụ
này sẽ so sánh các đặc điểm của phương pháp đề
xuất PFM với hai phương pháp phân tích phi tuyến
được biết đến rất rộng rãi là NEM [13], đại diện cho
phương pháp ngoại hiển thức và AAM [13], tiêu biểu
cho phương pháp nội ẩn thức.
Nhìn chung, với tất cả các phương pháp phân tích
động phi tuyến đều cần sử dụng máy tính do khối
lượng tính toán lớn. Với những bài toán đơn giản,
người dùng có thể tự lập trình bằng phần mềm như
Excel hoặc viết các chương trình dựa trên ngôn ngữ
lập trình Fortran, Matlab, C++ Với các bài toán
phức tạp hơn thì nên sử dụng những phần mềm
chuyên dụng như Sap, Etabs hay OpenSees. Các ví
dụ tính toán ở đây được tác giả tự lập trình bằng
Matlab.
5.1 Ví dụ 1: Hệ một bậc tự do đàn dẻo tuyệt đối
m =104 kg
k =106 N/m
di
ag
Hình 5. Mô hình thí nghiệm trên bàn rung với hệ một bậc tự do
Giả thiết có một hệ một bậc tự do được thí
nghiệm trên bàn rung như hình 5. Tải trọng tập trung
ở đầu cột bằng m = 104kg, cột giả thiết như một thanh
đàn dẻo tuyệt đối, độ cứng k = 106N/m, do đó chu kỳ
dao động tự nhiên ban đầu của hệ ω0 = 10 rad/s.
Cường độ chịu kéo và chịu nén của vật liệu thanh giả
thiết bằng Rt = Rc = 50kN. Bỏ qua hệ số cản nhớt vật
lý của hệ. Gia tốc nền tác dụng lên hệ được điều
khiển thông qua kích thủy lực của bàn rung, được
chọn theo gia tốc nền ghi nhận được từ trận động đất
Chi-Chi xảy ra ở Đài Loan vào năm 1999 (tên phổ ghi
gia tốc này theo ký hiệu quốc tế thường dùng là CHY
028), đỉnh gia tốc nền được lấy bằng 0,5g. Dùng
phương pháp PFM1 để dự đoán chuyển vị của hệ
đồng thời so sánh kết quả với hai phương pháp NEM
và AAM.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
8 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
Hình 6 thể hiện kết quả tính toán chuyển vị theo
thời gian của hệ và biểu đồ quan hệ giữa chuyển vị và
nội lực thanh. Giá trị bước thời gian tính toán theo
phương pháp NEM là Δt =0,005 s, đủ nhỏ để coi như
kết quả tính từ phương pháp này là chính xác,
làm chuẩn để so sánh với các phương pháp khác,
trong khi bước thời gian tính toán theo AAM và PFM1
là Δt =0,02 s.
Hình 6. Chuyển vị của hệ dưới tác dụng của tải động đất và quan hệ chuyển vị - nội lực của thanh
Kết quả tính toán thể hiện trong hình 6a cho thấy giá trị chuyển vị thu được từ phương pháp PFM1 rất sát
với kết quả thu được từ phương pháp AAM, chỉ sai lệch rất nhỏ so với kết quả thu được từ phương pháp NEM.
Kết quả từ hình 6b cho thấy cột đã hoàn toàn ứng xử phi tuyến. Như vậy, có thể thấy rằng phương pháp đề
xuất ở đây hoàn toàn có thể sử dụng để phân tích phi tuyến với độ chính xác cao.
5.2 Ví dụ 2: Dao động tự do hệ nhiều bậc tự do
Hình 7. Mô hình 5 tầng – 5 bậc tự do
Hình 7 thể hiện mô hình một hệ kết cấu 5 tầng,
mỗi tầng được mô hình hóa như một tấm cứng tuyệt
đối, toàn bộ hệ kết cấu 5 tầng được coi như có 5 bậc
tự do. Các giá trị tải trọng và độ cứng mỗi tầng được
thể hiện như trong hình vẽ. Chu kỳ dao động tự nhiên
hệ, vec-tơ dạng dao động thứ 1, 4, 5 cũng được thể
hiện trong hình vẽ. Độ cứng của mỗi tầng được thể
hiện qua công thức:
1/50 11 , 1~ 5j i i i i ik k p u u i (8)
trong đó:
kj-i là độ cứng tức thời của tầng thứ i tại thời điểm
cuối cùng của bước thứ j;
k0-i là độ cứng ban đầu (trước khi biến dạng) của
tầng thứ i;
|ui – ui-1| là chuyển vị lệch tầng của tầng thứ i so
với tầng thứ (i-1) bên dưới;
Hệ số pi đặc trưng cho tính phi tuyến của mỗi
tầng, pi = 0 tương ứng với thanh đàn hồi, pi < 0 tương
ứng với hệ mềm hóa sau biến dạng (softening), pi > 0
tương ứng với hệ cứng hóa sau biến dạng
(hardening). Hình 8 minh họa mối quan hệ này với
đường nét liền thể hiện cho mối quan hệ tuyến tính
giữa chuyển vị lệch tầng và nội lực trong cột, đường
nét đứt thể hiện mối quan hệ phi tuyến, ở đây là quan
hệ mềm hóa.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 9
Hình 8. Quan hệ giữa chuyển vị lệch tầng
và nội lực trong cột
Trong ví dụ này, mô hình công trình chịu tác dụng
của lực động đất, chuyển động với gia tốc nền CHY
028, đỉnh gia tốc bằng 0,5g như đã dùng ở ví dụ 1. Độ
cứng của mỗi tầng được tính như công thức (8) với
giá trị p1 = -1,0, p2~p5 = -0,5. Để đánh giá ảnh hưởng
của các dạng dao động bậc cao, chuyển vị ban đầu
của hệ được gán bằng d(0) = Ф5/10 (m), trong đó giá
trị của vec-tơ Ф5 thể hiện trong hình 7. Chuyển vị của
tầng thứ 5 được tính bằng phương pháp AAM, PFM1
và PFM2 được thể hiện trong hình 9. Ngoài ra, kết
quả của một trường hợp tính bằng phương pháp
AAM trong đó chuyển vị ban đầu của hệ kết cấu được
tính từ trạng thái nghỉ d(0) = 0 được in trong hình 9a
để so sánh. Tất cả các trường hợp này đều tính với
bước thời gian Δt = 0,01s.
