Chính sách giá nước
Ở các nước phát triển cũng như các nước đang
phát triển, có sự khác nhau liên quan đến các
phương pháp tính giá nước. Việc định giá nước
có thể bao gồm các mục tiêu khác nhau như thu
hồi chi phí (những người đã được hưởng lợi từ
việc đầu tư vào thủy lợi và ai phải trả tiền), tài
trợ cho cơ quan tưới tiêu, hoặc giảm lãng phí
nước. Chính trị cũng góp phần quyết định vào
giá nước. Hơn nữa, nhiều quốc gia thường thiếu
kinh nghiệm và các thể chế thích hợp để định
giá nước tưới tiêu.Nước (đặc biệt là nước được
sử dụng trong tưới tiêu) là một nguồn tài
nguyên thiên nhiên phức tạp, một nguồn tài
nguyên kinh tế phức tạp và đồng thời là một
nguồn tài nguyên chính trị phức tạp. Hơn nữa,
trong khi việc định giá nước đối với nước cho các
dịch vụ, sinh hoạt và công nghiệp rất dễ dàng, thì
đối với nước cho sản xuất nông nghiệp thì đặc biệt
khó do khó đo đạc lượng nước sử dụng, cũng như
lượng tổn thất. Có một số phương pháp định giá
khác nhau đối với nước tưới và chi phí thực hiện
đã được nghiên cứu. Chúng bao gồm giá dựa trên
diện tích tưới tiêu, giá dung tích theo lượng nước
được sử dụng hoặc tiêu thụ, giá đầu ra hoặc đầu
vào, giá cố định và giá biến đổi và thị trường
nước. Các điều kiện cần thiết và đầy đủ cho vận
hành theo cơ chế thị trường trong hầu hết các
trường hợp chưa được đưa ra. Giá biến đổi thường
được đề xuất cho hệ thống máy bơm sử dụng
điện. Phương pháp định giá nước rõ rệt nhất thông
qua hiệu quả sử dụng nước trên các mô hình canh
tác. Các phương pháp thường khác nhau về khối
lượng và chi phí hành chính cần thiết trong quá
trình triển khai. Phương pháp đảm bảo hiệu quả
kinh tế nhất sẽ phụ thuộc vào điều kiện cơ sở hạ
tầng bao gồm hệ thống đầu mối, vận chuyển, phân
phối nước và các thể chế [12].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp xác định năng suất nước tưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 1
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH NĂNG SUẤT NƯỚC TƯỚI
Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Xuân Lâm, Nguyễn Thiện Sơn
Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường
Tóm tắt: Nông nghiệp là ngành sử dụng nước nhiều nhất, nhưng cũng là ngành có hiệu quả sử
dụng nước rất thấp. Từ đó, việc nghiên cứu năng suất nước tướitrong bối cảnh ngày càng căng
thẳng về nguồn nước sẽgóp phần giải quyết bài toán phát triển ngành nông nghiệp bền vững và
hiệu quả. Bài báo tập trung đánh giá các phương pháp xác định năng suất nước tưới; các yếu tố
ảnh hưởng đến kết quả và đề xuất các biện pháp cải thiện năng suất nước tưới.
Từ khóa: Hiệu quả sử dụng nước, năng suất nước, nông nghiệp có tưới, công nghệ tưới tiết kiệm
nước, năng suất nước tưới.
Abstract: Agriculture is the largest user of water, but it also has very low water use efficiency. As
a result, the research on irrigation water productivity in the context of increasing water conflicts
will contribute to solving the problem of sustainable and efficient agriculture development.
Thepaper focuses on the existing methods, formulae for determining the water productivity; the
factors that affecting to the results and to the calculating and finally propose the measures to
improve irrigation water productivity.
Keywords: Water use efficiency, water productivity, irrigated agriculture, water-saving
technology, irrigation water productivity.
