Xây dựng và điều chỉnh, bổ xung các chính
sách y tế
Trên thực tế, hiện tợng quá tải trong các
bệnh viện công là sự biểu hiện ra ngoài của sự
cha phù hợp của nhiều chính sách y tế cũng
nh tổ chức hệ thống y tế liên quan đến khám
chữa bệnh. Để có thể từng bớc giảm tải ở các
bệnh viện, cần có một biện pháp tổng thể bao
gồm đổi mới cơ chế tài chính tạo nguồn thu
chính đáng cho các bệnh viện có thể hoạt động
tốt qua đó điều chỉnh các tác động không mong
muốn của chính sách tự chủ bệnh viện. Ban
hành các chính sách đãi ngộ xứng đáng cho
nhân viên y tế, chính sách thu hút và giữ chân
cán bộ y tế ở cơ sở là công việc cần làm ngay.
Cần dành một ngân sách phù hợp cho công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân, trong đó tỉ lệ dành
cho y tếcơ sở phải đợc tính toán hợp lý và cuối
cùng để hạn chế quá tải, hay nói rộng ra là hạn
chế việc ngời dân phải tìm đến cơ sở khám
chữa bệnh, Chính phủ cần xác định trách nhiệm
cụ thể của lãnh đạo địa phơng trong chăm sóc
sức khỏe của cộng đồng mình phụ trách và có cơ
chếkiểm soát để cả xã hội đều tham gia tích cực
vào công tác bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá tải và dưới tải trong bệnh viện công lập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế S
- xã hội. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm đáng kể, công
tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân từng
bước được đổi mới, nhiều chỉ số cơ bản về sức
khoẻ của người Việt Nam tốt hơn các nước có
cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Từ
2011, Việt Nam đã chính thức ra khỏi danh sách
các nước nghèo, nhưng cùng với nguy cơ rơi vào
"bẫy thu nhập trung bình", việc chuyển đổi từ cơ
chế bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra cho
nước ta những thách thức mới. Trong những
năm gần đây, trên hệ thống bệnh viện công lập,
nhất là ở các bệnh viện tại các thành phố lớn và
các bệnh viện tuyến trung ương đã xuất hiện
hiện tượng bệnh nhân đến khám và chữa bệnh
đông quá mức mà ta quen gọi là quá tải bệnh
viện... Mặc dù ngành y tế đã nỗ lực đưa ra các
giải pháp và mô hình khắc phục tình trạng quá
tải nhưng cho tới nay chưa có một giải pháp nào
có tính tổng thể và hiệu quả để chấm dứt tình
trạng này. Một câu hỏi được đặt ra là bản chất
của hiện tượng quá tải là gì, yếu tố nào liên quan
đến việc bệnh nhân tập trung đông quá mức ở
các bệnh viện công lập? Bài viết này được dựa
trên phân tích các nghiên cứu của các nước trên
thế giới về vấn đề này, đặc biệt là dựa trên kết
quả hai đề tài nghiên cứu cấp Bộ gần đây của
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế về thực
trạng quá tải cũng như việc thực hiện Nghị định
43 tại các bệnh viện công lập trong thời gian
qua.
1. Đông bệnh nhân quá mức tại bệnh viện
công- nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, chưa thấy có một định nghĩa
QUá TảI Và DƯớI TảI TRONG BệNH VIệN CÔNG LậP
1
GS.TS. Lê Quang Cường ,
2
TS. Khương Anh Tuấn
chính xác về tình trạng quá tải bệnh viện, nhưng
khái niệm “đông bệnh nhân quá mức”
(overcrowding) đã được nhiều nghiên cứu đề
cập đến[1]. Chỉ số thường được sử dụng để đánh
giá hiện tượng đông bệnh nhân là tỉ lệ sử dụng
giường bệnh giường ở trong bệnh phòng. Khi tỉ
lệ này quá cao sẽ buộc người bệnh phải chờ đợi
lâu mới được sử dụng các dịch vụ y tế[2], [3],
[4]. Hiện nay, có hai khu vực có thể xảy ra hiện
tượng quá đông bệnh nhân đó là phòng khám và
khoa điều trị nội trú. Tại khu vực điều trị nội trú,
các nguyên nhân được đề cập đến nhiều hơn cả
là công tác quản lý, tổ chức tiếp nhận bệnh nhân,
sử dụng hợp lý nguồn nhân lực và quản lý các
tiêu chuẩn ra viện. Tại khu vực phòng khám,
tính hiệu quả của mạng lưới phân tuyến kỹ thuật
có tác động quan trọng vào lưu lượng người
bệnh đến khám hàng ngày[5]. Với tình trạng
quá tải trong khu vực nội trú, nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra có mối liên quan giữa tỉ lệ sử dụng
giường bệnh cao với nguy cơ tăng tỉ lệ các tai
biến, sai sót chuyên môn, tỉ lệ tử vong, tỉ lệ
nhiễm trùng trong bệnh viện[2], [3], [6], [7].