Kết quả từ hình 9 cho thấy chuyển vị tại tầng 5
của hệ kết cấu bị ảnh hưởng rất nhiều của các dạng
dao động bậc cao khi tính bằng phương pháp AAM và
PFM1. Các giá trị dao động trở nên rất “nhiễu” (không
chính xác) và gần như không thể sử dụng được để
phân tích kết cấu. So sánh hình 9a và 9b cho thấy, độ
“nhiễu” theo tính toán bằng phương pháp PFM1 thậm
chí còn lớn hơn độ “nhiễu” theo tính toán bằng AAM.
Tuy nhiên, độ “nhiễu” này đã hoàn toàn bị loại bỏ
trong kết quả của phương pháp PFM2. Kết quả
chuyển vị thu được từ hình 9c cho thấy đường cong
biểu diễn chuyển vị rất trơn và trùng với kết quả thu
được từ phương pháp AAM trong trường hợp hệ dao
động từ trạng thái nghỉ.
Qua ví dụ này cho thấy, chỉ bằng cách điều chỉnh
hệ số p của phương pháp đề xuất ở đây, ta hoàn toàn
có thể điều chỉnh được hệ số cản nhớt số để loại bỏ
ảnh hưởng của các dạng dao động bậc cao mà không
làm ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả tính
toán. Với giá trị p = 1, phương pháp này không có hệ
số cản nhớt số, giá trị p giảm cho hệ số cản nhớt số
càng tăng, và hệ số cản nhớt số lớn nhất khi p = 0,5.
Hình 9. Dao động tầng 5 của hệ kết cấu dưới tác dụng
của tải trọng động đất
5.3 Ví dụ 3: So sánh về hiệu quả tính toán
Hình 10. Mô hình hệ nhiều bậc tự do
Xem xét mô hình một hệ phi tuyến nhiều bậc tự
do như trong hình 10. Hệ gồm n vật nặng, mỗi vật có
khối lượng 1kg, nối với nhau bằng lò xo có độ cứng ki,
trong đó giá trị ki thay đổi phụ thuộc vào biến dạng
của lò xo, có công thức tính được ghi trong hình 10.
Toàn bộ hệ chịu tác dụng của chuyển vị nền, dao
động theo dạng hình sin như trong hình vẽ. Xem xét
hai trường hợp, hệ có 500 bậc tự do (n = 500) và hệ
có 1000 bậc tự do (n = 1000). Về nguyên tắc thì mô
hình hệ lò xo này cũng giống mô hình hệ 5 tầng 5 bậc
tự do trong ví dụ 2 (khác số bậc tự do). Chu kỳ dao
động tự nhiên nhỏ nhất được tính toán dựa vào độ
cứng ban đầu trước khi biến dạng với hệ 500 bậc tự
do có kết quả bằng ω0 = 31,38 rad/s, trong đó với hệ
1000 bậc tự do bằng ω0 = 15,70 rad/s, trong khi chu
kỳ dao động tự nhiên lớn nhất với cả hai trường hợp
đều bằng ω0 = 20000 rad/s. Hệ được tính toán bằng 3
phương pháp là NEM, AAM và PFM2.
Bước thời gian tính toán Δt đối với phương pháp
NEM được lựa chọn căn cứ theo điều kiện ổn định
Ω0 = ω0(Δt)≤2, theo đó với chu kỳ dao động lớn nhất
ω0 = 20000 rad/s thì bước thời gian được lựa chọn
Δt ≤ 2/20000 = 0,0001s. Giá trị tính toán của bước
thời gian này cũng đủ nhỏ để có thể coi kết quả tính
toán thu được là chính xác, làm cơ sở để so sánh với
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
10 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
các phương pháp khác. Trong khi đó, do hai phương
pháp AAM và PFM2 đều là những phương pháp
không có điều kiện ổn định nên bước thời gian Δt
được lựa chọn cho hai phương pháp AAM và PFM2
căn cứ vào yêu cầu chính xác của kết quả tính toán
với Δt càng nhỏ thì độ chính xác càng cao, nhưng
ngược lại khối lượng tính toán càng lớn. Ở đây lựa
chọn Δt = 0,005s giây cho cả hai phương pháp AAM
và PFM2.
Hình 11 thể hiện kết quả kết quả tính toán chuyển
vị của lò xo thứ 500 và thứ 1000 tương ứng với hai hệ
đã nêu ở trên. Biểu đồ cho thấy đường cong biểu diễn
chuyển vị gần như trùng nhau, cho thấy kết quả tính
toán từ phương pháp AAM và PFM2 là chính xác.