1. GIỚI THIỆU*
Hiện nay, người ta thống kê được rằng nông
nghiệp mà đặc biệt là lĩnh vực sản xuất lương
thực, thực phẩm sử dụng tới 70% tổng lượng
nước được sử dụng trên toàn cầu [1]. Lượng
nước sử dụng hàng năm cho sản xuất nông
nghiệp trên toàn quốcluôn chiếm tỷ trọng rất
lớn trong tổng lượng nước ngọt tiêu thụ. Cụ thể,
lượng nước cung cấp cho sản xuất nông
nghiệp,chủ yếu cho tưới lúa là khoảng 93 tỷ m3
(chiếm 81%), công nghiệp tiêu thụ khoảng 17,3
tỷ m3 (chiếm 15%), dịch vụ và sinh hoạt tiêu thụ
khoảng 5,09 tỷ m3 (chiếm 4%). Dự báo đến năm
2030,lượng nước sử dụng cho sản xuất nông
nghiệp sẽ có xu hướng gia tănghàng năm
khoảng 5%,trong bối cảnhthiếu hụt nguồn nước
tưới và ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng
nghiêm trọngđã dẫn tới tình trạng hạn hán ngày
càng diễn ra trên diệnrộng [2]. Do đó, yêu cầu
Ngày nhận bài: 03/9/2018
Ngày thông qua phản biện: 27/9/2018
cấp thiết hiện nay là phải nâng cao hơn nữa hiệu
quả sử dụng nướccho sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là cho canh tác lúa, đảm bảo an ninh lương
thực.Những hình dưới đây là kết quả thống kê
và dự báo của Ximing Cai và cộng sự, 2003 về
năng suất nước tưới lúa, sản lượng lúa và lượng
nước tưới lúa theo thời gian và tại một số khu
vực trên thế giới [3]:
Hình 1. Năng suất nước tưới lúa trên thế giới
Ngày duyệt đăng: 15/11/2018
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 2
Hình 2: năng suất nước tưới lúa một số khu
vực năm 1995 và giai đoạn 2012-2025
Việc tăng năng suất nước tưới có thể đạt được
theo 2 hướng tiếp cận: (i) nâng cao hiệu quả sử
dụng các đầu vào (giống cây trồng, đất đai,
phân bón, lao động, nước, vốn, năng lượng, và
các yếu tố đầu vào khác) trong sản xuất và (ii)
tối đa hóa giá trị sản lượng đầu ra (thường được
quy đổi thành tiền) [4]. Bài báo được chia thành
hai phần chính: Phần đầu tiên đề cậptớinăng
suất nước tưới và các phương pháp xác định.
Phần thứ hai phân tích các giải pháp tăng năng
suất nước tưới và hiệu quả kinh tế của việc sử
dụng nước tưới.
2. NĂNG SUẤT NƯỚC TƯỚI VÀ CÁC
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
2.1. Hiệu quả sử dụng nướctưới
Hiệu quả sử dụng nước, theo định nghĩa của
FAO, là khái niệm liên quan đến hiệu quả sử
dụng nước của các đối tượng sử dụng nước khác
nhau (trồng trọt, thủy sản, cấp nước sinh
hoạt,) trong hệ thống thủy lợi [5].Hiệu quả sử
dụng nước thường tínhbằng giá trị phần trăm
đối với từng đối tượng sử dụng nước (là tỷ số
giữa lượng nước được sử dụng hiệu quả (EWU)
so với lượng nước cấp thực tế (AWW)):
WUE =
EWU
AWW
.100 (%)
Chẳng hạn, trong 1 vụ sản xuất, nếu công trình
đầu mối của hệ thống thủy lợi cấp 10.000 m3
nước tưới, tuy nhiên, tại mặt ruộng, thực tế chỉ
còn 8.000 m3nước thì hiệu quả sử dụng nước
của hệ thống thủy lợi đó đối với trồng trọt là
80%, đây được gọi là hiệu quả sử dụng nước
tưới, là một trường hợp đặc biệt trong khái niệm
hiệu quả sử dụng nước.Theo đó, để nâng cao
hiệu quả sử dụng nước tưới thì phải tìm cách
giảm lượng tổn thấtdọc đường (thấm, rò rỉ), tổn
thất cục bộ, và lượng bốc thoát hơi nước vô ích
của cả hệ thốngtrong quá trình cấp nước tưới.
