Quá trình hình thành và phát triển tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng

LỜI MỞ ĐẦU Thực tập tốt nghiệp là một hoạt động rất cần thiết cho sinh viên nói chung và nhất là sinh viên chuyên ngành Quản trị Kinh Doanh Quốc Tế nói riêng trong điều kiện Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới như hiện nay. Thông qua đợt thực tập, sinh viên có thể củng cố, nâng cao kiến thức đã được tích luỹ trong hơn ba năm học và bước đầu vận dụng tổng hợp các kiến thức đó vào việc giải quyết một số vấn đề thực tiễn tại cơ sở thực tập, chuẩn bị tốt kiến thức lý luận và thực tiễn cho công tác sau khi tốt nghiệp. Để thực hiện được những mục đích đó của đợt thực tập tốt nghiệp, em đã lựa chọn Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, một công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trong quá trình thực tập, em đã thu được khá nhiều kiến thức thực tế về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đồng thời cũng đã thu thập được nhiều số liệu tổng hợp về công ty như cơ cấu lao động, vốn, lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh, Tuy nhiên do thời gian của đợt thực tập tổng hợp có hạn nên em chưa thu thập được đầy đủ các số liệu về lĩnh vực xây dựng – một trong hai lĩnh vực hoạt động của công ty. Thông qua các số liệu thu thập được và dựa trên tình hình thực tế của công ty, em đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và sơ đồ hoá và viết lên bài báo cáo tổng hợp này. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài báo cáo được chia làm 3 chương: Chương I: Giới thiệu khái quát về Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng. Chương II: Thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng. Em xin chân thành cảm ơn Ts.Tạ Lợi đã nhiệt tình hướng dẫn em trong đợt thực tập và hoàn thành báo cáo này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị trong phòng Xuất Nhập Khẩu của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng – nơi em đang thực tập – đã hướng dẫn và cung cấp số liệu cho em trong thời gian thực tập vừa qua. Bài viết này chắc chắn còn nhiều sai xót, em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét, phê bình của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội ngày 04 tháng 02 năm 2007 Sinh viên thực hiện Phan Thị Thanh Tâm CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẤN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng 1. Giới thiệu khái quát về Công ty Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng là một đơn vị thi công xây lắp và kinh doanh tổng hợp, có: Tên giao dịch: Songhong construction development import-export joint stock company Tên viết tắt: SHODEX.JSC Địa chỉ trụ sở: số 245 đường Nguyễn Tam Trinh, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội Tel: (04)6.340.777 Fax: (04)6.336.648 Email: xnksh@hn.vnn.vn Webside: http://www.shodex.com.vn Số đăng kí kinh doanh: 01030110420 Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc Ngô Quang Hào 2. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, tiền thân là hợp tác xã cung ứng vật tư tại số 376A Lý Tự Trọng, Hà Nội. Đến tháng 8/1979, theo quyết định số 3439 QĐ/UB của UBND thành phố Hà Nội đổi tên thành xí nghiệp xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng đặt tại 16/8 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trong giai đoạn này, công ty hoạt động không hiệu quả, điều này được thể hiện qua tổng doanh thu, lợi nhuận qua các năm, hoạt động của công ty không năng động, không đáp ứng được tốt nhu cầu của thị trường. Đây là hậu quả của cơ chế quản lí tập trung bao cấp. Cùng với quy chế giải thể và thành lập doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định 338/HĐBT ngày 21/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng và thông tư số 4/TTLQ ngày 11/6/1992, công ty lại được đổi tên là Công ty xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng theo quyết định số 3550/QĐ-UB ngày 9/12/1992 với tổng số vốn kinh doanh là: 1.810.300.000 đồng. Công ty là một đơn vị thành viên của Tổng Công Ty Xây Dựng Sông Hồng - Bộ Xây Dựng. Trong giai đoạn này, công ty đã dần dần tự khẳng định mình, bộ máy tổ chức gọn nhẹ hơn và hoạt động hiệu quả hơn, tổng doanh thu và lợi nhuận tăng ổn định qua các năm, đời sống của cán bộ nhân viên tăng lên. Đến năm 2002, theo quyết định số 52/QĐ-BXD của Bộ Xây Dựng ngày 11/01/2002 về việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, công ty lại được đổi thành Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng với vốn điều lệ là: 3.894.260.000đ, trong đó: Số vốn này được hình thành từ hai nguồn : Vốn Ngân sách Nhà nước : 1.986.072.000 đồng Vốn công ty tự bổ sung :1.908.188.000 đồng Đến năm 2006, vốn điều lệ của công ty là 6.000.000.000đ. Nhà nước nắm giữ 40% cổ phần, đại diện vốn cổ phần của Nhà nước là ông Ngô Quang Hào và ông Nguyễn Quang Huy, 59 cổ đông khác nắm giữ 60% cổ phần còn lại. Công ty đã tách ra khỏi Tổng công ty xây dựng Sông Hồng, không còn là đơn vị trực thuộc nữa nhưng vẫn liên kết hoạt động với Tổng công ty. Những năm vừa qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích nghi, tồn tại và phát triển trong cơn lốc của nền kinh tế thị trường nhưng công ty đã đạt được những thành công nhất định. Điều này thể hiện ở các chỉ tiêu như: Tổng doanh thu, lợi nhuận, lương bình quân của cán bộ công nhân viên trong công ty đều tăng khá nhanh qua các năm. Đồng thời, công ty còn mở thêm nhiều hướng kinh doanh mới, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Từ khi thành lập đến nay đã trải qua gần 50 năm tồn tại và phát triển, cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, đến nay công ty đã có những bước đi vững chắc phù hợp với nền kinh tế thị trường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, và tự khẳng định mình trên thương trường.

doc43 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình hình thành và phát triển tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thực hiện các nghiệp vụ phát triển thị trường. - Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho Giám đốc trong các công việc như: Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. Quản lý tiền lương, tiền thưởng và các chế độ chính sách như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Một số công việc hành chính khác như : bảo vệ, tạp vụ, vệ sinh. - Phòng kế hoạch thị trường: Nghiên cứu về nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước phục vụ cho hoạt động nhập khẩu, nghiên cứu nhu cầu nước ngoài và nguồn thu mua cho hoạt động xuất khẩu. Cụ thể: Điều tra nghiên cứu và thăm dò nhu cầu của thị trường nước ngoài; chỉ ra các nhu cầu của thị trường và đoạn thị trường một cách chính xác, khả thi; đưa ra chiến lược, chính sách phù hợp: chất lượng sản phẩm, chính sách giá cả, khuếch trương để thâm nhập và khai thác thị trường mới; tập hợp thông tin phản hồi từ các đối tượng để thay đổi chiến lược cho phù hợp; phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh. -Phòng xuất nhập khẩu: Thực hiện tốt các quy trình, nghiệp vụ nhập khẩu. Tiến hành đàm phán ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu -Phòng xây dựng: Tiến hành xây dựng các công trình nhà ở dân dụng, nhà chung cư cao tầng. Ngoài ra còn tiến hành thi công xây dựng các công trình công cộng như đường xá, cầu cống,... Ngoài ra, công ty còn có hệ thống các cửa hàng, đại lý để bán và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu, được phân bố trên địa bàn Hà Nội ,Tp Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành khác như : Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ,... III. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng 1. Sản phẩm xuất nhập khẩu Từ sau khi cổ phần hoá, bên cạnh việc thi công xây lắp công trình, hoạt động chủ yếu của Công ty là xuất nhập khẩu. Các mặt hàng xuất nhập khẩu truyền thống là: Hàng điện tử gia dụng cao cấp: tủ lạnh, máy giặt, điều hoà, lò vi sóng, nồi cơm điện, máy rửa hoa quả bằng ôzôn, máy làm đá siêu tốc,…Công ty nhập khẩu chủ yếu từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc. Máy móc thiết bị xây dựng: máy xúc, máy ủi, xe lu,…phục vụ công trình xây dựng. Vật liệu xây dựng: Đá Granit, Marble, thép (thép ống, thép thỏi, inox,…) Hoá chất: Hạt nhựa, dầu DOP, bột nhựa, nhựa PVC,… Lốp ô tô Chè chế biến xuất khẩu Đặc điểm về lao động Bảng 1: Cơ cấu lao động của công ty STT Năm Lao động 2003 2004 2005 2006 người % người % Người % người % 1 LĐ quản lý 8 11 8 11 13 13 13 12 2 LĐ nam 50 70 52 68 68 66 69 64 3 LĐ nữ 21 30 24 32 35 34 38 36 4 LĐ có trình độ ĐH trở lên 32 45 35 46 50 49 54 50 5 LĐ có trình độ Cao Đẳng 5 7 10 13 11 11 11 10 6 LĐ thường xuyên 65 92 67 88 72 70 75 70 7 LĐ thời vụ 6 8 9 12 31 30 32 30 8 LĐ trên 40 tuổi 27 38 27 35 30 29 30 28 Tổng lao động 71 100 76 100 103 100 107 100 (nguồn: Phòng tổ chức hành chính năm 2006) Lực lượng lao động nam của công ty luôn chiếm ưu thế so với lao động nữ, nhưng qua các năm tỉ lệ có xu hướng giảm, tức là cân đối hơn giữa lực lượng lao động nam và nữ. Trình độ lao động khá cao, tỉ lệ lao động có trình độ đại học và cao đẳng luôn chiếm trên 50% và có xu hướng tăng qua các năm. Lực lượng lao động trẻ (dưới 40 tuổi) chiếm ưu thế. Từ những số liệu trên cho thấy, cơ cấu lao động của công ty thay đổi qua các năm theo hướng tích cực, công ty đã tuyển dụng được thêm những lao động trẻ có trình độ cao, điều này làm cho trình độ trung bình của đội ngũ lao động ngày càng cao hơn. Đội ngũ lao động trẻ hơn, năng động hơn sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển. Tuy nhiên, với một doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì yêu cầu về trình độ lao động là rất cao để có thể đạt được hiệu quả kinh doanh tốt và tránh được những rủi ro vốn rất nhiều trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Vì vậy, công ty cần không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ công nhân để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập ngày này. Bên cạnh lực lượng lao động thường xuyên của công ty làm việc tại các phòng ban, công ty còn phải thuê thêm lao động ngoài để phục vụ những công việc có tính chất thời vụ (như việc sơ chế lại chè trước khi xuất khẩu hoặc một số công việc về xây dựng,…) nhằm tiết kiệm chi phí tiền lương nhưng vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả công việc. 3. Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty Công ty có trụ sở đặt tại 245 đường Nguyễn Tam Trinh, Q. Hoàng Mai, Hà Nội với toàn bộ các phòng ban được bố trí trên một mặt bằng khá rộng, kết cấu 6 tầng có tổng diện tích là 1.628m2. Trang thiết bị văn phòng nhìn chung là hiện đại, tất cả các phòng đều được trang bị đầy đủ điện thoại, máy fax, máy in, điều hoà nhiệt độ,… hầu hết nhân viên ở mỗi phòng đều được trang bị mỗi người một máy vi tính, số lượng máy vi tính mua mới trong vòng 4 năm trở lại đây khoảng 70%, chỉ có một vài máy đã rất cũ được trang bị từ cuối những năm 90. Ngoài ra, công ty còn trang bị máy photocopy cho phòng hành chính tổng hợp và một máy in A3 cho phòng xây dựng. Công ty còn có 2 xe ôtô phục vụ cho việc chuyên chở hàng hoá. 4. Đặc điểm về cơ cấu vốn và nguồn vốn của công ty Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn của công ty qua các năm (2003-2006) STT năm vốn 2003 2004 2005 2006 triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % 1 vốn tự có 3.894 27,8 4.217 26 5.190 20,6 6.000 19,5 2 vốn vay tín dụng 10.100 72,2 12.050 74 20.000 79,4 24.700 80,5 3 vốn lưu động 12.008 83,6 13.751 84,5 22.090 87,7 25.500 83 4 vốn cố định 2.300 16,4 2.516 15,5 3.100 12,3 5.200 17 Tổng nguồn vốn 13.994 100 16.267 100 25.190 100 30.700 100 (Nguồn: Phòng Kế Toán năm 2006) Nhìn chung, nguồn vốn của công ty tăng qua các năm. Vốn tự có tính đến năm 2006 là 6.000.000.000đ, tăng 154% so với nguồn vốn khi công ty bắt đầu cổ phần hóa. Nguồn vốn này tăng là do lợi nhuận tái đầu tư từ những năm trước và do vốn góp thêm của các cổ đông. Nguồn vốn vay tín dụng tăng cả về số lượng và tỉ lệ trong tổng nguồn vốn, nó luôn chiếm tỉ lệ khá cao khoảng 77% để có thể đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Vốn cố định cũng vậy, tăng qua các năm, vốn này tăng là do công ty đã đầu tư mua sắm thêm nhiều trang thiết bị mới và mua xe ô tô phục vụ một phần nhu cầu vận chuyển hàng hoá của công ty. CHƯƠNG II: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG I. Lĩnh vực kinh doanh của công ty Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty là: -  Xây lắp dân dụng và công nghiệp. -  Kinh doanh thương mại tổng hợp và xuất nhập khẩu -  Gia công cung cấp đá granit và marble nhập khẩu cho các công trình xây dựng -  Xuất khẩu một số hàng nông sản Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại tổng hợp, Công ty là một nhà phân phối chuyên nghiệp các sản phẩm điện tử gia dụng cao cấp của các hãng danh tiếng trên thế giới. Bảng 3: Cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực STT Năm lĩnh vực 2004 2005 2006 Triệu đồng % Triệu đồng % Triệu đồng % 1 Nhập khẩu 73.044 85,5 85.000 79,7 184.450 85 2 Xuất khẩu 10.361 12,1 8.004 7,5 13.450 6,2 3 Xây dựng 2.040 2,4 13.660 12,8 19.100 8,8 Tổng 85.445 100 106.664 100 217.000 100 (nguồn: tổng hợp số liệu từ năm 2004-2006-Phòng Kế Toán) Hoạt động nhập khẩu của công ty luôn chiếm ưu thế, doanh thu hoạt động nhập khẩu luôn tăng qua các năm và tăng đột biến vào năm 2006, tăng 217 % so với năm 2005, góp phần làm cho tổng doanh thu tăng 203%. Doanh thu hoạt động xuất khẩu thay đổi qua các năm, giảm vào năm 2005 và tăng trở lại vào năm 2006, tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu không cao lắm và có xu hướng giảm dần. Tỉ lệ đóng góp của hoạt động xuất khẩu thấp là do sản phẩm xuất khẩu của công ty là hàng nông sản, giá trị thấp và qui mô xuất khẩu nhỏ. Hoạt động thi công xây lắp tăng cả về giá trị công trình và tỉ lệ trong tổng doanh thu, chủ yếu là thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình dân dụng. Do giá trị của mỗi công trình không lớn lắm nên tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu của lĩnh vực xây dựng vẫn còn khiêm tốn. II. Hàng hoá và thị trường tiêu thụ 1. Đối với hoạt động xuất khẩu Mặt hàng xuất khẩu của công ty là hàng nông sản, chủ yếu là chè đã qua chế biến, ngoài ra còn có cà phê sơ chế Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Trung Đông như Pakistan và Iraq và một số nước Tây Âu (Anh), Nhật Bản,… Trong năm 2006, Công ty đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU là 9.517.220.000đ chiếm tỉ trọng 70,76 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường Trung Đông đứng vị trí thứ hai với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2.536.670.000đ chiếm tỉ trọng 18,86%. Tiếp theo là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu 406.190.000đ chiếm tỉ trọng khiêm tốn 3,02% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. 