Tiếp theo so sánh về thời gian tính toán, cả ba
phương pháp này đều được tính toán bằng chương
trình viết bằng Matlab, chạy trên máy tính cá nhân
dùng chip Intel®CoreTMi5 CPU M460 @2.53GHz, RAM
4.00 GB. Thời gian tính toán (tính bằng giây) cho từng
hệ 500 và 1000 bậc tự do tương ứng với mỗi phương
pháp được trình bày trong bảng 1.
Kết quả so sánh từ bảng 1 cho thấy, thời gian tính
toán của phương pháp PFM2 chỉ bằng khoảng 5% so
với phương pháp NEM và bằng dưới 2% so với
phương pháp AAM.
Điều này được lý giải là do trong một bước tính
toán thì tính bằng phương pháp PFM2 mất nhiều
công sức hơn (PFM2 phải giải hệ phương trình ma
trận hai lần, NEM chỉ cần giải một lần). Tuy nhiên, do
NEM bị giới hạn về điều kiện ổn định nên số bước
tính toán bị tăng lên rất nhiều, ở đây số bước tính
toán của phương pháp NEM lớn hơn phương pháp
PFM2 tới 50 lần. Do vậy, xét về tổng thể thì thời gian
thời gian tính toán bằng NEM vẫn nhiều hơn PFM2.
Mặt khác, khi so sánh với phương pháp AAM, tuy
PFM2 và AAM có số bước tính toán bằng nhau
nhưng trong mỗi bước AAM phải tính lặp rất nhiều lần
để tìm ra đáp số chính xác (ví dụ: sử dụng phương
pháp Newton Raphson thường mất trung bình khoảng
10-25 lần lặp trong một bước). Việc tính lặp này rất
mất thời gian, công sức và kết quả không phải lúc nào
cũng hội tụ hoặc hội tụ đến kết quả không mong
muốn. Do vậy, trong một bước tính toán thì tính bằng
AAM mất thời gian và công sức hơn PFM2 khá nhiều,
tùy thuộc vào tốc độ hội tụ và độ chính xác yêu cầu.
Trong phân tích ứng xử phi tuyến cho công trình
xây dựng, việc giảm thời gian tính toán có ý nghĩa rất
lớn. Để giảm thời gian tính toán có thể sử dụng
những hệ máy tính mạnh hoặc chạy song song nhiều
máy tính, tuy nhiên cách này thường gây tốn kém chi
phí, do đó sử dụng một phương pháp có hiệu quả tính
toán cao như phương pháp đề xuất ở đây cũng là một
cách tốt. Trong ví dụ này chỉ tính toán với hệ 1000
bậc tự do, với hệ có số bậc tự do càng lớn, chẳng
hạn như mô hình một công trình xây dựng có thể lên
đến hàng triệu bậc tự do, thì việc tiết kiệm này sẽ
càng có ý nghĩa.
Hình 11. Kết quả tính toán chuyển vị
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 11
Bảng 1. Bảng so sánh về hiệu quả tính toán
N-DOF NEM (1) AAM(2) PFM2 (3) (3)/(1) (3)/(2)
500 640,69 s 1733,47 s 32,94 s 0,051 0,019
1000 2955,91 s 14224,70 s 140,81 s 0,048 0,0099
4. Kết luận
Trong bài báo này, một họ phương pháp phân
tích phi tuyến động theo lịch sử thời gian được đề
xuất, trong đó các đặc trưng số học của phương pháp
được điều chỉnh chỉ thông qua một hệ số p duy nhất.
Hệ số này được lựa chọn trong khoảng 0,5 ≤ p ≤ 1,
với p = 1 cho phép tính toán không có hệ số cản nhớt
số, p giảm cho hệ số cản nhớt số tăng. Phương pháp
thuộc họ ngoại hiển thức không có điều kiện ổn định,
do vậy tiết kiệm được rất nhiều công sức tính toán so
với hai phương pháp truyền thống được so sánh là
NEM và AAM, trong khi độ chính xác trong kết quả
thu được là tương đương. Thông qua các ví dụ đã chỉ
ra rằng phương pháp này là phù hợp để giải các bài
toán phi tuyến trong xây dựng.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin cảm ơn Hội đồng Khoa học Quốc
gia Đài Loan đã tài trợ kinh phí cho nghiên cứu này
thông qua hợp đồng số NSC-99-2221-E-027-029. Bài
báo được gửi đăng với sự đồng ý của ©2015 Taylor &
Francis Group, London, UK.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bathe, K.J. and Wilson, E.L. (1973). “Stability and
accuracy analysis of direct integration methods”,
Earthquake Engineering and Structural Dynamics.
Vol. 1: 283-291.
[2]. Belytschko, T. and Schoeberle, D.F. (1975). “On
the unconditional stability of an implicit algorithm
for nonlinear structural dynamics”, Journal of
Applied Mechanics, Vol. 17: 865-869.
[3]. Belytschko, T. and Hughes, T.J.R. (1983).
“Computational methods for transient analysis”,
Elsevier Science Publishers B.V., North-Holland.
[4]. Chang, S.Y. (2002). “Explicit pseudodynamic algorithm
with unconditional stability”. Journal of Engineering
Mechanics, ASCE, Vol. 128, No.9: 935-947.
[5]. Chang, S.Y. (2007). “Improved explicit method for
structural dynamics”, Journal of Engineering
Mechanics, ASCE, Vol. 133, No. 7: 748-760.