2.2. Năng suất nước tưới
Năng suất nước (WP), theo định nghĩa của hầu
hết các nhà nghiên cứu, là khái niệm liên quan
đến hiệu quả kinh tế, dân sinh của việc sử dụng
nước cho các đối tượng sản xuất (nông nghiệp,
công nghiệp, cấp nước sinh hoạt,) trong hệ
thống thủy lợi [6]. Năng suất nước của từng đối
tượng sử dụng nước phải được quy về cùng đơn
vị:
WP = ô ệ + ô ệ
+ ấ ướ ạ + ⋯
Năng suất nước tưới (IWP),là một trường hợp
đặc biệt trong khái niệm năng suất nướcliên
quan đến hiệu quả kinh tế, dân sinh của việc sử
dụng nướccho sản xuất nông nghiệp trong hệ
thống thủy lợi [7].Năng suất nước tưới thường
được tính bằng tỷ lệ giữa khối lượng sản phẩm
nông nghiệp thu được CY (kg/ha) hoặc giá trị
sản phẩm (đ/ha)và lượng nước tưới AW
(m3/ha):
IWP =
CY
AW
(kg m ⁄ hoặc đ m ⁄ )
Theo công thức trên, nếu khối lượng sản phẩm
thu được là 4.000 kg/ha, và lượng nước tưới là
8.000 m3/ha, thì năng suất nước tưới sẽ là 0,5
kg/m3, đây được gọi là năng suất nước tưới
trung bình. Tuy nhiên, giá trị năng suất nước
tưới này vẫn chưa đủ cơ sở để kết luận liệu
lượng nước tưới 8.000 m3/ha đã là mức tối ưu
hay chưa? Để tìm ra mức tối ưu này, người ta
lập hàm quan hệ giữa khối lượng sản phẩm thu
được và lượng nước tưới, từ đó, tìm ra mức
năng suất nước tưới cận biênWP (là khối
lượng sản phẩmthu được tăng thêm tối đa do sử
dụng thêm một đơn vị lượng nước tưới) [8].
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 3
Năng suất nước tưới cận biên này được định
nghĩa như sau:
IWP = max (
) (kg/m )
Năng suất nước tưới cận biênnày khi nhân với
giá sản phẩm thu được thì thu được giá trị nước
tưới cận biêntương ứng VIWP (là giá tối đa sản
phẩm thu được trên một đơn vị lượng nước
tưới):
VIWP = p. max (
∂CY
∂AW
) (đ/m )
Sự khác nhau cơ bản giữa năng suất nước tưới
với hiệu quả sử dụng nước tưới là hiệu quả sử
dụng nước tưới chỉ xét đến khía cạnh kỹ thuật
mà chưa đề cập tới sự khác nhau về giá trị kinh
tế đạt được từ những loại hình canh tác nông
nghiệp khác nhau. Việc tăng năng suất nước
tưới có thể không đồng nghĩa với việc tăng hiệu
quả sử dụng nước tưới.
2.3. Giá trị nước tưới cận biên
Để tìm ra giá trị nước tưới cận biên, English,
1990đã thiết lập mối quan hệ giữa giá trị sản
phẩm thu được và chi phí nước tướiứng với
từng lượng nước tưới[13], [14] thể hiện như
hình sau:
Hình 3:Mối quan hệ giữa giá trị sản phẩm hu
được và chi phí ứng với từng lượng nước tưới
Từ hình trên, ta thấy, giá trị sản phẩm thu
được(VIWP) và lượng nước tưới (AW)có mối
quan hệ là một đường cong: VIWP = +
. (AW) − . (AW
), trong khi giữa chi phí
và lượng nước tưới là quan hệ tuyến tính:C =
+ . (AW). Qua đó, giá trị sản phẩm thu
được tăng dần theo từng lượng nước tưới và đạt
giá trị tối đa tại lượng nước tưới AW =
2 ⁄ , rồi giảm dần dù tăng thêm lượng nước
tưới chủ yếu là do chi phí cấp nước tưới tăng
lên. Trong khi đó, chi phí cấp nước tưới luôn
tăng dần theo mức tăng lượng nước tưới. Do đó,
lợi nhuận thu được lớn nhất lại không phải tại
lượng nước tưới AW mà tại lượng nước tưới
AW = ( − ) 2 ⁄ , còn lợi nhuận thu được
ứng với lượng nước tưới AW chỉ tương đương
tại lượng nước tưới AW = ( − 2 ) 2 ⁄ .