Theo Virtanen và cộng sự (2008), việc tăng tỉ lệ
sử dụng giường bệnh có thể làm tăng 5,6% nguy
cơ tử vong bệnh viện[9]. Một nghiên cứu khác
tại Australia đã đưa ra nhiều bằng chứng cho
thấy an toàn bệnh nhân và chất lượng dịch vụ sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu tỉ lệ sử dụng
giường vượt quá 85%[9]. Tình trạng quá đông
bệnh nhân không những ảnh hưởng đến chất
lượng điều trị người bệnh mà còn ảnh hưởng tới
1
2
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế.
Trưởng khoa Nghiên cứu Quản lý dịch vụ y tế, Viện CL&CSYT.
46
Diễn đàn chính sách y tế
sức khỏe của cả nhân viên y tế. Các nghiên cứu
cho thấy nhân viên y tế làm việc liên tục 6 tháng
trong tình trạng tỉ lệ sử dụng giường vượt 10%
so với khuyến cáo sẽ có nguy cơ làm tăng tỉ lệ
trầm cảm của nhân viên bệnh viện (Virtanen,
2010). Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ sử dụng
giường bao gồm số giường sẵn có, ngày điều trị
trung bình, cơ sở hạ tầng (phòng mổ, trang thiết
bị...) và đặc điểm của bệnh nhân (bệnh nhân lớn
tuổi thường có xu hướng muốn nằm lâu hơn
trong bệnh viện; bệnh nhân nghèo thường ốm
nặng hơn và cần chăm sóc y tế hơn v.v..) [3]. Uy
tín và vị trí địa lý của bệnh viện cũng ảnh hưởng
đáng kể đến số lượng bệnh nhân đến điều trị và
một yếu tố không kém phần quan trọng làm tăng
lượt người đến khám bệnh đó là nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân ngày càng cao. Cuối
cùng, tỉ lệ bệnh nhân đến khám đông tại phòng
khám còn liên quan đến cả sự thay đổi thời tiết.
Healther và cộng sự (1997) nhận thấy bệnh
nhân hay tập trung đông ở khu vực khám tư vấn,
vào các ngày từ thứ Hai đến thứ Năm trong tuần
và vào mùa Đông[3].
Để việc sử dụng giường bệnh hiệu quả, đảm
bảo được chất lượng chuyên môn nhiều tác giả
trên thế giới khuyến cáo tỉ lệ sử dụng giường
không được quá 85%. Thậm chí có nước đã đưa
mức tỉ lệ sử dụng giường <85% là tiêu chuẩn bắt
buộc cho các bệnh viện với những biện pháp
kiểm soát nghiêm ngặt. Tuy đã có các nghiên
cứu về tăng mật độ bệnh nhân tại khu vực khám
chữa bệnh tại nhiều nước trên thế giới, nhưng
chưa thấy có nghiên cứu nào đề cập tới tình
trạng quá tải bệnh viện với hình thái đặc biệt, đa
dạng ở tất cả các các tuyến như thực trạng hiện
nay tại Việt Nam. Trên thực tế, do điều kiện kinh
tế - xã hội, tổ chức hệ thống y tế của nước ta có
nhiều điểm đặc thù khác biệt so với các nước
khác nên bức tranh "quá tải bệnh viện" có
những nét rất riêng và chắc chắn giải pháp để xử
lý vấn đề này cũng phải đi vào đúng bản chất
nếu muốn hạn chế hiện tượng này. Phần dưới
đây sẽ phân tích các yếu tố liên quan đến tình
trạng bệnh nhân đông quá mức tại các bệnh viện
công lập ở nước ta hiện nay dựa trên các bằng
chứng thu được từ các nghiên cứu của Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế trong hai năm gần
đây[10].
2. Tình hình bệnh nhân đông quá mức tại
bệnh viện công tại Việt Nam
Hiện tượng quá đông bệnh nhân tại các bệnh
viện công lập, đặc biệt tại các tuyến trung ương
trong những năm qua mà chúng ta thường gọi
bằng cụm từ "quá tải bệnh viện" đã và đang là
một trong những vấn đề lớn của ngành y tế Việt
Nam. Về nguyên tắc, hệ thống khám chữa bệnh
tại nước ta được phân làm 4 tuyến kỹ thuật bao
gồm: tuyến cơ sở (trạm y tế xã:TYTX) chịu
trách nhiệm khám và chữa các bệnh thông
thường; bệnh viện tuyến quận, huyện tiếp nhận
và điều trị những bệnh nhân vượt quá khả năng
điều trị của TYTX và được TYTX chuyển hoặc
giới thiệu; tương tự, bệnh viện tuyến tỉnh tiếp
nhận bệnh nhân được các bệnh viện huyện
chuyển lên và các bệnh viện tuyến trung ương là
tuyến chuyên môn cao nhất tiếp nhận các trường
hợp bệnh nhân được chuyển từ các bệnh viện
tỉnh. Trong những năm trước thời kỳ đổi mới
hầu như không có các vấn đề bệnh nhân vượt
tuyến, trái tuyến và tình trạng quá tải ở các bệnh
viện tuyến trên do hệ thống phân tuyến này được
duy trì hiệu quả.
Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1989, Luật
Chăm sóc, Bảo vệ sức khỏe nhân dân qui định:
Mọi người dân được tự do lựa chọn thầy thuốc,
cơ sở KCB (Điều 23, Chương IV), cùng với sự
thay đổi về tình hình kinh tế - xã hội, ngành y tế
bắt đầu thực hiện chính sách thu phí tại các bệnh
viện (Nghị định 95/CP 1994: cho phép các bệnh
viện thu môt phần viện phí), điều kiện kinh tế
của người dân tốt hơn đã tạo điều kiện cho người
dân có thể đến khám và chữa bệnh tại bất cứ
bệnh viện tuyến nào. Số người vượt tuyến, khám
bệnh trái tuyến đến các bệnh viện tuyến trên với
mong muốn nhận được các dịch vụ y tế tốt hơn
ngày càng tăng dẫn đến tình trạng bệnh nhân tập
trung đông tại các bệnh viện tuyến trên, đặc biệt
47
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
là các bệnh viện trung ương và các bệnh viện
chuyên khoa sâu. Phân tích từ số liệu điều tra Y
tế Quốc gia (2002) cho thấy trong số bệnh nhân
ngoại trú đến khám bệnh có tỉ lệ vượt tuyến dao
động từ 60-90% và tỉ lệ bệnh nhân nội trú vượt
tuyến chiếm từ 30-50% tùy theo từng vùng. Một
điều tra nhanh (2003) tại các bệnh viện Hà Nội
cho thấy các bệnh viện thường có tỷ lệ quá tải
25-30%. Trung bình trong số 100 bệnh nhân
điều trị thì có 48 bệnh nhân đến từ các tỉnh lân
cận, trong số đó chỉ có 18 bệnh nhân đến đúng
tuyến điều trị.
Một nghiên cứu gần đây nhất về quá tải bệnh
viện của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
(2009 - 2010) đã được tiến hành khá qui mô trên
27 bệnh viện đặc trưng cho các tuyến trung
ương, tỉnh, huyện, bệnh viện chuyên khoa, bệnh
viện đa khoa trong cả nước[10]. Để tìm các yếu
tố liên quan đến việc khám chữa bệnh vượt
tuyến, 2.874 bệnh nhân khám chữa bệnh ở bệnh
viện trung ương, 4.041 bệnh nhân ở bệnh viện
tuyến tỉnh, 2.368 bệnh nhân ở bệnh viện huyện
đã được phỏng vấn, 4.562 bệnh án đã được các
bác sĩ chuyên khoa phân tích, 69 cuộc thảo luận
nhóm với các nhà quản lý y tế, lãnh đạo bệnh
viện, các bác sĩ và người bệnh đã được thực hiện.
Kết quả cho thấy tình trạng quá tải là phổ biến
tại hầu hết các bệnh viện ở các tuyến, đặc biệt
quá tải trầm trọng ở tuyến trung ương và tuyến
tỉnh. Tình trạng dưới tải xảy ra ở một số bệnh
viện chuyên khoa ở tuyến tỉnh thuộc lĩnh vực
các chuyên khoa như Phục hồi chức năng, Tâm
thần, bệnh xã hội (Lao, Phong) và ở các bệnh
viện đa khoa tuyến huyện thuộc khu vực miền
núi, vùng sâu vùng xa. Tình trạng quá tải xảy ra
ở cả khu vực điều trị nội trú và khám bệnh ngoại
trú. Cụ thể, trong nhóm các bệnh viện có công
suất sử dụng giường bệnh trên 100%, bệnh viện
trung ương chiếm 85,3%; bệnh viện tuyến tỉnh
chiếm 70,3%; bệnh viện tuyến huyện chiếm
65,8%. Đặc biệt, tại các bệnh viện trung ương,
công suất sử dụng giường trung bình đối với các
bệnh viện đa khoa là 138% và các bệnh viện
chuyên khoa là 141%, cá biệt có bệnh viện công
suất sử dụng giường bệnh lên đến 150-200%
(Bạch Mai, Chợ Rẫy, Đa khoa trung ương Huế,
Nhi trung ương, bệnh viện K).
Tại tuyến tỉnh và huyện, nhiều bệnh viện
cũng có tình trạng bệnh nhân đến khám và chữa
bệnh đông quá mức, cũng có các bệnh viện tỉnh
công suất sử dụng giường bệnh trên 150%
(Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, Quảng Nam)
và có bệnh viện huyện sử dụng giường bệnh đến
114%.