2. Đối với hoạt động nhập khẩu 3 nhóm hàng nhập khẩu chính của công ty: - Điện tử gia dụng - Máy móc thiết bị - Vật liệu xây dựng Là công ty được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nhưng hoạt động nhập khẩu chiếm ưu thế hơn hoạt động xuất khẩu. Trên các thị trường Công ty lựa chọn hàng hoá có uy tín chất lượng cao và giá cả phù hợp để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các đối tượng khách hàng khác nhau. Thị trường Châu Á: thị trường này bao gồm nhiều thị trường khác nhau bao gồm các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,…Khối lượng nhập khẩu từ những thị trường này rất lớn bởi những mặt hàng khi nhập khẩu được tiêu thụ tốt trong nước. Với thị trường Trung Quốc, các mặt hàng chủ yếu được nhập đó là hàng điện tử gia dụng như: nồi cơm điện, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, lò vi sóng..., các thiết bị máy móc dân dụng phục vụ nhu cầu đời sống ngày càng cao của người tiêu dùng. Hàng điện tử gia dụng là lĩnh vực thuộc về mảng kinh doanh nội địa, công ty hoạt động bằng cách nhập khẩu từ các đối tác nước ngoài ( Tiger, Hier) và thực hiện việc bán buôn, bán lẻ ở thị trường trong nước. công ty điện tử Tiger của Nhật Bản, Hier của Trung Quốc là hai nhà phân phối chính của công ty trong lĩnh vực điện tử gia dụng. Ngoài ra, thị trường Trung Quốc còn là thị trường mà công ty nhập khẩu mặt hàng đá xây dựng khá lớn. Với thị trường Nhật Bản, mặt hàng điện tử gia dụng được nhập ít hơn thị trường Trung Quốc. Mặt hàng nhập khẩu chính của thị trường này là máy móc thiết bị và nó chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn các thị trường khác nhờ lợi thế về giá cả và chi phí vận chuyển. Ngoài ra, công ty còn nhập khẩu khá nhiều lốp ôtô từ thị trường này. Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ là ba thị trường nhập khẩu chính về mặt hàng chiếm tỉ trọng cao nhất: lốp ôtô. Thị trường châu Âu: Công ty nhập khẩu từ thị trường này những sản phẩm như: vật liệu xây dựng, sắt thép, máy móc thiết bị,... phục vụ cho ngành xây dựng và giao thông do nhu cầu xây dựng trên địa bàn thủ đô và một số địa phương khác đang có xu hướng tăng nên thị trường này có sẽ ngày càng được mở rộng trong tương lai. Bảng 4: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo thị trường Đơn vị: nghìn USD STT Năm Thị trường 2003 2004 2005 2006 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Trung Quốc 503,5 14,5 654,5 16,3 1059,0 21,5 1359,9 13,4 2 Nhật Bản 623,0 17,9 738 18,4 960,7 19,5 1125,5 11,1 3 Châu Âu 234,0 6,7 250,6 6,2 270,4 5,5 201,3 2,0 4 Thị trường khác 2.119,5 60,9 2376,9 59,1 2642,9 53,5 7431,6 73,4 Tổng 3.480,0 100 4020,3 100 4.933,0 100 10.118,3 100 Bảng 5: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo mặt hàng Đơn vị: Triệu đồng STT Năm Mặt hàng 2003 2004 2005 2006 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Điện tử gia dụng 5.858 11,1 6.454 10,2 8.980 11,4 18.267 11,2 2 Máy móc thiết bị 11.472 21,8 13.280 20,9 8.922 11,3 18.281 11,2 3 Đá xây dựng 3.107 5.9 5.600 8,8 8.500 10,8 13010 8,0 4 Lốp ô tô 22.350 42.4 30.730 48,4 43.430 55,1 91.800 56,1 5 Hàng hóa khác 9.885 18.8 7.456 11,7 8968 11,4 21142 12,9 Tổng 52.672 100 63.520 100 78.800 100 163.500 100 (nguồn: Tổng hợp số liệu của Phòng Xuất Nhập Khẩu từ 2003-2006) Trên thực tế, một số mặt hàng chiếm doanh thu rất lớn của công ty như lốp ô tô, máy móc thiết bị kể trên đều là mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nhưng trên danh nghĩa thì các mặt hàng này lại là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp. Vì trên danh nghĩa là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp nên doanh thu bán các mặt hàng này không những được tính vào kim ngạch nhập khẩu mà còn được tính vào doanh thu xuất nhập khẩu, những khoản thuế phải nộp từ các mặt hàng này cũng được tính vào phần nộp ngân sách Nhà nước của công ty. Tuy nhiên doanh thu thực tế của công ty vẫn chỉ tính trên phần trăm giá trị lô hàng nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, hàng điện tử gia dụng có doanh số chiếm tỉ lệ tương đối và tăng qua các năm, nhưng tỉ trọng của nó lại tăng giảm thất thường. Năm 2003 doanh số là 5.858 triệu đồng, chiếm 11,1%, liên tục tăng qua các năm 2004, 2005 và đến năm 2006 là: 18.267 triệu đồng, chiếm 11,2% tổng giá trị hàng nhập khẩu, năm 2006 giá trị nhập khẩu tăng đột biến 203,4% so với năm 2005. Tỷ trọng trung bình của giai đoạn 2003-2006 là 11%. Nguyên nhân là do đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhu cầu mặt hàng này tăng khá cao. Hơn nữa, một số mặt hàng gia dụng đang tăng về nhu cầu hiện nay như máy rửa hoa quả bằng Ozone, máy làm đá siêu tốc,…Công ty hiện đang là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam. Tuy nhiên sản xuất trong nước cũng đã có những tiến bộ đáng kể, người tiêu dùng lựa chọn ngày càng nhiều hàng sản xuất trong nước (Hàng Việt Nam chất lượng cao - giá rẻ hơn và chất lượng tương đối đồng đều), bên cạnh đó, công ty phải cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường với các nhà nhập khẩu khác về các mặt hàng tương tự. Nhóm hàng máy móc thiết bị nhập khẩu kém ổn định hơn nhóm trên, tỷ trọng bình quân trong cả giai đoạn này là 16,3%, giá trị nhập khẩu tăng từ 11.472 triệu đồng năm 2003 lên 13.280 triệu vào năm 2004 nhưng đến năm 2005, giá trị lại giảm xuống chỉ còn 8.922 triệu đồng nhưng đã tăng trở lại vào năm 2006 với tổng giá trị là 18.281 triệu đồng. Tuy nhiên, xu hướng cho thấy tỉ trọng mặt hàng này giảm qua các năm. Nguyên nhân chính là do giá trị nhập khẩu của lốp ôtô tăng quá nhanh làm cho giá trị của mặt hàng này tuy có tăng nhưng tỉ lệ không tăng tương ứng được. Đá Granit và Marble nhập khẩu cũng tương tự như máy móc thiết bị, tăng về giá trị, nhưng tỉ lệ lại tăng giảm thất thường và mức đóng góp vào tổng giá trị nhập khẩu không cao, trung bình khoảng 8,4%. Giá trị mặt hàng này tăng qua các năm là do nhu cầu về xây dựng trong cả nước tăng nên nhu cầu về mặt hàng này cũng tăng theo. Về mặt hàng lốp ô tô, tăng cả về giá trị và tỉ trọng nhưng nhìn thấy rõ nhất sự tăng trưởng qua giá trị nhập khẩu qua các năm 2003, 2004, 2005 và đặc biệt năm 2006 lên đến 91.800 triệu đồng, chiếm 56,1% trong tổng giá trị hàng nhập. Mặc dù thị trường trong nước trong năm 2005, 2006 giảm nhu cầu nhập mặt hàng này do chất lượng lốp ôtô của các công ty trong nước như Casumina, Sao Vàng,… tương đương hàng ngoại nhập mà giá cả lại rẻ hơn từ 5-15% nhưng số lượng nhập của công ty vẫn không ngừng tăng lên là do công ty chỉ chuyên nhập các loại lốp ô tô có chất lượng cao của các thương hiệu nổi tiếng như Bridgestone hay Ornest, do đó đã đáp ứng nhu cầu của một bộ phận lớn khách hàng. Nhóm hàng nhập khẩu