Quá trình thưc hiện xuất khẩu lao động tại Công ty dịch vụ và thương mại

Chủ trương của nhà nước ta hiện nay là tiếp tục củng cố, ổn định và phát triển thị trường cũ, nơi hiện nay đang có lao động Việt nam làm việc như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Lào, LiBi.Đồng thời xúc tiến tích cực nhằm khai thông các thị trường mới như Brunei, Hồng Kông, một số nước Châu Mỹ La tinh và các vùng vịnh. Sẽ thí điểm đưa một số lao động sang một số nước như Cô Oet, Ả rập, Emirite và Ả rập xê út. Chuẩn bị các điều kiện để ký kết các nghị định thư với Liên Bang Nga, Cộng hoà Séc và nghị định thư sửa đổi hiệp định với Lào, tiến tới việc củng cố và phát triển cung ứng lao động cho các thị trường này. Tiếp tục đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động sĩ quan, thuỷ thủ tàu vận tải biển và chuyên gia tàu cá. Gia tăng đưa các chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài không chỉ trong lĩnh vực giáo dục, y tế mà ngay cả trong

doc43 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình thưc hiện xuất khẩu lao động tại Công ty dịch vụ và thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay nhà nước ta có mở rộng 1.600 dự án đầu tư. Chủ trương phát triển nông nghiệp toàn diện, đánh bắt cá xa bờ, trồng mới 5 triệu ha rừng để thu hút sức lao động , nhưng sức ép về việc làm trong những năm tới vẫn còn rất lớn, thiếu việc làm, nhất là đối với lớp trẻ nảy sinh không biết bao nhiêu tệ nạn xã hội. Giải quyết việc làm cho thanh niên là mục tiêu hàng đầu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ trương mang tính chiến lược là tạo mọi điều kiện để giải quyết việc làm cho thanh niên. Trong đó phải nói đến chủ trương của Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt nam đi làm việc thời hạn ở nước ngoài hay gọi là xuất khẩu lao động. Chủ trương đúng đắn, hợp lý này của nhà nước đã làm tăng thêm số người được giải quyết việc làm mỗi năm, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị, thiếu việc làm còn quá cao ở nông thôn. Như vậy, xuất khẩu lao động vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết một phần tệ nạn cho xã hội, vừa mang tính chất kinh tế, người lao động có thu nhập cao. Thực hiện dân giàu nước mạnh, nhà nước thu được ngoại tệ – có thêm tiền để xây dựng các công trình cho công cuộc kiến thiết đất nước, và điều quan trọng nữa là khi người lao động ra làm việc ở nước ngoài tay nghề được nâng cao, tiếp thu được tính kỷ luật trong lao động công nghiệp, khi hết hạn về nước góp phần xây dựng đất nước. Công tác tại đơn vị có chức năng xuất khẩu chuyên gia và lao động, tôi chọn đề tài "Xuất khẩu lao động " để viết thu hoạch thực tập của mình. Ngoài phần mở đầu thu hoạch thực tập gồm 3 chương: Chương I: Vai trò của việc xuất khẩu lao động trong phát triển nền kinh tế quốc dân Chương II: Quá trình thưc hiện xuất khẩu lao động tại Công ty dịch vụ và thương mại Chương III: Một số ý kiến đề xuất trong vấn đề xuất khẩu lao động Qua đây em xin chân thành cảm ThS. Đặng Thị Nhàn đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. CHƯƠNG I VAI TRÒ CỦA VIỆC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN I.VAI TRÒ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên. Như Mác đã nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất, điều đó có nghĩa là không thể thiếu lao động. Lao động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động càng tiến bộ. Đối với Việt Nam, khi đất nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động phải được đánh giá ở nhiều khía cạnh mới, cụ thể là: Trước hết, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của con người phải được coi trọng. Bởi vì lao động là biểu hiện bản chất của con người còn lợi ích của người lao động là vấn đề nhạy cảm nhất, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ con người với con người, quan hệ cá nhân với xã hội. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì lao động được xem xét trên các khía cạnh năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thứ ba là, bất kỳ một hình thức lao động nào của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu xã hội, tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích đảm bảo nuôi sống mình, không ăn bám vào người khác và xã hội, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được coi là có ích. Xuất khẩu lao động là hoạt động xuất khẩu sức lao động hay người lao động với trình độ tay nghề và sức lao động sang một nước khác. Chính vì vậy mà Xuất khẩu lao động hay xuất khẩu sức lao động liên quan trực tiếp đến nguồn lao động của mỗi một quốc gia. Xuất khẩu lao động là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Đặc điểm của xuất khẩu lao động. Xuất khẩu hàng hoá sức lao động của con người: Xuất khẩu lao động không chỉ là hoạt động xuất khẩu hàng hoá đơn thuần mà là xuất khẩu hàng hoá đặc biệt vì đó là hoạt động xuất khẩu sức lao động của con người. Người lao động được xuất khẩu sang một nước khác thì gọi là xuất khẩu lao động. Như Mác đã nói: Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt và chính nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Chính vì vậy xuất khẩu lao động cũng chính là hoạt động đưa người lao động sang nước ngoài thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nước ngoài. Thời gian xuất khẩu có hạn: Thật vậy, việc người lao động ra nước ngoài làm việc chỉ có thể được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này là một đặc điểm đặc trưng của hoạt động xuất khẩu lao động mà không một hoạt động xuất khẩu hàng hoá nào có thể có được. Điều này bắt nguồn từ việc liên quan đến con người, vì vậy liên quan đến quốc tịch, tâm lý, chính trị, quản lý con người... Xuất khẩu lao động thực hiện bằng hợp đồng: Tất cả mọi hoạt động xuất khẩu lao động đều phải thực hiện bằng hợp đồng lao động. Đây là một hoạt động cần thiết và bắt buộc bởi lẽ hoạt động xuất khẩu liên quan trực tiếp đến con người, nên hợp đồng không những bảo vệ người sử dụng lao động mà còn bảo vệ chính người lao động được xuất khẩu. Và chính hợp đồng xuất khẩu lao động là loại hợp đồng có nhiều điều khoản quan trọng nhất: điều kiện từ người lao động, điều kiện làm việc ở nước nhập khẩu, điều kiện sử dụng trình độ người lao động, 3. Vai trò của xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động đem lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế – xã hội, góp phần tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước đồng thời là một biện pháp giải quyết sức lao động dôi thừa ở trong nước trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp, lực lượng lao động dồi dào, trong khi đó vốn đầu tư cho nền kinh tế còn thiếu hụt, do vậy cần phải đẩy mạnh xuất khẩu trong đó có xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là nguồn thu ngoại tệ tương đối lớn cho nhà nước, trong khi chi phí cho việc xuất khẩu lao động lại rất thấp. Xuất khẩu lao động còn là tiền đề cho một loạt dịch vụ khác. Những namư trước đây khi số lao động Việt nam tại một số nước Đông Âu lên con số vài vạn người, các hoạt động dịch vụ trong nước rất nhộn nhịp. Tiền và hàng hoá do lao động Việt nam gửi về nước đã đóng góp vai trò to lớn trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ và nó đã có vị trí như là nguồn đầu tư sớm cho