Tình trạng quá tải xảy ra ở cả khu vực điều trị
nội trú và khám bệnh ngoại trú nhưng không
đồng đều giữa các chuyên khoa. Tại các bệnh
viện tuyến trung ương, chỉ một số ít khoa ở khu
vực nội trú không bị tình trạng quá tải thường
xuyên như khoa y học cổ truyền, tâm thần và
một số chuyên khoa lẻ. Các bệnh viện tuyến tỉnh
và huyện luôn có tình trạng quá tải ở các khoa
Ngoại chung, Ngoại chấn thương, Nội chung,
Sản, Nhi. Tại các bệnh viện tuyến huyện, mặc
dù có tình trạng quá tải giường bệnh nhưng
lượng bệnh nhân cũng chỉ tập trung ở một số
khoa nhất định, nhất là khu vực khám ngoại trú.
Bên cạnh biểu hiện đông bệnh nhân phổ biến tại
các bệnh viện công lập ở các mức độ khác nhau
thì tại các bệnh viện huyện khu vực miền núi lại
không thấy hiện tượng này (Sơn La, Đắk Lắc và
Nghệ An).
2.1. Nguyên nhân chính gây quá tải
Các nguyên nhân gây quá tải hiện nay tại
nước ta có thể nhóm lại như sau:
Nhu cầu khám chữa bệnh của người dân
ngày càng tăng.
Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm
2008 so với năm 2002, tỉ lệ người tự cho là ốm
hoặc có vấn đề về sức khỏe trong vòng 12 tháng
và trong 4 tuần đã tăng 34,7% và 48%; tỉ lệ
người đến KCB tại các cơ sở y tế tăng tới 81% và
tỉ lệ người khám chữa bệnh ngoại trú tăng tới
118,3% so với năm 2002 (hình 1).
48
Diễn đàn chính sách y tế
Số liệu thu được tại các bệnh viện tuyến trung
ương từ 2004 đến 2008 cho thấy số lượt người
đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện tăng đều
qua các năm và mỗi năm trung bình 10% và tại
một số bệnh viện con số này tăng trên 1,3 lần
trong đó bệnh viện Phụ sản Trung ương và bệnh
viện Chợ Rẫy có số lượt khám chữa bệnh vào
năm 2008 tăng so với năm 2004 là 1,6 và 1,7 lần.
Tại các bệnh viện tuyến tỉnh, số lượng bệnh
nhân đến khám chữa bệnh năm 2008 tăng 1,5
lần và các BV tuyến huyện tăng 1,7 lần so với
năm 2004. Như vậy, trong khi các chỉ số sức
khỏe, tuổi thọ trung bình... của người Việt Nam
đang được cải thiện đáng kể thì việc tăng số
lượng bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại các
bệnh viện công lập có thể hiểu là do nhận thức
và hiểu biết của người dân về sức khỏe và bệnh
tật ngày càng tốt hơn, với điều kiện giao thông
và hoàn cảnh kinh tế được cải thiện kèm theo
chính sách bảo hiểm y tế, các chính sách an sinh
xã hội của Nhà nước (hỗ trợ người nghèo, trẻ em
dưới 6 tuổi...) đã tạo điều kiện cho người dân
tiếp cận với dịch vụ y tế được dễ dàng hơn, đây
cũng là một nguyên nhân làm tăng lưu lượng
bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế
công lập.
Hình 1. Tình hình sử dụng dịch vụ y tế trong 12 tháng và 4 tháng trên toàn quốc
(Nguồn: VLSS 2006, VLSS 2008)
Người dân tin tưởng vào chất lượng dịch vụ ở
tuyến trên hơn.
Trình độ của cán bộ y tế tuyến dưới do các
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau
còn hạn chế, đấy là chưa kể đến việc chênh lệch
không đáng kể về giá các dịch vụ y tế giữa các
tuyến... làm người bệnh có xu hướng dồn lên
khám chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến trên.
Quan điểm này cũng thể hiện ở kết quả nghiên
cứu của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế khi
nhận thấy tới 80% bệnh nhân ngoại trú tại bệnh
viện tuyến trung ương được phỏng vấn cho biết
muốn sử dụng dịch vụ tuyến trên vì cho rằng
trình độ bác sĩ ở đây cao hơn.
Khả năng cung ứng dịch vụ của các cơ sở
khám chữa bệnh tuyến dưới hạn chế do thiếu
cán bộ, thiếu trang thiết bị và cơ sở vật chất.