[6]. Chang, S.Y. (2009). “An explicit method with
improved stability property”, International Journal
for Numerical Method in Engineering, Vol. 77, No.
8:1100-1120.
[7]. Chang, S.Y. (2010). “A new family of explicit method
for linear structural dynamics”, Computers &
Structures, Vol. 88, No.11-12:755-772.
[8]. Chang, S.Y., N.C. Tran. (2014). “A two-step
unconditionally stable explicit method with
controllable numerical dissipation for structural
dynamics”, Advances in Civil Engineering and
Building Materials IV. 379-383.
[9]. Dobbs, M.W. (1974). “Comments on ‘stability and
accuracy analysis of direct integration methods’
by Bathe & Wilson”, Earthquake Engineering and
Structural Dynamics, Vol. 2: 295-299.
[10]. Hilber, H.M., Hughes, T.J.R. and Taylor, R.L.
(1977). “Improved numerical dissipation for time
integration algorithms in structural dynamics”,
Earthquake Engineering and Structural
Dynamics, Vol. 5: 283-292.
[11]. Hughes, T.J.R. (1987). “The Finite element method”,
Prentice-Hall, Inc., Englewood Cliffs, N.J., U.S.A.
[12]. Krieg, R.D. (1973). “Unconditional stability in
numerical time integration methods”, Journal of
Applied Mechanics, Vol. 40: 417-421.
[13]. Newmark, N.M. (1959). “A method of computation
for structural dynamics”, Journal of Engineering
Mechanics Division, ASCE, Vol. 85: 67-94.
[14]. Zhou X, Tamma KK. (2004). “Design, analysis
and synthesis of generalized single step single
solve and optimal algorithms for structural
dynamics”, International Journal for Numerical
Methods in Engineering; Vol. 59: 597-668.
[15]. Zhou X, Tamma KK. (2006). “Algorithms by design
with illustrations to solid and structural mechanics/
dynamics”, International Journal for Numerical
Methods in Engineering; Vol. 66: 1841-1870.
[16]. Zienkiewicz, O.C. (1977). “The Finite Element
Method”, McGraw-Hill Book Co (UK) Ltd. Third
edition.
[17]. W.L. Wood, M. Bossak, and O.C. Zienkiewicz.
“An alpha modification of Newmark’s method”,
International Journal for Numerical Methods in
Engineering, Vol. 15: 1562-1566, 1981.
Ngày nhận bài: 03/8/2015.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 06/11/2015.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
12 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
ỨNG DỤNG PHẦN MỀM MÃ NGUỒN MỞ OPENSEES
TRONG LẬP TRÌNH MÔ PHỎNG CẦU CHỊU ĐỘNG ĐẤT
KS. TRẦN TIẾN ĐẠT, KS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC, TS. TRẦN ANH BÌNH
Trường Đại học Xây dựng
Tóm tắt: OpenSees (Open System of Earthquake
Engineering Simulation) là một phần mềm mã nguồn
mở với thư viện mã code được viết chủ yếu bằng
C++, một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng. Nó cho
phép người dùng tạo ra các mô hình phần tử hữu hạn
để mô phỏng phản ứng của hệ kết cấu và đất nền
dưới tác dụng của động đất. Bài báo này sẽ giới thiệu
về OpenSees từ đó xây dựng thuật toán ứng dụng
OpenSees vào trong lập trình mô phỏng một ví dụ kết
cấu cầu chịu tác dụng của động đất.
Từ khóa: OpenSees, động đất, mô phỏng.
1. Mở đầu
OpenSees (Open System of Earthquake
Engineering Simulation) là một phần mềm mã nguồn
mở được phát triển bởi nhóm nghiên cứu ở PEER
(Pacific Earthquake Engineering Research) của
trường đại học University of California, Berkeley. Thư
viện mã code của OpenSees được viết chủ yếu bằng
C++ là ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng.
OpenSees là một phần mềm mã nguồn mở miễn
phí. Phần mềm có khả năng tính toán mạnh với một
thư viện hỗ trợ nhiều loại vật liệu, người dùng có thể
tự phát triển các loại vật liệu khác tùy thuộc vào nhu
cầu của người sử dụng. OpenSees hỗ trợ nhiều
phương pháp tính khác nhau, do đó tùy vào mục đích
và đặc điểm của bài toán kết cấu mà người dùng có
thể linh hoạt lựa chọn phương pháp thích hợp để
phân tích. Mã nguồn của OpenSees thường xuyên
được cập nhật và đóng góp của nhiều cơ quan
nghiên cứu lớn trên thế giới, các chuyên gia từ các
trường đại học, viện nghiên cứu, đây là phần mềm có
lượng người dùng lớn do đó việc trao đổi, thảo luận là
tương đối dễ dàng [1].
Tuy nhiên, OpenSees có nhược điểm là một phần
mềm không có giao diện đồ họa, vì vậy gây khó khăn
cho những người dùng thông thường, hiện nay có
một số phần mềm đã được viết như OpenSees
Navigator, GiD, TclBuilder hoặc toolbox trong Matlab
như OpenSees Pre- and Post- Processing [2] để xuất
và nhập kết quả. Tuy nhiên, việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ này vẫn chưa đầy đủ, hoàn chỉnh như
các phần mềm thương mại hiện nay. Bởi vì
OpenSees hỗ trợ nhiều phương pháp giải khác nhau,
do đó đối với người dùng thông thường sẽ rất khó
khăn trong việc lựa chọn, thậm chí dẫn đến tính toán
đưa ra kết quả sai nếu người dùng không hiểu hoặc
dùng sai các phương pháp tính. Về cơ bản, ở thời
điểm hiện tại OpenSees dành cho người dùng trong
công tác nghiên cứu và phát triển chứ chưa thực sự
hướng đến những người dùng phổ thông.