Tuy nhiên, trong thực tế, để tìm ra các mối quan
hệ này là không dễ dàng vì đòi hỏi phải bố trí
thí nghiệm theo địa điểm và thời gian cụ thể
cũng như cần có các công cụ đo đạc vô cùng
chính xác.
2.4. Một số chỉ số đánh giá hiệu quả tưới áp
dụng tại Việt Nam
Tại Việt Nam, ngày 30 tháng 09 năm 2013, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban
hành quyết định số 2212/QĐ-BNN-TCTL về
việc Ban hành Bộ chỉ số đánh giá quản lý khai
thác hệ thống công trình thủy lợi, trong đó quy
định chỉ số đánh giá hiệu quả tưới như sau:
- Mức tưới (N1): là chỉ số đánh giá hiệu quả
lượng nước tưới tại đầu mối được sử
dụng TS (m
3) cho một đơn vị diện tích gieo
trồng TS (ha):
N =
TS
TS
(m /ha)
Trong đó, chỉ số N1 càng thấp chứng tỏ hệ
thống thủy lợi càng hoạt động hiệu quả vì với
cùng một lượng nước tại đầu mối mà hệ thống
có thể cung cấp cho nhiều diện tích gieo trồng
hơn.
- Mức sử dụng nước mặt ruộng (N2): là chỉ số
đánh giá hiệu quả lượng nước tưới tại mặt ruộng
được sử dụng TS (m
3) cho một đơn vị diện
tích gieo trồng TS (ha):
N =
TS
TS
(m /ha)
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 4
Tương tự chỉ số N1, chỉ số N2càng thấp chứng
tỏ hiệu quả quản lý nước mặt ruộng vì với cùng
một lượng nước tại mặt ruộng mà có thể cung
cấp cho nhiều diện tích gieo trồng hơn.
- Hiệu quả sử dụng nước cho nông nghiệp (N3):
là chỉ số đánh giá hiệu quả kinh tế về giá trị sản
phẩm nông nghiệp trồng trọt TS (đồng) trên
một đơn vị nước cấpTS (m
3):
N =
TS
TS
(đồng/m )
Chỉ số N3càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh tế
trong việc sử dụng nước vì với cùng một lượng
nước cấpcho sản xuất nông nghiệp mà có thể
mang lại nhiều tiền hơn.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có hướng dẫn áp dụng
các chỉ số trên để đánh giá công tác quản lý khai
thác hệ thống công trình thủy lợi trên toàn quốc.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
NĂNG SUẤT NƯỚC TƯỚI
Nói chung, khái niệm năng suất nước tưới
thường được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả
của việc sử dụng nước, trong đó tập trung vào
lợi ích kinh tế trong việc sử dụng nước tưới,
năng suất của cây trồng, hệ thống tưới đối với
khu vực canh tácnhất định[9]. Năng suất nước
tưới cũng phụ thuộc vào các đặc tính của nông
dân như động lực canh tác, kỹ năng và trình độ
kiến thức của họ. Ngoài ra, năng suất nước còn
phụ thuộc vào trình độ quản lý của đơn vịcấp
nước, loại công nghệ tưới được sử dụng, cây
trồng và giống được sử dụng, và điều kiện đất
đai, khí hậu của khu vực canh tác. Về khía cạnh
kinh tế, tăng năng suất nước tưới có nghĩa là
tăng mức lợi nhuận thu được, tức là tối ưu hóa
sử dụng tài nguyên nước, đặc biệt đối với những
khu vực khan hiếm nguồn nước tưới. Dưới đây
là một số giải pháp nâng cao năng suất nước
tưới.