Trên thực tế, do cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y
tế các bệnh viện tuyến dưới còn hạn chế, thiếu
đồng bộ nên chất lượng khám chữa bệnh bị ảnh
hưởng rất rõ. Dựa trên các kỹ thuật được qui
định cho từng tuyến của Bộ Y tế, hiện nay cũng
còn khoảng 15-20 % các kỹ thuật còn chưa được
thực hiện ở nhiều bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến
huyện. Vấn đề nhân lực qua điều tra cho thấy tỉ
49
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
lệ cán bộ/giường bệnh còn chưa đạt theo yêu
cầu, đặc biệt thiếu các cán bộ chuyên khoa, nhất
là các chuyên khoa ít có điều kiện tăng thu nhập
như tâm thần, nhi, u bướu tại các bệnh viện
tuyến tỉnh và tuyến huyện... Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến việc thiếu nhân lực. Đầu tiên phải
kể đến công suất đào tạo hiện nay của các
trường Y công lập không đáp ứng được với nhu
cầu khám chữa bệnh cũng như tốc độ tăng dân
số ở nước ta hiện nay. Mặt khác, các chế độ đãi
ngộ quá hạn hẹp của Nhà nước, môi trường văn
hóa, kỹ thuật kém phong phú, thiếu cơ hội thăng
tiến... không đủ sức cuốn hút và giữ chân các
nhân viên y tế giỏi ở tuyến dưới dẫn đến dịch
chuyển các cán bộ giỏi về tuyến trên, giảm năng
lực hoạt động của tuyến cơ sở, gián tiếp gây quá
tải tuyến dưới. Một câu hỏi đặt ra là mặc dù các
cán bộ giỏi dịch chuyển lên tuyến trên nhưng
thực tế tại sao tuyến trên vẫn quá tải ? Qua kiểm
tra của Bộ Y tế về thực hiện Thông tư 08 (qui
định tỉ lệ bác sĩ, điều dưỡng/giường bệnh) tại
các bệnh viện trung ương, một vấn đề được phát
hiện là mặc dù nhân lực chưa đủ theo qui định
nhưng nhiều bệnh viện vẫn hạn chế nhận người.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một trong
những lý do làm ban Giám đốc hạn chế nhận
người đó là lo giảm thu nhập tăng thêm của toàn
đơn vị (vấn đề này sẽ tiếp tục được đề cập tại
phần dưới).
Thiếu quy định và cơ chế chuyển tuyến phù
hợp.
Như chúng ta biết, trong một hệ thống y tế
vững chắc, mạng lưới y tế cơ sở và công tác
chăm sóc sức khỏe ban đầu đóng vai trò rất quan
trọng trong việc điều tiết bệnh nhân, hạn chế
chuyển tuyến khi chưa cần thiết, từ đó hạn chế
hiện tượng bệnh nhân dồn lên tuyến trên. Nói
một cách khác, hệ thống phân tuyến kỹ thuật
đóng vai trò hàng rào giúp sàng lọc bệnh nhân
qua từng tuyến góp phần phân phối bệnh nhân
hợp lý trong hệ thống khám chữa bệnh. ở nước
ta, trong quá trình xây dựng chính sách, đã có
lúc nhà hoạch định không bao quát hết được các
tác động đa chiều của từng chính sách dẫn đến
những tác động không mong muốn. Cụ thể, như
phần trên đã đề cập, Luật Chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe nhân dân đã vô tình phá vỡ nguyên tắc của
hệ thống phân tuyến, dẫn đến tình trạng quá
nhiều bệnh nhân vượt tuyến. Thậm chí người
bệnh có các vấn đề sức khỏe thuộc phân tuyến
kỹ thuật của tuyến dưới nhưng vẫn đến khám tại
các bệnh viện tuyến trên. Nghiên cứu của Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế cho thấy trung
bình có gần 75% bệnh nhân đến thẳng các bệnh
viện trung ương để khám chữa bệnh mà không
qua khám tại tuyến tỉnh và huyện như phân
tuyến qui định. Tại thời điểm nghiên cứu năm
2009, có đến 90% bệnh lý đến khám tại bệnh
viện nhi trung ương có thể điều trị tại tuyến
dưới, đẻ thường tại bệnh viện Phụ sản Trung
ương chiếm đến 33% và tại bệnh viện Từ Dũ
(bệnh viện Sản khoa hàng đầu khu vực phía
Nam) chiếm 46% tổng số bệnh nhân đến điều
trị. Các con số này cho thấy hiện tượng đông
bệnh nhân ở đây không phải do mô hình bệnh tật
thay đổi hay người dân mắc bệnh nhiều hơn
trước mà do chức năng điều tiết bệnh nhân của
hàng rào phân tuyến kỹ thuật đã bị ảnh hưởng
nặng hoặc nói đúng hơn là đã mất tác dụng.
Tác động không mong muốn của một số
chính sách
Trong quá trình ban hành chính sách, có thể
các tính toán cụ thể và bằng chứng thực tiễn
chưa được quan tâm đúng mức nên khi triển
khai đã tạo ra các bất cập cho vận hành hệ thống
y tế. Dưới đây là một số các tác động chính trực
tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến tình trạng quá tải
bệnh nhân ở các bệnh viện công lập:
- Trong một thời gian dài, ngành y tế không
được bổ xung cơ sở vật chất cũng như trang thiết
bị kịp thời, chỉ tiêu giường bệnh thấp và tăng
không tương xứng với nhu cầu khám chữa bệnh.