Sử dụng OpenSees trong phân tích kết cấu xây
dựng nói chung và đặc biệt trong kết cấu cầu nói
riêng được nhiều nhóm nghiên cứu quan tâm, Jinchi
Lu, Kevin Mackie, and Ahmed Elgamal [3] đã xây
dựng chương trình phân tích Pushover cho kết cấu
nhịp giản đơn; Pallavi Gavali, Mahesh S. Shah, Gouri
Kadam và Kranti Meher [4] đã xây dựng chương trình
phân tích 3D kết cấu cầu và đất nền chịu động đất.
OpenSees hiện tại và trong tương lai gần vẫn là
một công cụ mạnh trong phát triển và mô phỏng kết
cấu chịu động đất. Bài báo này sẽ giới thiệu về
OpenSees từ đó xây dựng sơ đồ thuật toán ứng dụng
vào trong lập trình mô phỏng một ví dụ kết cấu cầu cụ
thể chịu tác dụng của động đất.
2. Tổng quan về OpenSees
2.1 Những tính năng của OpenSees
Như đã đề cập trong phần mở đầu, OpenSees là
một phần mềm mã nguồn mở phục vụ cho phân tích
tính toán kết cấu theo phương pháp phần tử hữu hạn.
Tính năng mạnh nhất của OpenSees là mô phỏng
phản ứng của kết cấu chịu tác động của động đất, các
bài toán phân tích phi tuyến và phân tích kết cấu
tương tác với đất nền. Sơ đồ hình 1 thể hiện các ưu
điểm mà OpenSees mang lại:
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 13
Hình 1. Các ưu điểm của OpenSees
Mô hình kết cấu trong phần mềm mã nguồn mở OpenSees người sử dụng có thể tùy chọn hoàn toàn thông
qua API (các hàm, thủ tục được lập sẵn) về mô hình, hiển thị, phương pháp giải, kết quả đầu ra. So với phần
mềm mã nguồn đóng truyền thống ví dụ như Midas/Civil chưa hỗ trợ bộ API [5], Sap2000 chỉ cho phép đưa dữ
liệu đầu vào, xuất kết quả qua các hàm API [6]. Khả năng tùy chỉnh của các phần mềm mã nguồn đóng phụ
thuộc vào bộ API do phần mềm cung cấp do đó rất hạn chế (hình 2).
Hình 2. So sánh phần mềm mã nguồn đóng và OpenSees [7]
Ngoài ra, bộ mã nguồn mở được cung cấp miễn
phí [8], người sử dụng có thể xây dựng thêm cơ sở
dữ liệu cho bài toán của mình như tạo phần tử, vật
liệu, phương pháp giải, lặp, thuật giải mới và sau đó
xây dựng thành trình dịch của riêng mình.
2.2 Mô hình trong OpenSees
OpenSees bao gồm một tập hợp các mô-đun để
thực hiện công việc tạo ra các mô hình phần tử hữu
hạn. Trong một mô hình phân tích phần tử hữu hạn
của kết cấu trong OpenSees, các lệnh được sử dụng
với mục đích để tạo ra 4 loại đối tượng chính (hình 3).
Hình 3. Lớp trừu tượng chính (main abstractions)
trong OpenSees [7]
Các loại đối tượng chính này thực hiện các nhiệm
vụ khác nhau, cụ thể như:
ModelBuilder: Là một đối tượng trong chương
trình chịu trách nhiệm tạo ra mô hình kết cấu như nút,
phần tử, vật liệu, định nghĩa các loại tải trọng và định
nghĩa điều kiện biên.
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
14 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
Domain: Có trách nhiệm lưu trữ các đối tượng được tạo ra từ ModelBuilder và cho phép các lớp chính
Analysis và Recoder truy nhập tới các đối tượng này (hình 4).
Hình 4. Domain lưu trữ các đối tượng tạo ra từ ModelBuilder [7]
Recorder: Theo dõi các tham số mà người dùng đã định nghĩa trong suốt quá trình phân tích, ví dụ: theo
dõi chuyển vị tại một nút theo lịch sử thời gian. Lớp trừu tượng này cũng điều khiển ghi file và xuất kết quả.
Analysis: Chịu trách nhiệm thực hiện phân tích. Trong OpenSees lớp trừu tượng chính Analysis bao gồm
các đối tượng điều khiển kiểu phân tích cho mô hình (hình 5).
Hình 5. Các đối tượng trong lớp Analysis [7]
Để thực hiện xây dựng và phân tích một mô hình phần tử hữu hạn trong OpenSees người dùng sử dụng
các hàm đã được lập sẵn trong OpenSees và sử dụng ngôn ngữ TCL (một ngôn ngữ thông dịch mạnh và dễ sử
dụng) để tạo ra mô hình hình học, tải trọng (file nguồn).
