Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Xử
phạt vi phạm hành chính là những nền tảng
vững chắc để làm căn cứ xử lý những vi
phạm liên quan đến biểu tình.
Ngoài ra, đối với những đối tượng gây
cản trở hoặc phá hoại các cuộc biểu tình hợp
pháp cũng cần phải nhận các chế tài nghiêm
khắc, kết hợp cả các chế tài hành chính và
hình sự. Thêm vào đó là việc quy trách
nhiệm cho tập thể trong việc tổ chức biểu
tình hoặc trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Đây là vấn đề gây nhiều tranh luận liên quan
đến tội phạm về môi trường. Đối với Luật về
biểu tình, Ban soạn thảo cũng cần cân nhắc
kỹ trách nhiệm của tập thể khi xảy ra vi
phạm pháp luật liên quan đến biểu tình.
Đối với các cơ quan nhà nước, để thể
hiện tinh thần “kiểm soát quyền lực”, Luật
Biểu tình cũng cần phải quy định rõ ràng về
trách nhiệm của các cơ quan này, cũng như
cán bộ, công chức trong các trường hợp hạn
chế hoặc cấm biểu tình không đúng luật hoặc
thiếu trách nhiệm trong việc đảm bảo thực
hiện quyền biểu tình của người dân. Quy định
những trách nhiệm cụ thể này của cơ quan
nhà nước trong Luật Biểu tình sẽ giúp ích cho
quá trình kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan
hành pháp, lập pháp và tư pháp. Quy định
trách nhiệm cần đi kèm với các chế tài xử
phạt nghiêm minh để thể hiện tính giáo dục,
răn đe và phòng ngừa các hành vi xâm phạm
đến quyền tự do, dân chủ của công dân
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp tiếp cận và một số vướng mắc về nội dung khi điều chỉnh quyền biểu tính bằng luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÛÚNG PHAÁP TIÏËP CÊÅN VAÂ MÖÅT SÖË VÛÚÁNG MÙÆC VÏÌ
NÖÅI DUNG KHI ÀIÏÌU CHÓNH QUYÏÌN BIÏÍU TÒNH BÙÇNG LUÊÅT
BÙI HẢI THIÊM*
1. Phương pháp tiếp cận khi xây dựng
Luật Biểu tình
Đối với dự án Luật Biểu tình, hiện đang
có một số phương pháp tiếp cận làm nền tảng
cho việc xây dựng. Ban soạn thảo đang phải
cân nhắc lựa chọn phương án hợp lý nhất.
Qua phân tích, đánh giá các luồng quan điểm
và ý kiến khác nhau liên quan đến quyền
biểu tình, chúng tôi khái quát lại có ba cách
tiếp cận đang rất phổ biến:
(i) Phương pháp tiếp cận theo hướng
tăng cường QLNN
Theo truyền thống lập pháp ở nước ta,
mỗi dự án luật ra đời đều nhằm đến mục đích
tăng cường pháp chế XHCN, củng cố hiệu
lực và hiệu quả của QLNN trong lĩnh vực
tương ứng. Cách tiếp cận này nhìn biểu tình
và hội họp là những hoạt động quan trọng
của đời sống xã hội cần được quản lý, bởi
những hoạt động này có tác động trực tiếp
đến an ninh, ổn định và ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của đất nước. Không có
pháp luật về biểu tình để điều chỉnh trực tiếp
là một lỗ hổng trong QLNN. Luật Biểu tình
cần phải là công cụ quản lý sắc bén của Nhà
nước để xử lý những vướng mắc phát sinh
trên thực tế, tạo lập khuôn khổ và chuẩn mực
để nhân dân thực hiện quyền biểu tình.
27NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, hàng loạt dự án luật liên
quan đến các quyền dân sự và chính trị đã được Quốc hội đưa vào chương
trình làm luật theo tinh thần mới của Hiến pháp. Luật hoá những quyền này,
trong đó, có nhu cầu luật hoá quyền biểu tình - hội họp, là để đáp ứng những
nhu cầu bức thiết của đời sống xã hội, của người dân. Bài viết phân tích những
phương pháp tiếp cận khi điều chỉnh quyền biểu tình bằng luật, trong đó chỉ
ra ba cách tiếp cận phổ biến hiện nay là cách tiếp cận dựa trên nền tảng quản
lý nhà nước (QLNN), cách tiếp cận dựa trên nền tảng quyền con người và cách
tiếp cận dựa trên nền tảng kiểm soát quyền lực. Từ đó, bài viết chỉ ra một số
vướng mắc về nội dung khi xây dựng dự án Luật Biểu tình.
* TS. Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Những người theo phương pháp tiếp cận
này thường có chung lập luận rằng, do có kẽ
hở trong pháp luật về biểu tình, nên có những
phần tử xấu, phản động lợi dụng các quyền
tự do dân chủ, trong đó đặc biệt là quyền tự
do ngôn luận và quyền tự do hội họp, tiến
hành biểu tình để tụ tập đông người và đưa
ra những thông tin sai lệch, gây hoang mang
trong quần chúng nhân dân, hoặc chống phá
chính quyền. Do không có điều kiện trực tiếp
chống phá bằng vũ trang, các lực lượng thù
địch, phản động thường lợi dụng kẽ hở, thiếu
sót của pháp luật để kích động, lôi kéo, dụ
dỗ, mua chuộc quần chúng tham gia tụ tập
đông người, biểu tình, gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh chính trị, ổn định của một vùng
hoặc cả đất nước. Cũng do thiếu luật điều
chỉnh nên Nhà nước cũng phải đối mặt với
tình trạng người dân viện dẫn quyền biểu
tình ghi trong Hiến pháp tự phát tham gia
biểu tình, thậm chí một số người còn lợi
dụng quyền này để làm trái pháp luật, gây rối
an ninh trật tự, gây bạo động, bạo loạn...
Ngoài ra, khi chưa có Luật Biểu tình, Nhà
nước thiếu cơ sở để đảm bảo quyền biểu tình
của người dân, thực hiện trách nhiệm của
mình. Xây dựng Luật Biểu tình sẽ trang bị
cho Nhà nước một công cụ pháp lý và quản
lý sắc bén, giúp hạn chế việc lợi dụng của
các phần tử xấu, phản động nhằm chống phá
chế độ. Đây chính là lý lẽ cơ bản của những
người theo phương pháp tiếp cận theo hướng
tăng cường QLNN. Cách tiếp cận này phổ
biến nhất trong các cơ quan nhà nước, đặc
biệt là các cơ quan chấp pháp. Ví dụ, Báo cáo
số 202/BC-UBND ngày 8/10/2014 của Uỷ
ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk về tổng kết thi
hành Nghị định số 38/2005/NĐ-CP1 về một
số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng thể
hiện rõ quan điểm này: “Cần nghiên cứu,
tham mưu Quốc hội sớm ban hành Luật Biểu
tình, thay thế Nghị định 38/2005/NĐ-CP để
phù hợp với yêu cầu công tác bảo đảm trật
tự công cộng trong tình hình mới, nhằm răn
đe, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm,
hạn chế tối đa các vụ vi phạm xảy ra”2.
(ii) Phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền con người
Đây là phương pháp tiếp cận không mới
và đã được Liên hợp quốc sử dụng khi xây
dựng và phát triển luật nhân quyền quốc tế
sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, với
Tuyên ngôn phổ quát về Nhân quyền năm
1948 và hai công ước trụ cột về các quyền
dân sự chính trị (ICCPR) và các quyền văn
hoá - kinh tế - xã hội (ICCESR) năm 1966.