Điều này một phần do cơ chế phân bổ ngân sách
khám chữa bệnh theo giường điều trị làm cho
các địa phương gặp nhiều hạn chế trong tăng
giường bệnh. Cụ thể, năm 2008 so với năm
2004, chỉ tiêu giường bệnh của bệnh viện tuyến
trung ương tăng 1,35 lần trong khi lượng bệnh
50
Diễn đàn chính sách y tế
nhân nội trú đã tăng tới 1,57 lần và tổng số lượt
khám chữa bệnh ở bệnh viện tuyến trung ương
tăng tới 1,65 lần. Với các bệnh viện tuyến tỉnh,
chỉ tiêu giường bệnh năm 2008 chỉ tăng 1,2 lần
so với năm 2004 trong khi đó tổng số lượt bệnh
nhân nội trú ở tuyến tỉnh và huyện vào năm
2008 so với năm 2004 đã tăng 1,47 lần. Rõ ràng,
việc bổ xung giường bệnh không theo kịp với
việc gia tăng của lượng bệnh nhân đến điều trị.
- Tác động của việc thực hiện chính sách xã
hội hóa và tự chủ bệnh viện trong khi chưa có
các giải pháp kiểm soát phù hợp là một căn
nguyên tiềm ẩn làm lượng bệnh nhân tăng một
cách bất hợp lý tại các tuyến trên, đặc biệt các
tuyến được trang bị các trang thiết bị công nghệ
hiện đại. Nghiên cứu về tự chủ bệnh viện do
Viện Chiến lược và Chính sách y tế và các Vụ,
Cục chức năng của Bộ Y tế thực hiện đã cho thấy
cơ chế cho phép các bệnh viện công lập tự bổ
xung nguồn thu đã dẫn đến các hoạt động liên
kết với khu vực ngoài công lập (đặt các máy xét
nghiệm sinh hóa, chẩn đoán hình ảnh...) đã dẫn
đến nhiều tác động khác nhau. Một mặt, các
hoạt động liên doanh này đã giúp hiện đại hóa
đáng kể các trang thiết bị cho bệnh viện giúp
nâng cao chất lượng điều trị người bệnh đồng
thời tăng thêm thu nhập cho cán bộ công nhân
viên. Nhưng mặt khác, để hoàn vốn nhanh và
sớm có thu nhập cho cán bộ, đã xuất hiện
khuynh hướng sử dụng xét nghiệm quá mức và
nhu cầu có người bệnh đến khám và điều trị là
không thể tránh khỏi. Thậm chí có bệnh viện đã
tổ chức hoạt động marketing thu hút bệnh nhân
tuyến dưới đến khám chữa bệnh. Đây cũng
chính là tác động không mong muốn của chính
sách tự chủ và là một trong những nguyên nhân
gây hiện tượng quá tải ở các bệnh viện tuyến
trên.
- Chính sách khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
với các định mức, cơ chế chi trả chưa phù hợp
cũng tham gia gây đông bệnh nhân ở tuyến trên.
Sự khác nhau về giá dịch vụ không khác biệt rõ
rệt giữa các tuyến, mặc dù vượt tuyến nhưng
bệnh nhân bảo hiểm y tế vẫn được chi trả 30%
tiền khám chữa bệnh (Luật Bảo hiểm Y tế) đã
mặc nhiên là yếu tố thúc đẩy người bệnh đến
khám tại tuyến trên (chất lượng cao, giá dịch vụ
cao hơn không đáng kể).
- Một lý do khác liên quan tới giá thanh toán
dịch vụ đó là một số lãnh đạo địa phương do
mong muốn người dân hạn chế chi trả khi khám
chữa bệnh nên đã qui định giá dịch vụ ở mức
thấp cho các cơ sở khám chữa bệnh. Tuy nhiên,
các nhà lãnh đạo địa phương này không hiểu
được rằng chính do không dựa trên tính toán hợp
lý nên các mong muốn chính trị nêu trên làm
cho cơ sở khám chữa bệnh thu không đủ chi nên
đã không triển khai nhiều dịch vụ qui định cho
tuyến của mình. Cũng chính hiện tượng thiếu
dịch vụ nên người dân buộc phải dồn lên tuyến
trên khám chữa bệnh, góp phần vào quá tải
tuyến trên.