2.3 Thuật toán ứng dụng mã nguồn mở OpenSees mô phỏng cầu chịu động đất
Để minh họa cho phương pháp mô hình kết cấu trong OpenSees. Bài báo trình bày sơ đồ thuật toán (hình
6) được xây dựng để áp dụng trực tiếp vào ví dụ ở mục 3 như sau:
Hình 6. Sơ đồ thuật toán
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 15
3. Ví dụ số và phân tích kết quả
3.1 Số liệu hình học và gia tốc nền
95000
l=30000 l=35000 l=30000
10
00
0
Hình 7. Mặt đứng kết cấu cầu
Trong ví dụ sử dụng một kết cấu dầm bản rỗng 3 nhịp (30m + 35m + 30m) trụ dạng cột tiết diện tròn vật liệu
bê tông cốt thép, trụ và dầm được liên kết cứng với nhau, hai gối di động được đặt ở hai mố đầu cầu. Sơ đồ kết
cấu đối xứng qua tim cầu theo cả phương dọc và ngang (hình 7).
24-D32
D13@75
Hình 8. Mô hình kết cấu đưa vào OpenSees
Một mô hình 3D của kết cấu được lập trình trong OpenSees như sau (hình 8): kết cấu dầm chủ được mô
hình bằng phần tử dầm – cột đàn hồi (elasticBeamColumn). Để mô hình liên kết cứng giữa trụ và dầm sử dụng
một liên kết tuyệt đối cứng trong OpenSees (rigidLink). Trụ cầu được mô hình xét đến phi tuyến vật liệu sử
dụng phần tử dầm – cột phi tuyến (nonlinearBeamColumn) với mô hình tiết diện bê tông cốt thép (Fiber
Section). Khối lượng kết cấu được gán vào các nút trên các phần tử dầm và trụ. Trọng lượng bản thân kết cấu
và hiệu ứng P – Delta được đưa vào cùng phân tích động đất. Mô hình liên kết ngàm (SP-Constraint-fix) ở đáy
đài cọc. Dữ liệu trận động đất được sử dụng cho ví dụ được lấy từ PEER Ground Motion Database [9]. Cụ thể
ở đây là 2 trận động đất EI Centro 12 và EI Centro 01 của trạm đo Imperial Valley 10/15/79 (bảng 1).
Bảng 1. Chi tiết trận động đất sử dụng trong ví dụ
Trận động
đất Hướng Trạm đo
Cấp động
đất (Mw)
Bước thời
gian (s) PGA (g)
El Centro12
Phương dọc Cầu (Trục X
hệ tọa độ tổng thể)
Imperial valley 10/15/79
EL CENTRO ARRAY #12
6.5 0.005 0.116
El Centro01
Theo phương ngang Cầu
(Trục Y hệ tọa độ tổng thể)
Imperial valley 10/15/79
EL CENTRO ARRAY #1
6.5 0.005 0.139
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
16 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
Hình 9. Biểu đồ gia tốc nền
Bảng 2. Bảng tổng hợp về mô hình kết cấu trong OpenSees
Phần kết cấu Mô hình phân tích Chi tiết
Dầm chủ Mô hình 3D phần tử dầm – cột đàn hồi Diện tích tiết diện: 6.9 m
2
Mô men quán tính: 1.31 m4
Trụ cầu 3Mô hình 3D phần tử dầm – cột phi tuyến, phân
tích ảnh hưởng hiệu ứng P – Delta.
Diện tích tiết diện: 1.7 m2
Mô men quán tính: 0.25 m4
3.2 Thông số vật liệu
Mô hình bê tông: Mô hình bê tông được sử dụng trong ví dụ này được giới thiệu bởi Kent và Park và sau
đó được mở rộng bởi Scott [10]. Sử dụng hàm Concrete01 đã được thiết lập sẵn trong OpenSees [7].
2
ε ε' c cσ = Kf 2 -c c
ε εco co
ε εc o (1)
'σ = Kf 1- Z(ε - ε )c c c co co c uε ε ε (2)
'σ = 0.2Kfc c cu cε ε (3)
ρ fs yh
K = 1+ 'fc
coε = 0.002K (4)
Hình 10. Mô hình bê tông [10]
0.5
Z =
' '3 + 0.0284f hc + 0.75ρ - 0.002Ks' s14.21f - 1000c h
(5)
Ở đây co là biến dạng trong bê tông khi ứng suất đạt lớn nhất; K là hệ số tăng cường độ do bê tông bị kiềm
chế; Z là độ dốc đường biến dạng; 'cf là cường độ chịu nén của bê tông kg/cm
2; fyh là cường độ chảy của cốt
thép đai;ρs là tỉ số thể tích của thép ngang kiềm chế trên thể tích của lõi kiềm chế; sh là khoảng cách từ tim đến
tim đai; 'h là chiều rộng của lõi kiềm chế tính đến mép ngoài thép đai.
Bảng 3. Các thông số bê tông sử dụng trong mô hình
Bê tông Ec (Mpa) f
’
c (Mpa)
γ
(kg/m3) ε0 εu K Z
H.lượng
thép dọc
ρ (%)
Cốt thép
đai
Thường 33994 40.000 24.5 0.0020 0.006 1.00 64.5 1.112 D13@75
Bị kiềm chế 33994 43.446 24.5 0.0217 0.02 1.086 469.15 1.112 D13@75
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 17
Mô hình cốt thép: Quan hệ ứng suất – biến dạng
của cốt thép được mô hình đơn giản là các đoạn
thẳng tuyến tính (hình 11). Lý do sử dụng mô hình
xấp xỉ này là tiện lợi cho mô hình tính toán. Mô hình
này đã được OpenSees đưa vào hàm Steel01 [7]. Số
liệu cốt thép đưa vào ví dụ như sau: Cường độ chảy
của cốt thép: fy = 420 MPa; mô đun đàn hồi của thép:
E0 = 200000 MPa; tỷ số biến cứng: b = 0.01; trọng
lượng riêng thép: γ = 7500 kg/m3.