sự phát triển kinh tế sau này. Hiệu quả xã hội trước hết và to lớn nhất là giải quyết được một phần quan trọng tình trạng thất nghiệp. Đây là một ý nghĩa sâu sắc với tình trạng xã hội ở nước ta. Trong quá trình làm việc ở nước ngoài, được tiếp cận với nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến, trình độ hiểu biết và tay nghề của người lao động được nâng lên. Đây là nguồn dự trữ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ những năm 1970 nước ta đã bắt đầu xuất khẩu lao động. Chỉ kể từ năm 1991 đến nay, Việt nam đã xuất khẩu 108.440 lao động và chuyên gia sang gần 50 thị trường, ở các lĩnh vực dịch vụ, lao động trong các công trường, xí nghiệp, lao động trên biển. Lao động xuất khẩu có tay nghề hiện đã chiếm 70%. Thu nhập trung bình (sau khi trừ chi phí) của một lao động khoảng 650USD/tháng. Người lao động cũng đã gửi về nước lượng ngoại tệ không nhỏ. Ngoài ra 25.000 người đang làm việc ở nước ngoài đã giúp Việt nam tiết kiệm khoảng 3.000 tỷ đồng cho dạy nghề, đào tạo và chỗ làm việc mới. Chủ trương của nhà nước ta hiện nay là tiếp tục củng cố, ổn định và phát triển thị trường cũ, nơi hiện nay đang có lao động Việt nam làm việc như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Lào, LiBi...Đồng thời xúc tiến tích cực nhằm khai thông các thị trường mới như Brunei, Hồng Kông, một số nước Châu Mỹ La tinh và các vùng vịnh. Sẽ thí điểm đưa một số lao động sang một số nước như Cô Oet, Ả rập, Emirite và Ả rập xê út. Chuẩn bị các điều kiện để ký kết các nghị định thư với Liên Bang Nga, Cộng hoà Séc và nghị định thư sửa đổi hiệp định với Lào, tiến tới việc củng cố và phát triển cung ứng lao động cho các thị trường này. Tiếp tục đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động sĩ quan, thuỷ thủ tàu vận tải biển và chuyên gia tàu cá. Gia tăng đưa các chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài không chỉ trong lĩnh vực giáo dục, y tế mà ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp cho các nước Châu Phi đang có nhu cầu. Dự kiến trong năm 2000, Việt nam xẽ xuất khẩu 25.000 lao động góp phần giải quyết lượng lao động bổ sung rất lớn vào lực lượng lao động của Việt nam sang các thị trường chiến lược như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản II. TỔ CHỨC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA. 1. Tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta Xuất khẩu lao động là một hiện tượng người lao động bán sức lao động của mình cho người nước ngoài, ở nước ngoài để kiếm sống trong khoảng thời gian nhất định theo như ký kết trong hợp đồng lao động. ậ Việt nam việc di chuyển sức lao động ra nước ngoài được thực hiện thông qua các tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc các hiệp định ký kết giữa hai chính phủ, hai bộ chủ quản. Theo nghị định 07/CP ngày 20/01/1995 của Chính Phủ (tại điều 8, chương 3) các doanh nghiệp Việt nam có đủ điều kiện sau đây sẽ được Bộ Lao động Thương Binh xã hội xem xét và cấp giấy phép hoạt động đưa lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài: Doanh nghiệp Việt nam có vốn lưu động từ 1 tỷ đồng trở lên. Am hiểu thị trường lao động, luật nhập cư của nước nhập lao động và pháp luật quốc tế có liên quan. Bộ máy cán bộ có năng lực và ngoại ngữ. Tính đến tháng 05/1999 đã có trên 50 doanh nghiệp được nhà nước cấp giấy phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó Hà nội có 26 đơn vị, Hải Phòng có 5 đơn vị, Thành phố Hồ Chí Minh 9 đơn vị, Đà Nẵng 1 đơn vị, Phú Thọ 1 đơn vị, Quảng Ninh 1 đơn vị, Quảng Bình 1 đơn vị. Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu mở rộng xuất khẩu lao động Nghị quyết TW 4, khoá VIII đã nêu rõ: “Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và thị trường mưói. Cho phép mọi thành phần kinh tế đều được tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chạt chẽ của nhà nước”. 2. Điều kiện xuất khẩu lao động Như vậy trong thời gian tới ngoài những doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện sẽ có các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau được phép tham gia hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Các điều kiện được xuất khẩu lao động: Công dân Việt nam đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực pháp lý và năng lực hành vi, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ công dân theo pháp luật, tự nguyện đi làm ở nước ngoài, có đủ sức khoẻ, trình độ học vấn, nghề nghiệp và ngoại ngữ theo đúng yêu cầu của hợp đồng. Quyền lợi của người lao động Người lao động có quyền: được cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin về việc làm, nơi làm việc, thời hạn hợp đồng điều kiện làm việc và điều kiện sinh hoạt, tiền lương và tiền thưởng, bảo hiểm và những thông tin cần thiết khác trước khi ký hợp đồng lao động. Được hưởng các quyền lợi ghi trong hợp đồng đã ký kết và các văn bản khác có liên quan mà Việt nam và nước sở tại đã thoả thuận. Được cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt nam ở nước ngoài bảo hộ các quyền lợi và lợi ích chính đáng phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật nước sở tại, phù hợp với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tê. Được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội và chính sách, chế độ khác có liên quan theo quy định của pháp luật Việt nam. Được mang ra nước ngoài hoặc đưa về nước những công cụ làm việc cần thiết của cá nhân, được chuyển thu nhập ngoại tệ và tài sản cá nhân về nước theo hiệp định, hợp đồng đã ký với bên ngoài theo pháp luật hành của Việt nam và nước sở tại. Có quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nước sở tại về những vi phạm hợp đồng của bên sử dụng lao động hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bản thân. Được cấp sổ lao động, sổ lương và số bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật Việt nam. Nghĩa vụ của người lao động: Người lao động có nghĩa vụ ký hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với tỏ chức kinh tế tuyển dụng mình, ký hợp đồng với bên sử dụng lao động xuất khẩu (nễu có) và chấp hành đầy đủ các hợp đồng. Nộp phí dịch vụ cho tổ chức kinh tế tuyển chọn theo quy định của chính phủ Việt nam. Nộp tiền đặt cọc cho tổ chức kinh tế tuyển chọn, mức đặt cọc không vượt quá số tiền một lượt vé máy bay từ Việt nam tới nước sở tại. Nộp tiền bảo hiểm xã hội (BHXH) theo quy định củ chính phủ Việt nam thông qua tổ chức kinh tế tuyển chọn. Nộp thuế thu nhập theo quy định của chính phủ. Chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do bản thân vi phạm hợp đồng, theo luật pháp của nươc Việt nam và nước sở tại. Giữ gìn bí mật quốc gia, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chấp hành nghiêm chỉnh cá quy định của Nhà nước Việt nam về quản lý công dân ở nước ngoài,chịu sự quản lý của tổ chức tuyển chọn mình. CHƯƠNG II QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VIỆC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI I. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 1. Tìm kiến thị trường và lựa chọn đối tác * Tìm kiếm thị trường. Bằng những hoạt động marketing của mình, bên xuất khẩu lao động phải xác định khả năng cung ứng lao động của mình. Khả năng này có nguồn gốc từ các ngành nghề, nhà máy, xí nghiệp và cả về lực lượng lao động tự do rất dồi dào của thị trường trong nước. Bên xuất khẩu lao động phải có trong tay số liệu tương đối chính xác về số lượng người lao động trình độ, chủng loại.. để sẵn sàng đáp ứng thị trường nhập khẩu lao động nước ngoài. Bên cạnh những hoạt động marketing trong nước, bên xuất khẩu lao động phải thực hiện hoạt động marketing ở nước ngoài nhằm mục đích tìm kiếm đối tác và khả năng của họ (khả năng nhập về số lượng, loại nghề, trình độ...). * Lựa chọn đối tác. Người làm công tác xuất khẩu lao động đóng vai trò như là chiếc cầu nối giữa lực lượng lao động trong nước và thị trường nhập khẩu sức lao động ngoài nước. Nguồn lao động trong nước dồi dào về số lượng, phong phú về chủng loại là một điều kiện thuận lợi cho người xuất khẩu lao động lựa chọn cơ sỏ nào là đối tác phù hợp nhất. Thị trường nhập khẩu sức lao động ngoài nước không phải lúc nào cũng mở rộng tiếp nhận lao động từ bên ngoài. Do vậy, để tìm được một đối tác bên ngoài là cả một quá trình marketing đầy công phu. Tuy nhiên, người làm công tác xuất khẩu lao động khi ký kết hợp đồng lao động với bất kỳ đối tác nào đều phải nghiên cứu kỹ. Tìm hiểu, xác định rõ khả năng của đối tác về các mặt như: tư cách pháp nhân, khả năng thanh toán, khả năng thực hiện nhập cư cho lao động, tình hình chính trị... tại nước mà người lao động sẽ đến. 2 . Ký kết hợp đồng. Như trên đã trình bày, người làm công tác lao động đóng vai trò chiếc cầu nối giữa thị trường sức lao động trong nước với thị trường nước ngoài. Việc ký kết một hợp đồng xuất khẩu lao động chỉ xảy ra sau khi đã lựa chọn đối tác thích hợp. Hợp đồng xuất khẩu lao động, thực chất là một hợp đồng ngoại thương, yêu cầu các điều khoản và các điều kiện phải chặt chẽ. Tuy nhiên, đối tác của hợp đồng là loại hàng hoá đặc biệt cho nên phải đặc biệt chú trọng tới các điều khoản và điều kiện mang tính đặc thù. II NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG. 1. Đối tượng hợp đồng. Trong phần này, hai bên phải thống nhất về chủng loại lao động, ngành nghề cụ thể, trình độ tay nghề, giới tính, yêu cầu về ngôn ngữ, số lượng, độ tuổi, thời gian giao nhận... 2. Địa điểm làm việc. Quy định rõ địa chỉ cụ thể mà người lao động sẽ tới làm việc. Trong điều khoản này, bên xuất khẩu lao động phải quy định rõ “ không đưa lao động tới làm việc tại những nơi mà không có sự thoả thuận giữa hai bên bằng văn bản” và ”không đưa lao động tới làm việc những nơi có tranh chấp về lãnh thổ hoặc những nới có chiến sự”. Những điều kiện này nhằm mục đích đảm bảo an toàn cho người lao động. 3. Thời hạn làm việc. Thông thường một số nước chỉ cấp giấy phép cư trú tối đa cho người lao động xuất ngoại là hai năm. Đặc biệt có những nước, ví dụ Nhật Bản, chỉ cho phép cư trú từ 6 tháng tới 1 năm. Tuy vậy, trong thời gian cư trú, người lao động có thể gia hạn cư trú (với sự giúp đỡ của bên nhận lao động). Trong trường hợp xuất khẩu lao động phải ghi rõ thời gian làm việc phù hợp với thông lệ cư trú của nước đó. Nếu khác thì sẽ gặp khó khăn trong việc xin cấp thị thực nhập cảnh. Thời gian làm việc phải được tính từ ngày người lao động tới nước nhập khẩu lao động, vì vấn đề này liên quan đến việc trả lương cho người lao động. Cũng như vậy, thời gian chấm dứt hợp đồng phải được tính kể từ ngày người lao động rời khỏi nước nhập khẩu lao động. 4. Trách nhiệm tuyển chọn lao động. Do điều kiện đi lại, thủ tục ngoại giao chậm trễ hoặc khó khăn, bên nhận lao động có thể uỷ thác cho bên xuất khẩu lao động tuyển chọn lao động bằng một điều khoản trong hợp đồng xuất khẩu lao động. Trong trường hợp này, bên xuất khẩu lao động phải quyđịnh ngược lại bằng một