3.1. Tiết kiệm nước tướilúa bằng công nghệ
canh tác SRI
Lúa gạo là nguồn lương thực chủ yếu cho một
nửa dân số trên thế giới và còn là nguồn tạo
công ăn việc làm và thu nhập lớn nhất cho
người dân nông thôn. Tuy nhiên hoạt động sản
xuất lúa gạo cũng có nhiều thách thức. Những
tập quán canh tác hiện nay thường gây lãng phí
các nguồn tài nguyên ngày càng trở nên khan
hiếm như nước - mỗi năm sản xuất lúa gạo tiêu
tốn đến 1/3 tổng lượng nước ngọt tiêu thụ trên
toàn thế giới. Những cánh đồng đầy nước quanh
năm được bón nhiều phân hóa học góp phần
làm tăng khí thải nhà kính, gây ra hiện tượng
trái đất nóng lên. Việc lạm dụng phân hóa học,
và các chất bảo vệ thực vật dẫn đến việc ô
nhiễm đất và nước. Hơn nữa, trồng lúa mất rất
nhiều công lao động trong đó người phụ nữ phải
gánh vác nhiều công việc đồng áng cùng với các
công việc nội trợ, nuôi dạy con cái. Hệ thống
thâm canh lúa cải tiến (SRI) được phát triển vào
đầu những năm 1990 ở Madagascar và được
xem là một công nghệ nông nghiệp bền vững có
chi phí đầu vào thấp (LEISA). Với công nghệ
SRI, người nông dân có thể sản xuất ra nhiềulúa
gạo hơn trong khi tiết kiệm đượcnước, hóa chất,
giống và mất ít cônglao động hơn.Hệ thống SRI
đã được chứng minh là giúp cải thiện thu nhập,
đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời giảm
thiểu các tác động tiêu cực đối với môi trường
và tăng cường khả năng thích ứng của nông dân
với biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi
trường. Công nghệ SRI này liên quan đến kỹ
thuật gieo mạ khô, cấy cây con 20 ngày tuổi với
mỗi khóm 1 cây, khoảng cách giữa các cây ít
nhất 20x20 cm, và kiểm soát mực nước, cỏ dại
thường xuyên để cho phép sục khí tầng rễ trong
quá trình sinh trưởng của cây trồng. Do công
nghệ SRI không chỉ mang lại năng suất lúa cao
hơn mà còn là phương pháp tưới tiết kiệm nước,
lợi ích về năng suất nước tướitại mặt ruộng có
thể rất cao. Tại Việt Nam, thực tế đã chứng
minh rằng người nông dân canh tác bằng công
nghệ SRI có hiệu quả vượt trội so với phương
pháp canh tác truyền thống. Lúa khỏe,
ruộngthông thoáng, ít sâu bệnh. Tiền lãi tăng
trung bình trên2 triệu đồng/ha, giá thành/kg thóc
giảm từ 342 đồng đến520 đồng, và còn tiết kiệm
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 5
được khoảng 1/3 lượng nước tưới so với phương
pháp canh tác truyền thống [10].
Như vậy giải pháp này giúp tiết kiệm nước và
tăng năng suất dẫn đến tăng năng suất nước tưới.