Hình 11. Mô hình vật liệu thép [7]
3.3 Cài đặt các thông số phân tích cho mô hình
trong OpenSees
Để thực hiện phân tích động phi tuyến, phương
pháp tích phân trực tiếp Newmark với Δt = 0.01s trên
cơ sở thuật toán gia tốc trung bình được sử dụng,
phương pháp này đã được lập sẵn trong hàm
integrator Newmark $gamma $beta. Thuật giải lặp
Newton-Raphson được khai báo trong OpenSees
bằng hàm algorithm Newton. Để thiết lập ma trận
cản tỉ số cản được giả thiết là ξ = 5% cho 2 tần số
dao động đầu tiên [11]. Để tiết kiệm bộ nhớ máy tính
khi phân tích sử dụng phương pháp chuyển ma trận
dải của ma trận độ cứng về một ma trận dạng chữ
nhật bằng lệnh system BandGeneral. Số bước lặp
lớn nhất 100 bước và độ hội tụ 10-8 được đưa vào để
dừng phân tích khi vượt quá số bước lặp mà kết quả
chưa hội tụ, sử dụng hàm test NormUnbalance $tol
$iter trong đó $tol là độ hội tụ và $iter số bước lặp
lớn nhất. Dữ liệu động đất sẽ được phóng lên 3 lần
để cho thấy ảnh hưởng lớn của các hiệu ứng phi
tuyến trong kết cấu.
3.4 Mô hình trong phần mềm Midas/ Civil
Để so sánh ưu nhược điểm của OpenSees với
phần mềm thương mại hiện nay trong lĩnh vực phân
tích kết cấu, đặc biệt là kết cấu cầu. Bài báo sử dụng
phần mềm Midas/Civil để phân tích và so sánh kết
quả. Midas/Civil là phần mềm thương mại của hãng
Midas IT (Hàn Quốc). Đây là phần mềm phân tích kết
cấu có độ chính xác cao cùng với các phần mềm như
Sap2000, ADINA và ANSYS. Midas/Civil hiện nay
được nhiều kỹ sư và nhà khoa học sử dụng để phân
tích kết cấu đặc biệt là trong kết cấu cầu. Các thông
số đầu vào đưa vào phần mềm Midas/Civil tương tự
như các thông số được sử dụng lập trình trong
OpenSees.
Hình 12. Mô hình kết cấu trong Midas/Civil
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
18 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
3.5 Kết quả phân tích
a. Tần số dao động riêng
Trong bài toán động lực học công trình thì
tần số dao động riêng của kết cấu là một giá trị
đặc biệt quan trọng, do đó kết quả của phân
tích tần số dao động riêng của hai chương
trình được đưa ra để so sánh (hình 13).
Kết quả phân tích 5 tần số dao động riêng
từ OpenSees và Midas/Civil cho giá trị gần
giống nhau, cụ thể là ở dạng dao động đầu
tiên sai số giữa 2 chương trình là 0.87%, sai
số nhỏ nhất là ở dạng dao động thứ 3 với sai
số là 0.042%, sai số tăng dần cho các dạng
dao động tiếp theo với 1.85% và 2.23% cho
dạng dao động thứ 4 và thứ 5.
Hình 13. Đồ thị so sánh kết quả tần số dao động riêng
b. Chuyển vị theo lịch sử thời gian
Chuyển vị dọc cầu tại vị trí đỉnh trụ kết quả phân tích từ OpenSees khi có xét và không xét đến hiệu ứng
P-Delta.
Hình 14. So sánh chuyển vị dọc khi xét hiệu ứng P-Delta trong OpenSees
Kết quả so sánh chuyển vị theo lịch sử thời gian phân tích từ OpenSees trong 2 trường hợp: có xét và
không xét đến hiệu ứng P-Delta của trụ cho thấy có sự khác nhau về giá trị. Tuy nhiên, giá trị khác nhau này là
nhỏ kết quả ở đây là dưới 1% (hình 14) bởi vì trụ cầu có độ mảnh nhỏ.
So sánh kết quả phân tích chuyển vị dọc cầu tại vị trí đỉnh trụ trong Midas/Civil và OpenSees (cả hai
chương trình đều đã xét đến hiệu ứng P-Delta).
Hình 15. So sánh kết quả giữa OpenSees và Midas/Civil
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015 19
Bảng 4. Bảng giá trị kết quả chuyển vị dọc cầu
Đại lượng so sánh Kết quả từ OpenSees Kết quả từ Midas/Civil Sai số
Chuyển vị lớn nhất (+) 0.101 m 0.108 m 6.5 %
Chuyển vị nhỏ nhất (-) - 0.125 m - 0.117 m 6.8 %
Tại vị trí đỉnh trụ trái chuyển vị theo phương dọc cầu lớn nhất khi phân tích theo OpenSees là 0.101 m và
theo Midas/Civil là 0.108 m sai số là 6.5 % so với kết quả từ Midas/Civil, cùng với vị trí đó khi xét chuyển vị nhỏ
nhất tại vị trí giữa nhịp kết quả phân tích theo OpenSees và Midas/Civil lần lượt là 0.125 m, 0.117 m sai số là
6.8% so với kết quả từ Midas/Civil.