khác gồm hoá chất các loại, hạt nhựa, thép, ván sàn,… tăng, giảm thất thường cả về tỷ trọng và kim ngạch. Năm 2003, giá trị đạt 9.885 triệu đồng, tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm tới 18,8% nhưng đến năm 2004, giá trị mặt hàng này giảm khá mạnh cả về giá trị nhập khẩu và tỉ trọng, năm 2005 giá trị tăng trở lại nhưng tỉ trọng lại giảm. Đến năm 2006 giá trị nhập khẩu mặt hàng này có sự tăng lên đột biến lên gấp 2,4 lần và tỷ trọng tăng trở lại đạt 12,9% so với tỷ trọng bình quân giai đoạn 2003-2006 là 13,7%. III. Hoạt động Marketing của công ty 1. Mạng lưới kênh phân phối Mạng lưới kênh phân phối của công ty ở Miền Bắc: Có các cửa hàng đại lý ở tất cả các quận trên toàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, còn có các cửa hàng đại lý ở huyện Đông Anh, ở thị xã Hà Đông-Hà Tây, Hải Phòng, Nam Định Mạng lưới kênh phân phối ở miền Trung: Cửa hàng đại lý tại thành phố Đà Nẵng Mạng lưới kênh phân phối tại miền Nam: Có tổng số 4 đại lý tại thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn có đại lý tại thành phố Cần Thơ. 2. Chính sách giá của công ty Chiến lược định giá ngang bằng giá thị trường là chiến lược giá cơ bản của công ty. Phương pháp này phù hợp với mặt hàng giống nhau hoặc tương tự nhau và nó được áp dụng phổ biến cho các mặt hàng kinh doanh của công ty. Ngoài ra Công ty còn áp chính sách giá thấp hơn giá thị trường trong trường hợp mặt hàng này đang ở pha suy thoái trên thị trường hoặc cung thị trường lớn hơn cầu. Công ty thường sử dụng kỹ thuật định giá như sau: - Định giá trên cơ sở chi phí cộng thêm: được áp dụng cho hầu hết các mặt hàng vì công ty kinh doanh rất nhiều loại mặt hàng nên khó định giá cho từng loại mặt hàng trên cơ sở phân tích nhu cầu và chi phí của từng loại riêng biệt. Khi đưa ra quyết định giá cuối cùng, có thể tăng hoặc giảm để đạt được mức giá theo phương pháp định giá số lẻ được coi là mức hấp dẫn hơn đối với khách hàng về mặt tâm lý. Định giá theo giá hiện hành: Là kỹ thuật định giá trên cơ sở phân tích thị trường và cạnh tranh. Công ty có thể định giá theo giá của các công ty khác trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay công ty chỉ định theo giá đã được xác định trên thị trường. Kỹ thuật này được áp dụng cho nhóm hàng hoá chất, vật liệu xây dựng,… Mức giá tại các cửa hàng của công ty có thể khác nhau mặc dù cùng một loại mặt hàng do công ty áp dụng chính sách giá khác nhau tại các cửa hàng. Mức giá của công ty khá linh hoạt, phù hợp với điều kiện cạnh tranh. IV. Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty 1. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tăng 2005/2004 Tăng 2006/2005 +/- % +/- % 1 Tổng doanh thu 85.445 106.664 217.000 21.219 125 110.336 203 2 Tổng chi phí của hoạt động SXKD 82.025 102.708 212.018 20.683 125 109.310 206 3 Tổng lợi nhuận 3.420 3.956 4.982 536 116 1026 126 4 Hiệu quả hoạt động 1,042 1,039 1,023 -0,003 99,7 -0,015 98,55 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006) Nhìn vào bảng trên ta thấy, tổng doanh thu của năm 2006 tăng đột biến so với năm 2005 về cả số tuyệt đối và số tương đối. Tuy nhiên, lợi nhuận không tăng tương ứng. Tổng lợi nhuận năm 2005 tăng 116%, tổng doanh thu tăng 125%, mức tăng này tương ứng với nhau trong khi năm 2006, tổng doanh thu tăng 203% nhưng lợi nhuận chỉ tăng 126%, mức tăng này không tương ứng với mức tăng của tổng doanh thu. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh qua các năm có xu hướng giảm, năm 2005 hiệu quả hoạt động chỉ bằng 99,7% năm 2004 và năm 2006 thì chỉ bằng 98,5% năm 2005. Công ty cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và khắc phục tránh để tình trạng này kéo dài. Bảng 7: Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tăng 2005/2004 Tăng 2006/2005 +/- % +/- % 1 Tổng doanh thu 85445 106664 217000 21.219 125 110.336 203 2 Doanh thu thuần từ NK 73044 85000 184450 11.956 116 99.50 217 3 Tổng chi phí nhập khẩu 72225 84014 182971 11.789 116 98.957 218 4 Lợi nhuận từ hoạt động NK 819 986 1479 167 120 493 150 5 Hiệu quả hoạt động NK 1,0113 1,0117 1,0081 0.0004 100,04 -0,0037 99,64 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006) Với lĩnh vực nhập khẩu, doanh thu và lợi nhuận cũng tăng không tương ứng với nhau. Đặc biệt năm 2006, doanh thu tăng 203% so với năm 2005 nhưng lợi nhuận chỉ tăng 150%. Hiệu quả hoạt động nhập khẩu năm 2005 có tăng so với năm 2004 nhưng lượng tăng là không đáng kể. Đến năm 2006 hiệu quả lại giảm xuống còn 1,0081. Các chỉ tiêu này của công ty đạt thấp so với các doanh nghiệp trong ngành. Nguyên nhân chính là do : Qua các năm và đặc biệt là năm 2006 mức tăng về mặt hàng lốp ô tô của công ty rất mạnh, bên cạnh đó các mặt hàng khác như máy móc thiết bị, hoá chất, hạt nhựa,…cũng tăng khá mạnh nhưng những mặt hàng này không phải là mặt hàng nhập khẩu trực tiếp mà là mặt hàng nhập khẩu uỷ thác, công ty chỉ hưởng hoa hồng trên giá trị lô hàng nên lợi nhuận thu từ việc nhập khẩu các mặt hàng này rất thấp mặc dù giá trị nhập khẩu cao. Mặt hàng nhập khẩu trực tiếp như điện dân dụng năm 2006 nhập khẩu khá nhiều nhưng lại gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường. Do đó, trong năm 2006, chiến lược định giá của công ty có những thay đổi, nhiều sản phẩm được định giá thấp hơn để tăng lượng bán nên doanh thu tăng nhưng lợi nhuận tăng không cao. 2. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Bảng 8: Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006 1 Tổng chi phí Triệu đồng 82025 102708 212018 2 Tổng lợi nhuận Triệu đồng 3420 3956 4982 3 Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) % 4,17 3,85 2,35 Bảng 9 : Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 1 Chi phí NK Triệu đồng 61.632 72.225 84.014 182.971 2 Lợi nhuận từ hoạt động NK Triệu đồng 711 819 986 1479 3 Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc-nk) % 1,154 1,134 1,174 0,808 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003-2006) Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận Qua 2 bảng trên ta thấy: Cứ 1000.000đ đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì năm 2004 thu được 41700đ lợi nhuận, năm 2005 thu được 38500đ, năm 2006 thu được 23500đ. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận giảm dần qua các năm. Năm 2003, cứ 1.000.000 VND công ty bỏ ra để kinh doanh nhập khẩu hàng hoá thì thu được 11.540 VND lợi nhuận. Năm 2004 công ty bỏ ra 1.000.000 VND thì thu được 11.340VND lợi nhuận.Tương ứng với năm 2005, 2006 lần lượt là 11.740 VND; 8080 VND lợi nhuận. Như vậy, ta thấy tỉ lệ lợi nhuận trên chi phí giảm dần, điều này không tốt nếu để kéo dài sang những năm tiếp theo. Hơn nữa, ta thấy tỷ suất lợi nhuận trên chi phí nhập khẩu nhỏ hơn nhiều so với tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí, điều này cho thấy hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là thấp so với hai lĩnh vực còn lại là xuất khẩu và xây dựng. 3. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Bảng 10 : Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu. STT Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006 1 Tổng doanh thu Triệu đồng 85445 106664 217000 2 Tổng lợi nhuận Triệu đồng 3420 3956 4982 3 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (DDT) % 4,00 3,71 2,30 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh 2004-2006) Bảng 11 : Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu STT Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 1 Doanh thu NK Triệu đồng 62.343 73.044 85.000 184.450 2 Lợi nhuận từ hoạt động NK Triệu đồng 711 819 986 1479 3 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (DDT-nk) % 1,14 1,121 1,16 0,802 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh 2003-2006) Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu của công ty trung bình giai đoạn 2003-2006 là 3,336% , tức là cứ một triệu đồng doanh thu chỉ đem lại cho công ty 33.360 đồng lợi nhuận. Còn nếu 1000.000đ đầu tư vào nhập khẩu, chỉ thu được 10.550 đồng lợi nhuận. Như vậy lợi nhuận NK thu được là quá nhỏ, chưa tương xứng với quy mô nhập khẩu của công ty, mặc dù doanh thu tăng nhưng chi phí cũng tăng nên lợi nhuận nhập khẩu tăng không đáng kể. Vì vậy, công ty cần có giải pháp hữu hiệu để giảm chi phí không cần thiết trong khâu nhập khẩu thì sẽ tăng được quy mô về lợi nhuận. Ví dụ như: sử dụng các biện pháp xúc tiến bán hàng, kích thích khả năng tiêu dùng của khách hàng. 4. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng sức lao động: Bảng 12: Hiệu quả sử dụng lao động: STT Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006 1 Tổng Doanh thu Tr.đ 85445 106664 217000 2 Tổng lợi nhuận Tr.đ 3420 3956 4982 3 Quỹ lương Tr.đ 1.012,32 1.606,8 1.926 4 Số lao động Người 76 103 107 5 Thu nhập trung bình/tháng 1000đ 1.110 1300 1500 6 Lợi nhuận / người Tr.đ 45 38,4 46,56 (Nguồn: Tổng hợp số liệu của Công ty giai đoạn 2003-2006) Ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận/người của công ty thay đổi qua các năm, tức là mức đóng góp của 1 người vào lợi nhuận năm 2004 là 45 triệu đồng/người , năm 2005 giảm xuống còn 38,4 triệu đồng/người, đến năm 2006 tăng trở lại và vượt năm 2004, đạt 46,56 triệu đồng/người. Thu nhập của người lao động qua các năm cũng tăng, năm 2004, khi công ty mới cổ phần hoá được 2 năm, thu nhập trung bình chỉ đạt 1110 nghìn đồng nhưng sau 2 năm tiếp theo, thu nhập đã tăng lên 1.500 nghìn đồng, tức là tăng 135%. Nguyên nhân là do lợi nhuận của công ty tăng qua các năm, trình độ trung bình của người lao động tăng và do yêu cầu của việc nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, nếu so với các doanh nghiệp trong ngành thì mức thu nhập trung bình của lao động trong công ty là không cao. Nguyên nhân chính là do công ty có lực lượng lao động thời vụ khá đông đảo, chiếm khoảng 30% lao động của công ty, mà lực lượng này có mức tiền công thấp nên làm cho thu nhập trung bình của công ty giảm đi. Trên thực tế, mức thu nhập của nhân viên tại các phòng ban của công ty năm 2006 khoảng 2.000.000đ/người/tháng. V. Đánh giá chung về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 1. Thành tựu Cũng như nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng được hoạt động trong môi trường chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nhanh nhạy trong việc mở rộng hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp Công ty có thêm nhiều cơ hội trong việc phát triển thị trường nhập khẩu và mở rộng mặt hàng. Sự gia nhập vào ASEAN, APEC và bây giờ là WTO của Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tạo những điều kiện tích cực trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty khi tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này. Điều đó đã tạo ra điều kiện thuận lợi trong việc ký kết các hợp đồng nhập khẩu, tìm được nhiều thị trường có uy tín. Công ty có trụ sở tại số 245-Nguyễn Tam Trinh-Hoàng Mai-Hà Nội và hệ thống các cửa hàng, đại lý nên đã tạo ra thuận lợi trong quá trình giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng và điểm tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, vốn, cán bộ... nhưng những năm qua Công ty cũng đã gặt hái được nhiều thành công, đó là: Tốc độ tăng trưởng của giá trị hợp đồng nhập khẩu không ngừng tăng và đạt ở mức cao, doanh thu nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Do đó, Công ty đã đóng góp không nhỏ vào quá trình lưu thông hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất, tiêu dùng. Thị trường nhập khẩu không ngừng mở rộng: Công ty có quan hệ với hơn 10 nước trên thế giới thông qua các công ty có uy tín bằng việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong quá trình hợp tác Công ty luôn cố gắng duy trì và thiết lập hệ thống bạn hàng tin cậy, ổn định, tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài. Đối với các thị trường truyền thống, Công ty sử dụng các biện pháp để duy trì mối quan hệ làm ăn như việc tiến hành khai thác thị trường theo chiều sâu. Công ty đã xây dựng được cơ cấu tổ chức kinh doanh nhập khẩu tương đối hoàn chỉnh với đội ngũ cán bộ có chuyên môn và trình độ. Ngay từ khâu tuyển chọn Công ty đặt ra một số tiêu chuẩn tuyển nhân viên cũng như chính sách ưu đãi để thu hút nhiều hơn nữa đội ngũ trẻ năng động, có trình độ. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên ngày càng tăng. Công tác tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, hợp đồng xuất khẩu được tiến hành tương đối bài bản. Dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc đã hướng được đội ngũ cán bộ nhân viên nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu chung của công ty đồng thời từng bước nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên. Với chiến lược kinh doanh kết hợp giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá Công ty nhập khẩu rất nhiều hàng hoá nhằm giảm rủi ro nhưng đồng thời cũng tập trung vào một số mặt hàng tạo nên uy tín , thương hiệu của mình để nâng cao sức cạnh tranh. Với chiến lược thực hiện trong nhập khẩu hàng hoá, các chỉ tiêu tính được đều cho thấy Công ty kinh doanh có hiệu quả (tuy không cao lắm) 2. Những khó khăn và những vấn đề còn tồn tại của công ty Trong những năm đầu thực hiện cổ phần hoá, Công ty gặp không ít khó khăn: Cơ sở vật chất không đáp ứng được tốt nhu cầu và đặc biệt là cách thức quản lý và làm việc còn mang nặng tính hành chính bao cấp. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện của rất nhiều đối thủ cạnh tranh ở các ngành, các lĩnh vực mà Công ty đang hoạt động làm thị phần của Công ty giảm, sự biến động rất phức tạp của tỷ giá hối đoái và những thay đổi trong cơ chế, chính sách (xoá độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu, thay đổi thuế xuất nhập khẩu ...) cũng góp phần làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty. Thêm vào đó là hạn chế rất lớn của Công ty ngày càng bộc lộ như nguồn vốn kinh doanh ít so với quy mô kinh doanh của Công ty, do đó hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng và trả lãi suất cao (năm 2006, lãi suất vay ngân hàng tăng) trong điều kiện tỷ lệ lợi nhuận ngày càng thấp. Trong nguồn vốn kinh doanh, vốn vay tín dụng luôn chiếm tỉ lệ khá cao, khoảng 77%, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. Điều này được thể hiện ở việc nhiều hợp đồng nhập khẩu uỷ thác đã phải từ chối vì nguồn vốn của công ty không kịp quay vòng để ký quỹ mở thư tín dụng. Chi phí cho hoạt động nhập khẩu là rất cao dẫn đến doanh thu nhập khẩu tuyệt đối giảm, lợi nhuận giảm, làm ảnh hưởng đến tổng doanh thu của Công ty, đến sự phân phối lương, thưởng chế độ... Chưa có một cơ cấu mặt hàng hợp lý: hầu hết hàng hoá nhập khẩu đều xuất phát từ nhu cầu đầu tư và nhu cầu thị trường nhưng chúng lại không ổn định, nên mặt hàng nhập khẩu vì thế biến động theo nhu cầu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng của giá trị mỗi hợp đồng nhập khẩu. Sử dụng yếu tố đầu vào chưa hiệu quả, chưa có những biện pháp cắt giảm chi phí nhập khẩu. Những mặt hàng nhập khẩu đóng góp giá trị lớn vào tổng doanh thu lại là những mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nên phần hưởng lợi trên mỗi lô hàng này ít. Còn trong hoạt động xuất khẩu, sản phẩm xuất khẩu là hàng nông sản mà chủ yếu là chè, chất lượng chè không cao nên giá trị lô hàng thấp, hơn nữa hoạt động Marketing xuất khẩu không được đầu tư thoả đáng, đa số lô hàng xuất khẩu trong thời gian vừa qua do đối tác nước ngoài đặt hàng chứ công ty chưa chú ý nhiều đến việc chủ động tìm kiếm khách hàng. Chưa tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng nhập khẩu do hoạt động mang tính chất thương vụ. Hạn chế từ nguồn nhân lực: Với kinh nghiệm nắm bắt thực tế, trình độ xử lý các tình huống còn kém, rập khuôn và còn tình trạng người làm không đúng việc đã làm giảm năng suất lao động, từ đó làm giảm hiệu quả. Quá trình thu thập và xử lý thông tin chưa được đầu tư thoả đáng. Việc lập phương án nhập khẩu thì khâu dự báo các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong tương lai chưa được quan tâm nghiên cứu. Chưa có sự đồng nhất giữa từng phương án nhập khẩu với một chiến lược nhập khẩu cho cả giai đoạn. 3. Nguyên nhân của những tồn tại Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Công ty đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng bằng sự vận động linh hoạt, Công ty đã vượt qua những khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để đưa Công ty phát triển. Nguyên nhân đó là: Nguyên nhân thứ nhất là do nguồn lực bên trong còn hạn chế, không chủ động được nguồn vốn, kinh phí đầu tư còn hạn hẹp nên cơ sở vật chất của Công ty chưa đáp ứng được tốt nhu cầu kinh doanh, đôi khi còn làm lỡ cơ hội kinh doanh. Thứ hai, đó là việc thiếu thông tin: Tuy phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác nhưng do mới thành lập nên việc thu thập xử lý thông tin còn yếu kém, chậm so với đối tác dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh. Đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin, do hạn chế về ngân sách nên chất lượng thông tin không cao, thông tin chủ yếu là thông tin thứ cấp, việc thu thập chủ yếu qua sách báo và một số nguồn khác nên chưa mang tính đặc biệt, độc đáo quyết định đến thành công của một thương vụ nhập khẩu. Nguyên nhân tiếp theo phải kể đến đó là dấu ấn hành chính bao cấp còn mang nặng trong phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ nhân viên trong công ty, cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị trái ngành, trái nghề khá nhiều. Chính những điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc. Công ty chưa quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện cho việc tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu trực tiếp. Các cửa hàng kinh doanh mới chỉ tập trung ở Hà Nội, chủ yếu ở địa bàn quận Hai Bà Trưng, Quận Đống Đa tuy có địa thế đẹp, gần các khu đông dân nhưng cơ sở vật chất đã cũ nên không gây được sự chú ý hay sở thích tham quan cũng như mua sắm của khách hàng. Trên đây mới chỉ là một số nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bên trong Công ty nên việc khắc phục nó dễ dàng hơn các nguyên nhân từ bên ngoài hiện có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kinh doanh. Có thể kể đến nguyên nhân khách quan như: sự thay đổi trong chính sách nhập khẩu, thủ tục nhập khẩu rườm rà, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu và đặc biệt là cạnh tranh gay gắt trong những lĩnh vực mà công ty hoạt động. CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG I. Phương hướng Từ khi thành lập đến nay, Công ty đã trải qua rất nhiều bước thăng trầm trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu và phương hướng hoạt động mà Công ty đưa ra cũng khá nhiều, trong đó mục tiêu lớn nhất công ty luôn đặt ra là lợi nhuận thu được từ hoạt động Xuất nhập khẩu và hoạt động kinh doanh nội địa. Sự thành hay bại của mục tiêu này phụ thuộc vào việc nó có cụ thể linh hoạt, hợp lý, khả thi, nhất quán và hợp pháp hay không. Đánh giá mục tiêu, phương hướng và kết quả đạt được trong thời gian qua cho thấy các chỉ tiêu mà Công ty đều đạt hoặc vượt kế hoạch chứng tỏ Công ty đã có sự nghiên cứu kỹ lưỡng khi đưa ra kế hoạch và mục tiêu, những kế hoạch này đã đảm bảo sự chính xác linh hoạt, có tính khả thi, phù hợp với khả năng của mình. Tại báo cáo tổng kết cuối năm 2006, Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động cho năm 2007 và cho giai đoạn tiếp theo đến năm 2010, nếu hoạt động kinh doanh tốt sẽ tạo đà phát triển cho những năm sau như vươn lên giành thị phần, đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, qua đó tăng lợi nhuận. Trước xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước với thế giới đặc biệt với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007 này, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng không thể không chuyển dịch cơ cấu hoạt động sang hướng sản xuất hàng xuất khẩu thu ngoại tệ, tận dụng những chính sách ưu đãi của Nhà nước, phát huy nội lực, năng lực trí tuệ của toàn cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm mục đích đưa công ty phát triển vững mạnh trong nền kinh tế nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Căn cứ vào kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch các năm qua, sự đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất kinh doanh trong năm 2006 Công ty phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu chung như sau: Năm 2007 Công ty phấn đấu tăng doanh thu lên 250 tỷ đồng; nộp ngân sách 30 tỷ đồng; tăng kim ngạch xuất khẩu lên 1.500.000 USD; lợi nhuận tăng lên 6,5 tỷ đồng, nâng tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu lên 2,6%; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 200 tỷ đồng và doanh thu lĩnh vực xây dựng tăng lên 25 tỷ đồng; giám sát việc thi công xây dựng nhà máy chế biến đá granit xuất khẩu tại Thái Nguyên tháng 11,12/2007 đi vào hoạt động. Với hoạt động nhập khẩu Công ty đề ra chỉ tiêu cho cả vấn đề mở rộng thị trường và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, loại hình nhập khẩu theo hướng có hiệu quả cao nhất. Về thị trường nhập khẩu: nhập khẩu chiếm tỉ trọng khá cao trong cơ cấu doanh thu của công ty nhưng lợi nhuận thu được từ hoạt động này không cao nên công ty ngoài việc duy trì mối quan hệ buôn bán với những thị trường truyền thống thì cũng tìm kiếm những thị trường mới có khả năng sinh lợi cao hơn. Về loại hình nhập khẩu: Trong năm 2007, công ty sẽ chú trọng hơn tới việc phát triển hình thức nhập khẩu trực tiếp để tăng nhanh hơn lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu đồng thời cũng gia tăng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu uỷ thác. Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: Tăng tỷ trọng của nhóm hàng máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu hiện đại hoá của các cơ quan, các doanh nghiệp, đa dạng hoá các mặt hàng nhập khẩu. Với hoạt động xuất khẩu: Chỉ tiêu chung cho hoạt động xuất khẩu năm 2007 là 1.500.000 USD, tức là tăng khoảng 180% so với năm 2006, công ty dự định sẽ nâng cao chất lượng chè xuất khẩu để gia tăng giá trị lô hàng đồng thời sẽ tìm kiếm thêm mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường xuất khẩu mới, thông qua đó tăng kim ngạch xuất khẩu. Về thị trường kinh doanh Thị trường trong nước: Định hướng và mục tiêu phát triển sẽ là: Mở rộng thị trường trong nước, xây dựng thêm cửa hàng, đại lý ở các quận trong thành phố và ở các tỉnh khác. Thị trường nước ngoài: Củng cố mối quan hệ kinh doanh với các khách hàng truyền thống đồng thời tìm kiếm thêm khách hàng mới trong lĩnh vực xuất khẩu. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực: Biên chế và cơ cấu lao động của Công ty năm 2006 là 107 người trong đó lao động có trình độ đại học chiếm tỉ lệ 50%, khá cao nhưng cũng đòi hỏi công ty cần có những biện pháp để nâng cao trình độ nhân viên trước yêu cầu ngày càng cao về trình độ của hoạt động kinh doanh đặc biệt lại là lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì thế, Công ty đang có hướng đào tạo nâng cao trình độ cho toàn thể cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ thuộc phòng xuất nhập khẩu. II. Các giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Trước những thực trạng trên, trong thời gian tới để hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển và nâng cao được hiệu quả hoạt động, Công ty cần tổ chức phối hợp thực hiện đồng bộ một số biện pháp sau: 1. Về hoạt động nghiên cứu thị trường 1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước Nghiên cứu thị trường trong nước nhằm phát hiện nhu cầu về sản phẩm cần xuất nhập. Đây là một nhiệm vụ hết sức cần thiết và cần được đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu thị trường trong nước phục vụ cho hoạt động nhập khẩu vì đây chính là thị trường tiêu thụ. Hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước tốt sẽ giúp công ty có được những thông tin về cung, cầu trên thị trường, nhu cầu về chủng loại hàng nào và số lượng bao nhiêu và đưa ra được chiến lược nhập khẩu thích hợp, tránh tình trạng nhập khẩu nhiều mặt hàng điện dân dụng như năm 2006 dẫn đến tình trạng định giá thấp hơn giá thị trường để thu hồi vốn. Công ty có thể lựa chọn cách mua các kết quả nghiên cứu thị trường của các công ty chuyên về nghiên cứu thị trường hoặc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu thị trường như thông qua phỏng vấn, bảng hỏi, quan sát, sách báo, tạp chí, internet,… Ngoài ra, để tiếp cận với khách hàng công ty cũng nên tiến hành các hoạt động quảng cáo cho công ty đặc biệt là một số sản phẩm mà công ty là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam. Một chính sách quảng cáo tốt không những sẽ làm tăng doanh số hoạt động kinh doanh nội địa mà còn làm cho khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tin tưởng khả năng kinh doanh của công ty và như vậy sẽ làm tăng sự tin tưởng của khách hàng uỷ thác cho Công ty nhập các hàng hoá cần thiết cho họ. Bên cạnh đó, công ty cũng có thể tìm hiểu kỹ nhu cầu về những mặt hàng mà công ty vốn nhận nhập khẩu uỷ thác trong những năm qua để có kế hoạch nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh, nâng cao tỷ suất lợi nhuận chứ không chỉ dừng lại ở nhập khẩu uỷ thác và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, để phục vụ cho hoạt động xuất khẩu, Công ty cũng cần nghiên cứu, tìm hiểu để thu mua được loại sản phẩm có chất lượng cao, nâng giá trị lô hàng xuất đồng thời nâng cao được tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu trên chi phí và doanh thu, hoàn thành chỉ tiêu nâng kim ngạch xuất khẩu lên 1.500.000 USD. 1.2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài Đây là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với công ty, tuy nhiên trong hoạt động của mình, Công ty cũng đã chú ý tới khâu này nhưng mới chỉ tiến hành ở mức độ chung khái quát như nắm tình hình chung về kinh tế, chính trị, xã hội ở thị trường nhập khẩu đó, về bạn hàng cũng chỉ nắm sơ qua loại hình doanh nghiệp của họ, về bên đại diện của họ, mối quan hệ của họ với mình. Do đó, kết quả đem lại chưa cao, vẫn có trường hợp hàng hoá nhập khẩu với giá cao hơn mà lẽ ra Công ty có thể mua với giá thấp hơn của nhà cung ứng khác với cùng mặt hàng và chất lượng. Trong thời gian tới, Công ty cần đẩy mạnh hơn công tác này, cần đi vào nghiên cứu cụ thể hơn, cần nắm bắt nhu cầu của thị trường đó, nắm rõ uy tín, cơ sở vật chất kĩ thuật và nhất là tình hình kinh doanh nội tại của bạn hàng cần giao dịch, xác định rõ phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch của bên bạn hàng...nếu làm tốt những việc này công ty sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Nghiên cứu thị trường thế giới sẽ giúp cho công ty tìm được những bạn hàng mới, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, chủ động kí kết hợp đồng trực tiếp với các hãng trực tiếp sản xuất, hạn chế giao dịch hợp đồng qua các trung gian nhằm giảm bớt các chi phí không cần thiết. Thời gian qua Công ty mới chỉ quan hệ với một số thị trường Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,… và khối EU thì có Anh, Pháp, Na Uy,… Trong những năm tới vấn đề mở rộng quan hệ với thị trường khu vực Bắc Mỹ là rất cần thiết trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO như hiện nay nếu không công ty sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh trên thị trường này. Hoạt động Marketing quốc tế cần được chú trọng hơn nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Công ty cần chủ động hơn nữa trong việc tìm đối tác chứ không chỉ dừng lại ở việc thực hiện các đơn đặt hàng một cách thụ động. Có như vậy mới gia tăng được qui mô xuất khẩu, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Công ty có thể thu thập thông tin về thị trường nước ngoài thông qua sách báo, internet, qua đại sứ quán của nước dự định nhập khẩu tại Việt Nam hoặc Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó, cũng có thể thông qua các mối quan hệ quen biết,… 2. Lựa chọn mặt hàng kinh doanh Từ năm 2007 Việt Nam đã gia nhập WTO, thuế rất nhiều mặt hàng sẽ giảm, công ty sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn do gia tăng số lượng nhà nhập khẩu. Vì thế sẽ khó hoàn thành kế hoạch đặt ra nếu như không tính toán kỹ lưỡng, xác định được cơ cấu nhập khẩu hợp lý cũng như sự thay đổi về nhu cầu của mỗi sản phẩm. Việc đa dạng hoá mặt hàng sẽ giúp Công ty đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thị trường đồng thời giảm rủi ro khi có biến động xấu trên thị trường, nâng cao được tên tuổi, địa vị, uy tín của Công ty. Tuy vậy, với mặt hàng được coi là truyền thống cần có sự đổi mới, nắm bắt tình hình, đón trước nhu cầu thị trường để đảm bảo việc nhập khẩu được liên