điều khoản tiếp theo, có thể ghi “Bên nhận lao động hoàn toàn chấp thuận với việc tuyển chọn của bên xuất khẩu lao động theo các quy định tại điều .. của hợp đồng này”. Như vậy sẽ tránh được những tranh chấp sau này về những quy định ghi tại điều khoản về “Đối tượng của hợp đồng”. Tuy nhiên, phần lớn hợp đồng xuất khẩu lao động đều ghi “Bên xuất khẩu lao động sẽ thực hiện việc tuyển chọn cơ bản. Bên nhập khẩu lao động sẽ lựa chọn đối tượng phù hợp trong số những người đã sơ tuyển” hoặc “Bên nhập khẩu lao động sẽ trực tiếp tuyển chọn với sự trợ giúp của bên xuất khẩu lao động”. Với quy định như vậy, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về bên nhập khẩu lao động. 5. Trách nhiệm vận chuyển. Để tới được nơi làm việc, người lao động sẽ phải trải qua ba chặng đường: Từ địa điểm tập trung trong nước tới sân bây nội địa Từ sân bay nội địa đến sân bay nước nhập khẩu lao động Từ sân bay nước nhập khẩu lao động tời nơi làm việc Bên xuất khẩu lao động sẽ chịu trách nhiệm trong chặng đường thứ nhất. Bên nhập khẩu lao động sẽ chịu trách nhiệm trong chặng đường thứ ba Chặng đường thứ hai là đối tượng của đàm phán. Trong khi đàm phán trách nhiệm vận chuyển của chặng đường thứ hai, bên xuất khẩu lao động tìm cách đàm phán cho được điều kiện “Bên nhập khẩu lao động chịu chi phí cho người lao động hai lượt vé máy bay” hoặc ít ra là “bên nhập khẩu lao động sẽ chịu chi phí máy bay lượt đi cho người lao động”. 6. Lương của người lao động - thanh toán - Chế độ thưởng lương. Hai bên phải thống nhất mức lương cho từng loại lao động hoặc mức lương thấp nhất. Bên xuất khẩu lao động phải tham khảo mức lương cìng loại công nhân nước mà người lao động sẽ đến làm việc để đàm phán. Ngoài ra cong phải tham khảo mức lương của cùng loại nghề mà đã được áp dụng ở những nước khác. Hiện nay không có nước nào trả dưới 150 USD một tháng cho bất cứ một loại nghề nào. Thanh toán: Bên nhập lao động phải trả lương cho người lao động vào thời gian trả lương cho công nhân của chính bên nhận lao động. Vì người lao động phải có trách nhiệm đóng góp theo quy định của Thông tư 05/ LB/ TC – LĐTBXH và Nghị định 370 HĐBT (bao gồm các khoản: Đóng góp cho Ngân sách Nhà nước, Bảo hiểm xã hội, nộp cho bên xuất khẩu lao động), nên tại thời điểm này phải quy định rõ tỷ lệ lương mà bên nhập khẩu lao động trả trực tiếp cho người lao động và tỷ lệ trả vào tài khoản của bên xuất khẩu lao động. Bên xuất khẩu lao động phải dựa vào phụ lục số II của Thông tư số 05/ LB/ TC – LĐTBXH để đưa ra một tỷ lệ thích hợp. Thưởng: Bên xuất khẩu lao động, tuỳ theo chính sách khuyến khích lao động, sẽ có chế độ thưởng phạt cho người lao động suất sắc. Tại điều khoản này phải quy định rõ “Bên nhập khẩu lao động sẽ trả trực tiếp tiền thưởng cho người lao động”. Bên xuất khẩu lao động không được phép thu khoản tiền này. Ngoài tiền thưởng, tiền làm thêm ngoài giờ cũng trả trực tiếp cho người lao động. Tuy nhiên hợp đồng phải quy định rõ “khi công nhân làm thêm giờ, làm trong ngày nghỉ thì bên nhập khẩu lao động có trách nhiệm thanh toán cho người lao động phù hợp với luật lao động của nươc sở tại”. 