Từ một ví dụ bằng số mà bài báo đã phân tích cho thấy kết quả phân tích từ OpenSees có độ chính xác
cao khi so với phần mềm thương mại Midas/Civil, một phần mềm được dùng chủ yếu trong phân tích kết cấu
cầu. Qua quá trình phân tích bằng 2 phần mềm với cùng một ví dụ cụ thể có thể rút ra được một số ưu điểm và
nhược điểm của OpenSees so với Midas/Civil như sau:
Bảng 5. Bảng so sánh một số ưu nhược điểm của OpenSees với Midas/Civil
Đánh giá Hạng mục Midas/Civil OpenSees
Giá thành
phần mềm
Phần mềm thương mại phải trả phí
bản quyền.
Phần mềm mã nguồn mở không mất
phí
Tính linh
động
Đối với ví dụ trên khi sử dụng chức
năng mô hình tiết diện bê tông cốt thép
Midas/Civil chỉ cung cấp 7 loại mô hình
bê tông và 4 loại mô hình thép.
Trong quá trình chia thớ của tiết diện
trụ Midas/Civil chỉ cho phép chia 1000
phần tử.
Chỉ cho phép liên hợp 6 loại vật liệu
trong cùng một tiết diện.
Trong khi đó OpenSees cung cấp
hơn 200 loại mô hình vật liệu khác nhau
và cho phép người dùng tạo ra mô hình
vật liệu mới.
OpenSees cho phép người sử dụng
chia không giới hạn.
Cho phép mô hình liên hợp không giới
hạn số loại vật liệu trong cùng 1 tiết diện.
Một số ưu
điểm của
OpenSees
so với
Midas/Civil
Phân tích
Midas/Civil không cho phép người
dùng lựa chọn phương pháp giải phù
hợp với từng loại bài toán.
Thời gian phân tích trong Midas/Civil
trong cùng một ví dụ trên là 301s.
OpenSees cho phép người dùng lựa
chọn phương pháp giải và độ hội tụ yêu
cầu với từng bài toán cụ thể của người
sử dụng.
Trong ví dụ trên thời gian phân tích
trong OpenSees là 61s.
Sử dụng
Có giao diện, không mất nhiều thời
gian để sử dụng.
Không có giao diện, tuy nhiên người
dùng có thể lập trình tạo giao diện
người dùng
Một số
nhược
điểm của
OpenSees
so với
Midas/Civil
Tính đơn
giản
Người dùng không cần biết quá nhiều
về kiến thức phần tử hữu hạn cũng có
thể giải chính xác được các bài toán
phức tạp.
OpenSees yêu cầu người dùng phải
lựa chọn các phương pháp giải cụ thể
do đó người dùng cần phải nắm vững
được về lý thuyết và các phương pháp
giải để áp dụng.
Kết luận Phù hợp cho kỹ sư thiết kế Phù hợp với nghiên cứu.
4. Kết luận
Sử dụng OpenSees, việc mô hình, mô phỏng kết
cấu rất linh động đặc biệt là các bài toán kết cấu chịu
động đất, phân tích phi tuyến và mô hình tương tác
kết cấu đất nền. Người dùng có thể tùy chỉnh, can
thiệp vào hầu hết các thông số từ phần tử, vật liệu
đến phương pháp phân tích. Đặc biệt OpenSees là
phần mềm mã nguồn mở miễn phí khi phân tích cho
kết quả chính xác không thua kém các phần mềm
thương mại. Đây là phần mềm phù hợp với mục đích
nghiên cứu. Tuy nhiên, OpenSees không có giao diện
người dùng, hiện nay đã có một số chương trình trợ
giúp xử lý nhập và xuất dữ liệu nhưng vẫn còn nhiều
hạn chế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Website The OpenSees Community Forum:
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
20 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 4/2015
[2]. WaiChing Sun (2004):
ange/6113-opensees-pre-and-post-processing.
[3]. Jinchi Lu, Kevin Mackie, and Ahmed Elgamal.
(2011). “OpenSees 3D Pushover and Earthquake
Analysis of Single-Column 2-span Bridges”, UC,
Berkeley (
[4]. P. Gavali, M S. Shah, G. Kadam và K. Meher.
(2013). ”Seismic response and simulations of
reinforced concrete bridge using OpenSees on
high performance computing”, CSI Transactions
on ICT, Volume 1, Issue 3, pp 215-220.
[5]. Website:
hnjs.htm.
[6]. Website: https://www.csiamerica.com/application-
programming-interface.
[7]. McKenna F, Fenves GL. (2001). The OpenSees
command language manual, Version 1.2, Pacific
Earthquake Engineering Research Center,
University of California at Berkeley.
[8]. Website:
er/download.php.
[9]. Website:
_motion_db.html.
[10]. B.D.Scott, R.Park, and M.J.Priestley. (1982)..
“Stress-strain Behavior of concrete confined by
overlapping hoop at low and high strain rates”, ACI
Journal, January-February 1982, title no. 79-2.
[11]. Finley A. Charney. (April 2008). "Unintended
Consequences of Modeling Damping in
Structures", J. Struct. Engrg. Volume 134, Issue
4, pp. 581-592.
Ngày nhận bài: 05/8/2015.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 03/9/2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 14521384932_phan_1_1_1_ket_cau_cong_nghe_xay_dung_691.pdf