tục, khai thác các lợi thế cạnh tranh của công ty, tránh việc để mất thị trường vào tay đối thủ cạnh tranh. Trong hoạt động nhập khẩu, công ty có thể tăng giá trị mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nhưng để tăng lợi nhuận nhanh hơn thì công ty cần chú ý hơn đến các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp vì các mặt hàng này có lợi nhuận cao hơn nhiều (gấp 3 lần) so với lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu uỷ thác. Trước hết cần phải có được những thông tin chính xác từ hoạt động nghiên cứu thị trường, dự đoán cung cầu trong giai đoạn tiếp theo và đưa ra kế hoạch nhập khẩu. Do vậy, Công ty cần phải hiểu rõ mục tiêu chiến lược của mình để lựa chọn mặt hàng chủ lực và có thể kinh doanh thêm một số mặt hàng khác nhằm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận cho Công ty. Để kinh doanh thêm mặt hàng mới Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Ngoài những yếu tố trên, công ty cần quan tâm đến chu kỳ sống của sản phẩm nhập khẩu, xác định nó đang nằm trong giai đoạn nào để có những chiến lược Marketing thích hợp, không bị lãng phí chi phí hay mua sản phẩm không ngang bằng giá trị của nó. 3. Lựa chọn bạn hàng Đối với hoạt động nhập khẩu, trên thị trường, số lượng nhà cung cấp là rất nhiều, mỗi nhà cung cấp có vị thế thương hiệu, uy tín khác nhau nên ngoài những nhà cung cấp truyền thống, công ty cần tìm hiểu và lựa chọn nhà cung ứng nào có uy tín và có những chính sách có lợi nhất cho Công ty. Đối với hoạt động xuất khẩu cũng vậy, số lượng nhà cung ứng trong cả nước về mặt hàng xuất khẩu của công ty cũng rất nhiều, công ty cũng cần tìm kiếm thêm các nhà cung ứng và lựa chọn được nhà cung ứng có thể đảm bảo về chính sách giá và nhất là phải đảm bảo được về chất lượng đáp ứng được những yêu cầu khắt khe trong điều kiện hội nhập ngày nay. Việc lựa chọn khách hàng cũng rất quan trọng, việc công ty chủ động tìm kiếm những khách hàng mới thông qua quảng cáo, gửi thư chào hàng sẽ giúp tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, Công ty rất cần phải tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài về quá trình phát triển của họ, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, năng lực tài chính, uy tín của họ trên thị trường,...Đây là những điều kiện hết sức quan trọng vì trong kinh doanh, nhất là trong thời đại hiện nay, mọi doanh nghiệp đều tham gia kinh doanh, trong đó có cả các công ty “ma” hay những công ty có nguy cơ phá sản. Như vậy, nếu chúng ta tìm hiểu kỹ đối tác nước ngoài thì sẽ giúp chúng ta tránh được nhiều rủi ro trong nhập khẩu hàng hoá. 4. Giảm chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh là nhân tố cấu thành nên giá thành, quyết định đến giá bán của hàng hoá, doanh thu và lợi nhuận thu được. Chi phí tăng cao sẽ đẩy giá bán lên cao hoặc làm giảm lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm. Chi phí cho hoạt động kinh doanh của công ty là rất lớn đặc biệt là chi phí nhập khẩu của Công ty cho nên lợi nhuận nhập khẩu thu về là thấp không tương xứng với quy mô kinh doanh của Công ty. Do đó, tiết kiệm chi phí, cắt giảm những chi phí không cần thiết là việc làm tất yếu đối với Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh Công ty luôn phải tìm cách giảm tối đa chi phí có thể bằng cách đến từng khâu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và xem xét xem chi phí nào là chưa hợp lý qua đó tìm ra nguyên nhân làm tăng chi phí để có biện pháp khắc phục kịp thời. 5. Nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công nhân viên Hiện nay, cán bộ công nhân viên của Công ty đa số còn trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề nên kinh nghiệm cũng còn một số hạn chế khi tiến hành hoạt động nhập khẩu. Vì thế, điều đầu tiên là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương cho đội ngũ cán bộ thông qua hình thức bồi dưỡng, đào tạo lại và tuyển dụng mới. Để làm được điều này Công ty cần có những biện pháp sau: - Thường xuyên gửi các cán bộ, nhân viên trẻ có năng lực đi học tập nghiên cứu ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước. - Đào tạo chuyên môn cho đội ngũ mới vào nghề, giúp họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu từ công tác chuẩn bị hồ sơ ban đầu đến thực hiện tốt nghiệp vụ giao nhận hàng hoá. Phong cách làm việc kém năng động, vẫn còn mang dấu ấn hành chính bao cấp là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng hoạt động kém hiệu quả của công ty. Do đó, biện pháp thay đổi phong cách làm việc của nhân viên trong công ty là điều rất cần thiết. Nếu làm được như vậy, chắc chắn hiệu quả hoạt động của công ty sẽ tăng lên rất nhanh. KẾT LUẬN Cùng với tiến trình phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng kể từ sau khi cổ phần hoá đã hoà nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế đất nước và kinh tế thế giới. Trong những năm vừa qua công ty đã đạt được nhiều thành công, khẳng định được hướng đi đúng đắn và vị trí của mình trên thị trường trong và ngoài nước đồng thời tạo thêm việc làm cho khá nhiều lao động và nâng cao đáng kể đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. Những thành công này có được là nhờ sự cố gắng của toàn thể thành viên trong công ty. Tuy nhiên bên cạnh đó, công ty cũng không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót nhất định trong quá trình phát trỉên đi lên. Thông qua bài báo cáo này, em đã đưa ra những thông tin về công ty nói chung và hoạt động kinh doanh của công ty nói riêng. Đồng thời cũng đưa ra những phân tích về thực tế tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, những thành tựu đạt được, những bất cập còn tồn tại và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của công ty. Giai đoạn thực tập tổng hợp này em đã thu được khá nhiều kiến thức thực tế về hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đồng thời nó cũng giúp em củng cố những kiến thức đã được học trên lớp. Những kiến thức bổ ích này chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc của em sau khi ra trường. Phương hướng lựa chọn đề tài: Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng là một công ty hoạt động trên các lĩnh vực: Xuất, Nhập Khẩu, Xây Dựng nhưng hoạt động nhập khẩu chiếm ưu thế (trên 80% doanh thu của công ty). Trong quá trình hoạt động đến nay, công ty còn tồn tại nhiều bất cập do gặp không ít khó khăn từ môi trường hoạt động và những nguyên nhân mang tính chất chủ yếu nhất xuất phát từ chính bản thân công ty. Những điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của công ty thường thấp hơn các doanh nghiệp trong ngành. Điều này được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động mà nhất là chỉ tiêu về hiệu quả trong lĩnh vực nhập khẩu. Trong quá trình thực tập tổng hợp vừa qua, em đã thu thập được khá nhiều số liệu nhưng chủ yếu là về lĩnh vực nhập khẩu. Với mong muốn đóng góp một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng của công ty, em dự định chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng” cho chuyên đề tốt nghiệp. Em rất mong nhận được ý kiến nhận xét của thầy về đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35453.DOC
Tài liệu liên quan