2.2. ảnh hưởng của quá tải tới chất lượng
phục vụ bệnh nhân
Chỉ số sử dụng giường quá cao và tình trạng
bệnh nhân nằm chung giường làm ảnh hưởng
đến chất lượng công tác chăm sóc, điều trị bệnh
nhân. Nhiều tác giả nước ngoài đã chỉ ra khi tỉ lệ
sử dụng giường bệnh cao trên 85%, tỉ lệ nhiễm
trùng bệnh viện, tỉ lệ tử vong ở bệnh viện cũng
tăng theo. Các tác giả này cũng cho thấy thời
gian khám cho bệnh nhân ngắn sẽ làm tăng các
thiếu sót trong khám bệnh, kê đơn không hợp lý
và chất lượng tư vấn cho bệnh nhân sẽ thấp. Việc
kê thêm giường bệnh, nhận quá đông bệnh nhân
trong khi diện tích mặt bằng không tăng, cơ sở
vật chất đầu tư không hợp lý và đúng thiết kế,
thiếu nhân lực sẽ dẫn tới các bệnh viện không
đảm bảo được các tiêu chuẩn kỹ thuật vận hành
theo quy định (diện tích/giường bệnh, tỉ lệ diện
tích khoa phòng và khu công cộng, môi trường
bệnh viện v.v). Tại thời điểm nghiên cứu
(2009), tại phòng khám một số bệnh viện trung
ương, trung bình mỗi bác sỹ phải khám trung
bình 70 - 133 bệnh nhân/ngày, thời gian khám
cho mỗi bệnh nhân cũng rất ngắn: trung bình chỉ
9,6 phút kể cả thời gian làm các thủ tục hành
chính liên quan tại bàn khám. Cá biệt, có bệnh
viện, một bệnh nhân chỉ được khám trung bình
51
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
4-6 phút, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng khám chữa bệnh.
2.3. ảnh hưởng của quá tải tới các nhân
viên y tế
Như phần trên đã trình bày, tình trạng thiếu
nhân lực, nhân viên y tế làm ngoài giờ, thêm giờ,
tăng khối lượng công việc cũng ảnh hưởng tới
sức khỏe của nhân viên y tế. Tại Việt Nam, chưa
có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề này được
công bố nhưng việc nhiều bệnh viện phải bố trí
tăng thời gian làm tại khoa khám bệnh để tránh
ùn tắc bệnh nhân, tình trạng nhân viên y tế
không được nghỉ bù trực là tương đối phổ biến,
tất cả điều này lâu dài có thể làm ảnh hưởng tới
sức khỏe nhân viên y tế và chất lượng phục vụ
người bệnh.
3. Các giải pháp hạn chế quá tải ở Việt
Nam
Quá tải bệnh viện xảy ra ở hầu hết cả các
tuyến khám chữa bệnh, đặc biệt đối với các
bệnh viện tuyến trên. Tuy nhiên, quá tải phân bố
không đều giữa các tuyến, trong từng tuyến thì
mật độ bệnh nhân cũng không đồng đều giữa
khu vực ngoại trú và nội trú cũng như giữa các
chuyên khoa. Nguyên nhân của tình trạng quá
tải đa dạng, thể hiện hệ thống y tế/mạng lưới
khám chữa bệnh chưa phù hợp và chưa đáp ứng
được với nhu cầu của người bệnh chứ không đơn
thuần là do vận hành của các bệnh viện. Dựa
trên kinh nghiệm quốc tế và tình hình thực tế tại
Việt Nam, để giải quyết quá tải trong các bệnh
viện công, chúng ta cần quan tâm đến những
giải pháp sau:
Giải pháp tăng giường bệnh
Trong khi một số nước vẫn đưa ra các giải
pháp phát triển thêm số giường bệnh (Australia)
thì đa số các nước đang phát triển (các nước
thuộc khối EC, Newzeland) lại đang có xu
hướng giảm số giường bệnh để tập trung đầu tư
vào cải thiện hệ thống phân loại bệnh nhân,
nâng cao chất lượng điều trị, giảm ngày điều trị
trung bình trong bệnh viện và mở rộng các hình
thức quản lý và khám chữa bệnh ngoại trú tại
cộng đồng. ở nước ta, do tỉ lệ giường bệnh còn
chưa theo kịp với nhu cầu khám chữa bệnh nên
việc xây thêm bệnh viện là cần thiết. Các số liệu
thu được từ các nghiên cứu gần đây cho thấy
việc tận dụng diện tích hành chính, kê thêm
giường bệnh cũng đã giảm được phần nào hiện
tượng bệnh nhân nằm ghép và chương trình
nâng cấp hệ thống bệnh viện tuyến huyện và BV
đa khoa khu vực từ nguồn vốn vay trái phiếu
Chính phủ hứa hẹn sẽ giúp tăng đáng kể số
giường phục vụ người bệnh.
Triển khai mô hình khoa điều trị ban ngày
hoặc bệnh viện ban ngày
Đây là mô hình tỏ ra khá hiệu quả trong việc
giảm tình trạng quá tải giường nội trú ở một số
nước và khuyến cáo á p dụng[11]. Tuy nhiên, mô
hình này cũng vẫn đòi hỏi một lượng nhân lực
chuyên môn đáng kể và cần có một cơ chế vận
hành riêng mới đảm bảo được sự an toàn cho
bệnh nhân (tư vấn ngoài giờ, nhân viên y tế phục
vụ tại nhà hoặc dịch vụ vận chuyển đến bệnh
viện nếu bệnh nhân có diễn biến bất thường).