Phương pháp tiếp cận này đặt con người làm
trung tâm của sự phát triển, lấy sự bảo vệ và
phát huy quyền con người, quyền làm chủ
của nhân dân làm động lực phát triển. Từ đó,
đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo đảm và phát huy quyền con người, tạo
thuận lợi nhất cho người dân thực thi quyền
của mình thông qua việc xây dựng và thực
thi một hệ thống pháp luật công khai, minh
bạch, thống nhất, khả thi và công bằng. Đây
cũng là những mục tiêu xây dựng hệ thống
pháp luật được đề ra trong Nghị quyết số 48
của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng năm 2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến 2020.
Theo phương pháp tiếp cận này, quyền
biểu tình là một quyền cơ bản của con người
và Nhà nước có trách nhiệm tạo lập hành
lang pháp lý thuận lợi và các điều kiện vật
28 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Nghị định số 38/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
2 Báo cáo số 202/BC-UBND ngày 8/10/2014 của UBND tỉnh Đắk Lắk về tổng kết thi hành Nghị định số 38/2005 (Cổng thông
tin điện tử tỉnh Đắk Lắk,
ktxh?folder_id=2708627&item_id=18453202&p_details=1) truy cập ngày 10/12/2015.
chất phù hợp để người dân thực hiện quyền
này. Tinh thần này đã được thể hiện trong
pháp luật nhân quyền quốc tế và ngay trong
chính các bản Hiến pháp của Việt Nam từ
năm 1946 đến nay, mặc dù mới chỉ giới hạn
đối tượng thụ hưởng quyền này ở công dân
Việt Nam. Các bản Hiến pháp năm 1959,
1980, 1992 đều quy định công dân có quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập
hội, biểu tình và đồng thời xác định rõ trách
nhiệm của Nhà nước là bảo đảm những điều
kiện vật chất cần thiết để công dân được
hưởng các quyền đó.
Những người theo phương pháp tiếp cận
quyền con người thường nhấn mạnh trách
nhiệm của Nhà nước, mặc dù có sự hài hoà
với nghĩa vụ của người dân trong tuân thủ
pháp luật, nhưng điểm cốt yếu vẫn là tạo
thuận lợi cho người dân thụ hưởng và thực
thi quyền của mình chứ không phải là tạo
thuận lợi cho cơ quan QLNN và đem phần
khó về cho người dân. Dựa trên cách tiếp cận
này, một số ý kiến cho rằng Nghị định số
38/2005 của Chính phủ và Thông tư số
09/2005 của Bộ Công an3 về một số biện
pháp đảm bảo trật tự công cộng đã áp đặt các
biện pháp kiểm soát quá mức hà khắc, khiến
công dân không thể hoặc vô cùng khó khăn
nếu muốn thực thi quyền biểu tình của mình,
đặt tất cả các cuộc biểu tình tự phát trên thực
tế thành biểu tình trái luật. Nếu chiểu theo
các quy định của Nghị định số 38/2005 của
Chính phủ và Thông tư số 09/2005 của Bộ
Công an thì các cuộc biểu tình tự phát phản
đối Trung Quốc, các cuộc bạo loạn ở Bình
Dương và Hà Tĩnh năm 2014, các cuộc tập
trung khiếu kiện đông người giương biểu
ngữ phản đối liên quan đến tranh chấp đất
đai... đều là trái luật. Gần như rất khó để tìm
thấy một ví dụ nào trên thực tế có thể được
Nhà nước coi là biểu tình hợp pháp, đúng
luật. Điều này cho thấy, hệ thống pháp luật
về biểu tình của chúng ta dường như có vấn
đề, chưa theo kịp với diễn biến thực tế của
cuộc sống. Những quy định cụ thể hiện nay
về đảm bảo trật tự công cộng và kiểm soát tụ
tập đông người đã chưa phát huy được tinh
thần của Hiến pháp, thậm chí đã bó hẹp hơn
so với quy định của Sắc luật số 101 năm
1957 về quyền tự do hội họp4: “Quyền tự do
hội họp của nhân dân được tôn trọng và bảo
đảm. Không ai được xâm phạm đến quyền
tự do hội họp”.