3.2. Cải tạo giống
Việc phát triển giống cây trồng chịu hạn và cây
trồng sử dụng nước hiệu quả, cải tiến hệ thống
tưới tiêu và các sản phẩm bảo vệ thực vật là các
biện pháp để thực hiệntiết kiệm nước. Theo báo
cáo năm 2014 của Viện Nghiên Cứu Chính
Sách Lương Thực Quốc Tế (IFPRI), cây trồng
chịu khô hạn đã góp phần tăng sản lượng thêm
15-20% tại các khu vực hạn hán nặng như Mỹ,
Trung Quốc, Đông Phi. Cây lúa nước, loại cây
tiêu thụ nhiều nước hơn hẳn các cây lương thực
khác, cần tới 2.500 lít nước để sản xuất ra 1 kg
gạo cũng là một mục tiêu cải thiện giống trong
sử dụng nước hiệu quả. Việc phát triển các
giống lúa mới như các giống lúa ngắn hạn và
giống lai giúp giảm thời gian sinh trưởng từ 5
tháng xuống còn 3 tháng rưỡicũng là một trong
các giải pháp tiết kiệm nước chính. Ví dụ, tại
Trung Quốc, giống lúa mới sử dụng 1.750 lít
nước so với 3.500 lít nước tại Ấn Độ. Biến đổi
gen có khả năng cải thiện việc sử dụng nước
hiệu quả của lúa nước tới 30-40% [11].
Như vậy giải pháp này giúprút ngắn thời gian
canh tác, tăng khả năng chống chịu khô hạn của
cây trồng mà không làm giảm năng suất dẫn đến
tăng năng suất nước tưới.
3.3. Chính sách giá nước
Ở các nước phát triển cũng như các nước đang
phát triển, có sự khác nhau liên quan đến các
phương pháp tính giá nước. Việc định giá nước
có thể bao gồm các mục tiêu khác nhau như thu
hồi chi phí (những người đã được hưởng lợi từ
việc đầu tư vào thủy lợi và ai phải trả tiền), tài
trợ cho cơ quan tưới tiêu, hoặc giảm lãng phí
nước. Chính trị cũng góp phần quyết định vào
giá nước. Hơn nữa, nhiều quốc gia thường thiếu
kinh nghiệm và các thể chế thích hợp để định
giá nước tưới tiêu.Nước (đặc biệt là nước được
sử dụng trong tưới tiêu) là một nguồn tài
nguyên thiên nhiên phức tạp, một nguồn tài
nguyên kinh tế phức tạp và đồng thời là một
nguồn tài nguyên chính trị phức tạp. Hơn nữa,
trong khi việc định giá nước đối với nước cho các
dịch vụ, sinh hoạt và công nghiệp rất dễ dàng, thì
đối với nước cho sản xuất nông nghiệp thì đặc biệt
khó do khó đo đạc lượng nước sử dụng, cũng như
lượng tổn thất. Có một số phương pháp định giá
khác nhau đối với nước tưới và chi phí thực hiện
đã được nghiên cứu. Chúng bao gồm giá dựa trên
diện tích tưới tiêu, giá dung tích theo lượng nước
được sử dụng hoặc tiêu thụ, giá đầu ra hoặc đầu
vào, giá cố định và giá biến đổi và thị trường
nước. Các điều kiện cần thiết và đầy đủ cho vận
hành theo cơ chế thị trường trong hầu hết các
trường hợp chưa được đưa ra. Giá biến đổi thường
được đề xuất cho hệ thống máy bơm sử dụng
điện. Phương pháp định giá nước rõ rệt nhất thông
qua hiệu quả sử dụng nước trên các mô hình canh
tác. Các phương pháp thường khác nhau về khối
lượng và chi phí hành chính cần thiết trong quá
trình triển khai. Phương pháp đảm bảo hiệu quả
kinh tế nhất sẽ phụ thuộc vào điều kiện cơ sở hạ
tầng bao gồm hệ thống đầu mối, vận chuyển, phân
phối nước và các thể chế [12].
4. KẾT LUẬN
Bài báo đã góp phần làm rõ các khái niệm về
hiệu quả sử dụng nước tưới và năng suất
nướctưới. Hiệu quả sử dụng nước tưới được xác
định bằng tỷ lệ lượng nước tưới với lượng nước
cung cấp trong khi năng suất nước tưới là tỷ lệ
giữa sản lượng cây trồng thu được với lượng
nước tưới.Bài báo cũng làm rõ các mối quan hệ
giữa lợi ích về mặt kinh tế đối với lượng nước
tưới và chỉ ra rằng, việc tăng sản lượng cây
trồng có thể không đồng nghĩa với việc tăng
năng suất nước tướivề mặt kinh tế. Không
những thế, bài báo còn nêu ra một số giải pháp
nhằm góp phần tăng năng suất nước tưới bao
gồmgiải pháp áp dụng công nghệ thâm canh lúa
cải tiếnnhờ giúp tiết kiệm lượng nước tưới và
phù hợp với điều kiện canh tác tại Việt Nam.