Mặt khác, mô hình này chỉ tiếp nhận và phục vụ
được các bệnh nhân là người sống trong khu vực
bệnh viện (ban ngày điều trị tại bệnh viện, tối về
nhà). ở Việt Nam, cần có một hệ thống các quy
định hoàn chỉnh nếu muốn triển khai mô hình
này.
Củng cố và phát triển chăm sóc sức khỏe
ban đầu
Chăm sóc sức khỏe ban đầu được cho như là
“Người gác cổng” giúp giảm lượng bệnh nhân
đến các khoa khám bệnh và cấp cứu. Củng cố và
kiện toàn hệ thống y tế cơ sở là yếu tố quan trọng
giúp cho việc tuyên truyền, giáo dục sức khỏe
tại cộng đồng, phát hiện sớm và điều trị kịp thời
các bệnh thông thường, chuyển tuyến phù hợp
sẽ giúp cho việc phân phối bệnh nhân trong hệ
thống khám chữa bệnh được hợp lý.
Phát triển nguồn nhân lực y tế
Bên cạnh việc tăng cường đào tạo nhân lực
52
Diễn đàn chính sách y tế
mới, cần luôn chú trọng các hoạt động đào tạo
liên tục nhằm nâng cao chất lượng cán bộ y tế
sẵn có, triển khai các hoạt động chuyển giao kỹ
thuật cho tuyến dưới với nhiều hình thức khác
nhau (chuyển giao các gói kỹ thuật, bệnh viện
vệ tinh...) để mỗi tuyến có thể thực hiện được
các kỹ thuật được phân công.
Xây dựng và điều chỉnh, bổ xung các chính
sách y tế
Trên thực tế, hiện tượng quá tải trong các
bệnh viện công là sự biểu hiện ra ngoài của sự
chưa phù hợp của nhiều chính sách y tế cũng
như tổ chức hệ thống y tế liên quan đến khám
chữa bệnh. Để có thể từng bước giảm tải ở các
bệnh viện, cần có một biện pháp tổng thể bao
gồm đổi mới cơ chế tài chính tạo nguồn thu
chính đáng cho các bệnh viện có thể hoạt động
tốt qua đó điều chỉnh các tác động không mong
muốn của chính sách tự chủ bệnh viện. Ban
hành các chính sách đãi ngộ xứng đáng cho
nhân viên y tế, chính sách thu hút và giữ chân
cán bộ y tế ở cơ sở là công việc cần làm ngay.
Cần dành một ngân sách phù hợp cho công tác
chăm sóc sức khỏe nhân dân, trong đó tỉ lệ dành
cho y tế cơ sở phải được tính toán hợp lý và cuối
cùng để hạn chế quá tải, hay nói rộng ra là hạn
chế việc người dân phải tìm đến cơ sở khám
chữa bệnh, Chính phủ cần xác định trách nhiệm
cụ thể của lãnh đạo địa phương trong chăm sóc
sức khỏe của cộng đồng mình phụ trách và có cơ
chế kiểm soát để cả xã hội đều tham gia tích cực
vào công tác bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Ula Hwang and John Concato, Care in the Emergency Department: How Crowded Is
Overcrowded? Academergmed, 2004. 11(10).
2. Clements A, et al, Overcrowding and understaffing in modern health-care systems: key
determinants in meticillin-resistant Staphylococcus aureus transmission. Lancet Infect Dis,
2008. 8(7): p. 427-34.
3. Heather B, W.W, Alice McL, Neil C, Alastair L, Neil D, Andrew B, Bed Occupancy and Bed
Management, Report of CSO Project K/OPR/2/2/D248. Public Health Research Unit,
University of Glasgow, 1997.
4. Hospital Emergency Department: Crowded Conditions Vary among Hospitals - GAO. 2003.
5. Jayaprakash, N.M.B, BAO, Crowding and Delivery of Healthcare in Emergency Departments:
The European Perspective. Western Journal of Emergency Medicine, Department of Emergency
Medicine, UC Irvine, 2009.
6. Orendi J, Health-care organisation, hospital-bed occupancy, and MRSA. The Lancet, 2008.
371: p. 1401-1402.
7. Virtanen, M, et al, Patient overcrowding in hospital wards as a predictor of diagnosis-specific
mental disorders among staff: a 2-year prospective cohort study. J Clin Psychiatry, 2010. 4: p. 4.
8. Virtanen M, et al, Overcrowding in hospital wards as a predictor of antidepressant treatment
among hospital staff. Am J Psychiatry, 2008. 165(11): p. 1482-6. Epub 2008 Aug 1.
9. Public Hospital Report Card 2009: An Ama Analysis of Australia's public hospital system. 2009.
10. Lê Quang Cường, et al, Nghiên cứu thực trạng quá tải, dưới tải của hệ thống bệnh viện các tuyến
và đề xuất các giải pháp khắc phục. 2010.
11. Neil Roy, Emergency Department Crowding A Literature Based Review.
53
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
qua_tai_va_duoi_tai_trong_benh_vien_cong_lap.pdf