Hội họp hoà bình (peaceful assembly)
vừa là tiền đề, vừa là hình thức biểu hiện
thực tế của biểu tình ôn hoà, hợp pháp. Nhà
nước có trách nhiệm tạo các điều kiện vật
chất cần thiết và điều kiện pháp lý bảo đảm
để người dân hưởng thụ quyền này chứ
không phải Nhà nước ban phát các quyền đó.
Nhiều người cho rằng, Nhà nước chưa ban
hành Luật Biểu tình là thiếu sót về trách
nhiệm của Nhà nước, và không thể vì thiếu
Luật Biểu tình mà người dân không thể hoặc
không được thực thi quyền biểu tình của
mình. Người dân thực thi quyền biểu tình
của mình là hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp,
còn các quy định tại các văn bản dưới luật
cản trở người dân thực hiện quyền này là vi
hiến.
(iii) Phương pháp tiếp cận dựa trên
kiểm soát dân chủ đối với quyền lực nhà
nước
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban
hành, tinh thần “kiểm soát quyền lực” giữa
các cơ quan nhà nước đang được triển khai
trong nhiều dự án luật. Theo truyền thống lập
pháp của nước ta, các văn bản pháp luật và
29NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
3 Thông tư số 09/2005/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 38/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định
một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
4 Luật số 101/SL-L-003 ngày 20/5/1957 về Quyền tự do hội họp.
thực tiễn thi hành vẫn nhấn mạnh đến yếu tố
“phân công, phối hợp” giữa các cơ quan nhà
nước nhiều hơn là yếu tố “kiểm soát quyền
lực”. Tuy nhiên, càng ngày càng nhiều người
nhận ra tầm quan trọng trong việc triển khai
yếu tố “kiểm soát quyền lực” vào các văn
bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành
để tránh tình trạng lạm quyền và độc đoán
của một số cơ quan nhà nước, không chỉ
thông qua sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan nhà nước mà còn thông qua giám sát,
phản biện xã hội, hoạt động của các tổ chức
xã hội hoặc các hình thức dân chủ trực tiếp.
Dự án Luật Biểu tình là một trong những dự
án luật có thể áp dụng mạnh mẽ cơ chế kiểm
soát dân chủ đối với quyền lực nhà nước.
Thông qua biểu tình, người dân đồng thời
thực thi quyền tự do ngôn luận/tự do biểu đạt
và tự do hội họp, bày tỏ quan điểm của mình
trong một hành động tập thể (collective ac-
tion) một cách trực tiếp, công khai và mạnh
mẽ nhất đối với các chủ thể khác, đặc biệt là
Nhà nước. Theo nghĩa đó, biểu tình chính là
một hành động tập thể có mục đích, ở mức
độ nào đó có ý nghĩa kiểm soát quyền lực
nhà nước.
Thông thường, hoạt động biểu tình phát
đi tín hiệu về tâm tư, nguyện vọng thiết tha
của một bộ phận dân chúng gửi đến Nhà
nước và trở thành một kênh thông tin quan
trọng cho Nhà nước nắm bắt các vấn đề xã
hội bức xúc, các trạng thái tâm lý xã hội.