Do vậy,để đảm bảo hiệu quả sử dụng nước cao
nhất thì các quyết định về phân bổ nguồn nước
giữa các ngành cũng như về lựa chọn loại cây
trồng trong sản xuất nông nghiệp của người
nông dân phải được dựa trên những đánh giá
toàn diện về lợi ích kinh tế và xã hội. Điều này
sẽ giúpthúc đẩy hiệu quả quản lý tài nguyên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 6
nước để đáp ứng các mục tiêu như đảm bảo an
ninh lương thực vàphát triển bền vững trong
tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Enrique Playa´n and Luciano Mateos,Modernization and optimization of irrigation systems
to increase water productivity,Agricultural Water Management, 2006, No. 80, pp. 100-116.
[2] Trần Văn Đạt,Kết quả nghiên cứu năng suất nước và mô hình quản lý vận hành tối ưu hệ
thống tưới lúa. Tạp chí khoa học và công nghệ thủy lợi số 24 - 2014, tr. 93-101.
[3] Ximing Cai et al., World Water Productivity: CurrentSituation and Future Options,CAB
International 2003, pp. 163-178.
[4] Susanne M. Scheierling et al., How to Assess Agricultural Water Productivity?Policy
Research Working Paper, The World Bank, No.6982
[5] Water UseEfficiency?Emerging practices from Agricultural Water Management in Africa
and the Near East, The Food and Agriculture Organization (FAO), August 28th, 2017.
[6] Frank A. Ward et al., The economic value of water in agriculture: concepts andpolicy
applications,Water Policy 4 (September 20th,2002), pp. 423-446.
[7] Simon Cook et al., Agricultural Water Productivity:Issues, Concepts and
Approaches,Challenge Program on Water & Food, Basin Focal Project Working Paper,2006.
[8] Dennis Wichelns, Do Estimates of Water Productivity Enhance Understandingof Farm-
Level Water Management?Water 2014, No. 6, pp. 778-795.
[9] Bharat Sharma et al., Water use effciency in agriculture: Measurement, current situationand
trends,Managing water and fertilizer for sustainable agricultural intensifcation, June 01st,
2017,pp.39-64.
[10] Ngô Tiến Dũng và cộng sự, Hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI Góp phần đảm bảo an ninh
lương thực, tăng cường khả năng ứng phó của nông dân với biến đối khí hậu và tính bền
vững của môi trường,giấy phép xuất bản số: 403-2011/CXB/45-34/LĐ.
[11] Robert G. Evans et al., Methods and technologies to improve efficiency of water use,Water
Resources Research,VOL. 44, W00E04, July29th, 2008
[12] Jacob W. Kijne, Randolph Barker and David Molden,Water Productivity in Agriculture:
Limits and Opportunities for Improvement,Comprehensive assessment of water
management inagriculture series 1, ISBN 0 85199 669 8, Wallingford, UK: CAB
International,2003.
[13] English, M.J. 1990, Deficit irrigation I: Analytical framework,American Society of Civil
Engineers 116 (IR3): pp. 399-412.
[14] English, M.J., Musick, J.T. and Murty, V.V.N. 1990,Deficit irrigation, In Management of
Farm Irrigation Systems (Eds. G.J. Hoffman and K.H Soloman), pp. 631-663. St. Joseph,
American Society of Agricultural Engineers, MI (PDF) Improving Water Productivity in
Semi-arid Environments through Regulated Deficit Irrigation. Available from:
https://www.researchgate.net/publication/312605138_Improving_Water_Productivity_in_
Semi-arid_Environments_through_Regulated_Deficit_Irrigation [accessed Sep 14 2018].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phuong_phap_xac_dinh_nang_suat_nuoc_tuoi.pdf