Biểu tình phản ánh trung thực và trực tiếp
quan điểm của một bộ phận dân chúng đối
với một hoặc một số quyết định/chính sách
nào đó đã được ban hành, đặc biệt là đối với
những quyết sách không hợp lòng dân. Đó
chính là một hình thức chế ngự sự lạm quyền
của các cơ quan nhà nước, đòi hỏi Nhà nước
phải nhạy bén thích ứng và xử lý, điều chỉnh
việc sử dụng quyền lực của mình, kiểm soát
tốt bộ máy của mình, để tháo các ngòi nổ bức
xúc xã hội. Kiểm soát dân chủ đối với quyền
lực nhà nước không chỉ thể hiện ở chỗ người
dân được quyền bày tỏ các quan điểm, suy
nghĩ của mình mà còn là đấu tranh thông qua
hoạt động biểu tình, thu hút sự chú ý và huy
động sự ủng hộ, làm cho các chủ thể khác
đáp ứng quyền lợi hoặc yêu cầu chính đáng
của mình. Các tiếp cận dựa trên nền tảng
kiểm soát quyền lực nhà nước chính là nâng
cao tính dân chủ trong đời sống xã hội, thể
hiện rõ hơn bản chất Nhà nước của ta là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, phát huy
mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại, cả ba cách tiếp cận trên hiện
nay đều đang phổ biến và đáng được lưu
tâm. Cách tiếp cận (i) thiên về QLNN và (ii)
thiên về quyền con người có lúc, có nơi được
thể hiện có sự xung khắc với nhau nhưng về
bản chất không nhất thiết loại trừ nhau. Sự
xung khắc chủ yếu là do một số ý kiến nhấn
mạnh quá mức một vế mà không chú ý đầy
đủ đến các yếu tố khác. Chúng tôi cho rằng,
để điều chỉnh quyền biểu tình bằng luật, Ban
soạn thảo và nhà làm luật cần tìm được giải
pháp dung hoà thực tế được cả ba phương
pháp trên, không loại trừ phương án nào.
Phương án có nền tảng dung hoà sẽ là xuất
phát điểm rõ ràng, dễ được chấp nhận để từ
đó xây dựng các nội dung quy phạm cụ thể
điều chỉnh các khía cạnh thủ tục khác nhau
liên quan đến quyền biểu tình. Tìm được
phương án nền tảng như vậy không phải dễ,
nhưng là khả thi, đòi hỏi trí tuệ và nỗ lực của
Ban soạn thảo và nhà làm luật.
2. Một số nội dung vướng mắc khi điều
chỉnh quyền biểu tình bằng luật
Khi xây dựng Luật Biểu tình để thi hành
Hiến pháp năm 2013, có một số vấn đề về
nội dung quy phạm điều chỉnh sẽ khiến Ban
soạn thảo phải cân nhắc rất kỹ. Cụ thể:
2.1. Quy định về đăng ký hay thông báo
khi biểu tình
Một trong những vấn đề quan trọng cốt
yếu của Luật Biểu tình là những trường hợp
hội họp hoà bình, biểu tình thì sẽ phải đăng
ký hay thông báo cho cơ quan nhà nước có
30 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
thẩm quyền như thế nào? Những trường hợp
hội họp hoà bình nào không cần sự điều
chỉnh của Luật Biểu tình? Luật này cũng cần
làm rõ những trường hợp biểu tình nào thuộc
tình trạng gây rối trật tự công cộng, bạo loạn,
bạo động... cấu thành tội hình sự và cần bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 2 Sắc luật số 101/SL-L-003 năm
1957 quy định cụ thể về những trường hợp
hội họp hoà bình không cần xin phép, không
cần đăng ký, thậm chí không cần thông báo:
- Các cuộc hội họp có tính chất gia đình,
giữa thân thuộc, bè bạn;
- Các buổi sinh hoạt của các hội hợp
pháp, tổ chức trong trụ sở của hội, các cuộc
hành lễ thường lệ của các tôn giáo tổ chức
trong những nơi thờ cúng;
- Các buổi sinh hoạt của các đoàn thể
trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, và các
cuộc hội họp công cộng do các đoàn thể này
tổ chức.
Điều 3 Sắc luật số 101/SL-L-003 năm
1957 quy định các cuộc hội họp công cộng
không thuộc phạm vi trên đều phải xin phép
trước Uỷ ban hành chính địa phương. Câu
hỏi được nhiều người tranh luận là đối với
những hoạt động biểu tình thông thường có
cần phải xin phép cơ quan chức năng, nếu cơ
quan chức năng đồng ý thì mới được tiến
hành?
Quan điểm truyền thống thể hiện trong
Nghị định số 38/2005 của Chính phủ là các
hoạt động hội họp hoà bình nói chung và
biểu tình đều phải đăng ký và xin phép trước,
nếu được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mới được tiến hành. Lý lẽ đặt ra
về yêu cầu phải đăng ký và được cấp phép
biểu tình là phục vụ mục đích QLNN là: (i)
nếu hoạt động biểu tình không được sự cho
phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thì đó là hoạt động bất hợp pháp, dù hoạt
động này mang ý nghĩa chính đáng như thế
nào. Ví dụ như hoạt động biểu tình dù với ý
nghĩa yêu nước như năm 2014 chống Trung
Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 tại Biển
Đông, nhưng vẫn là bất hợp pháp vì không
được sự cho phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. (ii) khi Nhà nước cấp phép cho
một hoạt động biểu tình, Nhà nước sẽ chủ
động chuẩn bị được những điều kiện vật chất
cần thiết để đảm bảo an ninh, an toàn cho
những người tham gia biểu tình, hướng dẫn
hoạt động này thực hiện đúng các quy định
của pháp luật, tránh cho biểu tình biến thái
thành bạo động hay bạo loạn, đối phó có hiệu
quả với các âm mưu gây rối hoặc hành động
gây mất ổn định an ninh chính trị.
Quan điểm này về cơ bản khác biệt với
quan điểm của trường phái dựa trên quyền
con người. Những người theo cách tiếp cận
quyền con người cho rằng, quyền biểu tình
là một quyền cơ bản mà lại phải xin cấp phép
của Nhà nước mới được thực hiện thì không
khác gì áp dụng cơ chế xin - cho, vẫn là tư
duy Nhà nước ban phát quyền, không phù
hợp với tinh thần và lời văn của Hiến pháp
năm 2013 cũng như luật nhân quyền quốc tế.
Trường phái này cũng viện dẫn thực tiễn của
nhiều nước trên thế giới như Anh, Đức, Mỹ...
biểu tình không cần phải xin cấp phép của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ cần
thông báo. Nội dung cần thông báo bao gồm
chi tiết về thời gian, địa điểm và tuyến đường
dự định, và cho biết tên, địa chỉ của người tổ
chức... Với các nội dung thông báo như vậy,
Nhà nước cũng đã có đủ điều kiện để thực
hiện các biện pháp cần thiết. Thời gian thông
báo trước có thể khác nhau. Ví dụ, Luật về
Trật tự công cộng năm 1986 của Anh quốc
quy định thông báo ít nhất là 6 ngày trước
khi tổ chức5. Tuy nhiên, Luật về Các tội
phạm nghiêm trọng có tổ chức và Cảnh sát
31NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
5 Luật về Trật tự công cộng năm 1986 của Vương quốc Anh.
năm 20056 lại chỉ quy định: các trường hợp
có lý do thích đáng thì khi biểu tình chỉ cần
thông báo cho cảnh sát trước 24 giờ. Điều
này tạo thuận lợi cho người dân trong việc
linh hoạt thông báo vì bản chất của việc
thông báo là giúp cơ quan QLNN duy trì và
bảo đảm trật tự công cộng. Thông báo 24 giờ
trước khi cuộc biểu tình diễn ra thì Nhà nước
vẫn có thể quản lý đồng thời người biểu tình
vẫn có thể bảo đảm lợi ích của mình. Luật
biểu tình của Đức7 quy định, chậm nhất là 48
giờ trước khi biểu tình diễn ra phải thông báo
(khai báo, đăng ký) cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Đó là sự hài hoà giữa lợi ích của
cơ quan QLNN và người thực thi quyền biểu
tình.
Những người theo trường phái tiếp cận
quyền con người cho rằng, khi luật hoá
quyền biểu tình, Nhà nước phải chủ động
chuẩn bị sẵn các điều kiện cần thiết để quản
lý tốt hoạt động biểu tình và có khả năng ứng
phó linh hoạt với các tình huống diễn biến,
không bị bất ngờ, chứ không để xảy ra tình
trạng đến khi người dân thông báo, hay đăng
ký mới tiến hành chuẩn bị. Quy định về việc
thông báo hay đăng ký đơn giản, không cần
cấp phép sẽ giúp Nhà nước giảm bớt gánh
nặng về quản lý (bộ máy, nhân sự), giảm
phiền hà về thủ tục xin phép, bảo đảm quyền
lợi của người dân tốt hơn.
Để xử lý thoả đáng các quan ngại về an
ninh chính trị của các cơ quan nhà nước đối
với hoạt động biểu tình, cần quy định cụ thể
các trường hợp đặc biệt nhằm ngăn chặn các
âm mưu chống phá của thế lực thù địch, phản
động bằng các quy định cấm hoặc hạn chế
biểu tình trong một số trường hợp nhất định.
2.2. Quy định cấm hoặc hạn chế biểu
tình trong một số trường hợp
Khi điều chỉnh quyền biểu tình bằng
luật, chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng các
trường hợp cấm hoặc hạn chế biểu tình. Hiến
pháp cũng như luật nhân quyền quốc tế cho
phép thực hiện các hạn chế này trong các
điều kiện vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn
và trật tự công cộng, bảo vệ sức khoẻ và đạo
đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của
người khác. Các biện pháp hạn chế hoặc
ngăn chặn cần được áp dụng khi biểu tình có
nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng và tài sản, gián đoạn nghiêm trọng đời
sống cộng đồng hoặc mục đích của những
người tổ chức là đe doạ người khác phải làm
một việc họ không có quyền làm, hoặc
không làm một việc mà họ có quyền được
làm. Đối với các trường hợp này, các lực
lượng chức năng được phép áp dụng các biện
pháp cần thiết để ngăn chặn hoặc hạn chế để
ngăn ngừa các thiệt hại có thể xảy ra đối với
cộng đồng và xã hội. Các lực lượng chức
năng cần giám sát chặt chẽ hoạt động biểu
tình để bảo đảm trật tự công cộng, nhắc nhở
người tham gia biểu tình chú ý đến hành
động của mình, không được vượt quá khuôn
khổ pháp luật. Trong trường hợp người biểu
tình vượt quá giới hạn cho phép, lực lượng
chức năng được áp dụng ngay các biện pháp
phòng ngừa hay hạn chế thực tế, để hạn chế
các hậu quả xấu mà các hoạt động liên quan
hoặc phát sinh từ biểu tình có thể mang lại.
Các biện pháp bảo đảm trật tự phải là những
hành lang an toàn cho người biểu tình do
Nhà nước đặt ra và duy trì để bảo vệ trật tự
chứ không nhằm hạn chế việc thực hiện
quyền của người dân.
32 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
6 Luật về Các tội phạm nghiêm trọng có tổ chức và Cảnh sát năm 2005 của Vương quốc Anh.
7 Điều 14 Luật về hội họp và biểu tình tuần hành (Luật biểu tình) của CHLB Đức.
Các biện pháp hạn chế có thể được áp
dụng chủ yếu là các biện pháp mang tính rào
cản kỹ thuật bao gồm: nơi các cuộc biểu tình
diễn ra hoặc không được diễn ra, khoảng thời
gian mà cuộc biểu tình có thể được tiến hành
hoặc không được tiến hành, số người có thể
tham gia, số lượng, lời văn và kích thước của
các biểu ngữ hay áp phích có thể được sử
dụng hoặc không được sử dụng, tiếng ồn tối
đa cho phép... Các Điều 5 và 6 của Nghị
định số 38/2005 của Chính phủ bước đầu đã
triển khai một số biện pháp cấm các hành vi
gây ảnh hưởng xấu theo hướng này.
2.3. Quy định về trách nhiệm tổ chức
hay tham gia biểu tình
Biểu tình là hoạt động tập thể nên thu hút
sự tham gia đông và người tham gia thuộc
nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.
Chính vì vậy, khi có vấn đề xảy ra, việc quy
trách nhiệm thường gặp khó khăn. Các cơ
quan chức năng phải xác định chủ thể chịu
trách nhiệm. Chủ thể chịu trách nhiệm trước
hết thường được quy cho người tổ chức.
Điều 4 Luật số 101 năm 1957 đã quy trách
nhiệm này cho nhà tổ chức: “Người tổ chức
cuộc hội họp phải chịu trách nhiệm về cuộc
hội họp”. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác
định trách nhiệm của người tổ chức không
phải dễ dàng. Nhiều cuộc biểu tình không rõ
ai là người tổ chức vì không có ai đứng ra
nhận trách nhiệm tổ chức. Hoặc khi biểu tình
vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, lỗi
thuộc về một số đối tượng tham gia biểu tình
chứ không phải nhà tổ chức thì việc xác định
đối tượng để truy cứu trách nhiệm hình sự
cũng cần phải quy định rõ. Trách nhiệm của
người tổ chức sẽ như thế nào trong những
trường hợp sự cố nằm ngoài tầm kiểm soát
và gây ra thiệt hại. Còn những người gây
thiệt hại hoặc vi phạm pháp luật phải chịu
trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự. Tuỳ
mức độ vi phạm mà cá nhân vi phạm có thể
bị xử lý bằng hình thức phạt tiền hay phạt tù
hoặc cả hai.
Điều 7 Luật số 101 quy trách nhiệm
trong một số trường hợp như sau: “Người
nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt
động trái pháp luật, chống lại chế độ, chống
lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ
dân tộc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta
với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến
tranh, âm mưu phá hoại sự nghiệp đấu tranh
cho hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ,
hành động có phương hại đến trật tự an ninh
chung, hoặc đến thuần phong mỹ tục, sẽ bị
truy tố trước toà án và xử phạt theo luật lệ
hiện hành, và cuộc hội họp sẽ bị cấm hoặc bị
giải tán”.
Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Xử
phạt vi phạm hành chính là những nền tảng
vững chắc để làm căn cứ xử lý những vi
phạm liên quan đến biểu tình.
Ngoài ra, đối với những đối tượng gây
cản trở hoặc phá hoại các cuộc biểu tình hợp
pháp cũng cần phải nhận các chế tài nghiêm
khắc, kết hợp cả các chế tài hành chính và
hình sự. Thêm vào đó là việc quy trách
nhiệm cho tập thể trong việc tổ chức biểu
tình hoặc trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Đây là vấn đề gây nhiều tranh luận liên quan
đến tội phạm về môi trường. Đối với Luật về
biểu tình, Ban soạn thảo cũng cần cân nhắc
kỹ trách nhiệm của tập thể khi xảy ra vi
phạm pháp luật liên quan đến biểu tình.
Đối với các cơ quan nhà nước, để thể
hiện tinh thần “kiểm soát quyền lực”, Luật
Biểu tình cũng cần phải quy định rõ ràng về
trách nhiệm của các cơ quan này, cũng như
cán bộ, công chức trong các trường hợp hạn
chế hoặc cấm biểu tình không đúng luật hoặc
thiếu trách nhiệm trong việc đảm bảo thực
hiện quyền biểu tình của người dân. Quy định
những trách nhiệm cụ thể này của cơ quan
nhà nước trong Luật Biểu tình sẽ giúp ích cho
quá trình kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan
hành pháp, lập pháp và tư pháp. Quy định
trách nhiệm cần đi kèm với các chế tài xử
phạt nghiêm minh để thể hiện tính giáo dục,
răn đe và phòng ngừa các hành vi xâm phạm
đến quyền tự do, dân chủ của công dân n
33NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 02+03 (306+307) T1+T2/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_phap_tiep_can_va_mot_so_vuong_mac_ve_noi_dung_khi_die.pdf