7. Giờ làm việc - Ngày nghỉ. Đê đảm bảo quyền lợi cho người lao động, hợp đồng xuất khẩu lao động phải quy định: Giờ làm việc và chế độ làm việc của người lao động phải phù hợ0p với Luật lao động quốc tế và Luật lao động của nước sở tại và không nhiều hơn 8 tiếng/ ngày và 6 ngày một tuần. Lao động Việt nam phải được trả lương cho những ngày nghỉ như lao động của nước sở tại. Cụ thể, những ngày nghỉ đó là: Ngày nghỉ cuối tuần Ngày nghỉ chính thức theo thông lệ của nước sở tại. Quốc khánh nước CHXHN Việt nam Ngày tết cổ truyền của Việt nam Phép năm: Lao động Việt nam phải được nghỉ phép theo luật lao động cuả nước sở tại. Nếu người lao động không nghỉ phép năm thì những ngày làm việc đó sẽ được tính theo chế độ làm thêm giờ. Chế độ làm thêm giờ: Việc làm thêm giờ phải được sự đồng ý của người lao động. Người lao động có quyền tự đàm phán về tiền làm thêm. Khoản này không được tính vào tiền lương tháng và nhà nước không đánh thuế khoản thu nhập này. Tuy vậy, trong hợp đồng cũng phải quy định giờ làm thêm “không vượt quá 12 tiếng/ngày” và tỷ lệ là 1,5 so với tiền lương (tỷ lệ này là tôi thiểu). 8. Điều kiện sinh hoạt - làm việc. Bên nhập khẩu lao động có trách nhiệm cung cấp và tổ chức nơi ở phù hợp vệ sinh, môi trường cho người lao động cùng những tiện nghi sinh hoạt như phòng ngủ (bao nhiêu người/ phòng – phòng rộng bao nhiêu...) đồ đạc, điện, ga, điều hoà nhiệt độ... Người lao động có quyền yêu cầu trang thiết bị, bảo hộ lao động phù hợp với công việc và bên nhập khẩu lao động có trách nhiệm đáp ứng. Để đảm bảo thời gian làm việc, bên nhập khẩu lao động có trách nhiệm tổ chức việc đưa đón lao động từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại bằng phương tiện phù hợp kể cả tron thời gian làm việc thêm giờ. 9. Bảo hiểm. Không như hàng hoá, việc bảo hiểm con người rất phức tạp. Việc bảo hiểm còn mang tính phòng ngừa chứ không chỉ giới hạn trong việc đền bù thông thường. Bên xuất khẩu lao động phải nghiên cứu kỹ chế độ bảo hiểm của nước nhập khẩu lao động cũng như thông lệ quốc tế để đưa vào hợp đồng một chế độ bảo hiểm con người phù hợp. Thông thường điều khoản bảo hiểm của hợp đồng xuất khẩu lao động sẽ bao gồm những điểm sau: Người lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm cho suốt thời gian làm việc ở nước sở tại. Mức bảo hiểm được dựa vào quy định của nước sở tại. Thông thường bên nhập khẩu lao động phải đóng khoản tiền này cho người lao động. - Bên nhập khẩu lao động cam kết rằng người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm y tế toàn bộ trong những trường hợp: bị thương do tai nạn hoặc vì lý do liên quan đến công việc, không còn khả năng làm việc sẽ được bảo hiểm theo quy định của nước sở tại và người lao động sẽ được đưa về nước. Chi phí toàn bộ do bên thuê lao động chịu. Bị thương do tai nạn lao động, người lao động sẽ được điều trị y tế bằng những điều kiện tốt nhất. Chi phí do bên thuê lao động chịu. Nếu người lao động chết vì bất kỳ nguyên nhân nào, bên nhập khẩu lao động phải: Thông báo ngay cho bên xuất khẩu lao động về nguyên nhân cái chết bằng văn bản. Tổ chức hoả táng và đưa tro về nước cùng những tài sản cá nhân của người chết. Bồi thường cho thân nhân người chết theo chế độ phù hợp với luật pháp của nước sở tại. Trong trường hợp bị chết do tai nạn lao động, bên nhận lao động phải bồi thường cho thân nhân của họ theo Luật lao động của nước sở tại. 10. Quản lý lao động Nhằm mục đích bảo đảm trật tự xã hội cho nước sở tại đảm bảo quan hệ ngoại giao và an toàn cho người lao động, hợp đồng xuất khẩu lao động phải ghi rõ: Bên nhập khẩu lao động có thể đưa người lao động đến làm việc tại các công trình trong phạm vi địa điểm đã được quy định tại điều khoản của hợp đồng. Hai bên không được tạo điều kiện cho bất kỳ người lao động nào cư trú, kết hôn hoặc định cư tại nước thứ ba một cách bất hợp pháp. 11. Kéo dài hợp đồng. Thông thường cả hai bên nếu không vì một sự cố nào đều muốn kéo dài hợp đồng. Nếu có thể kéo dài hợp đồng, cả hai bên đều có lợi, đặc biệt là bên nhận lao động. Vì kéo dài hợp đồng họ sẽ giảm được rất nhiều chi phí cho việc tuyển chọn, đi lại... Đối với bên xuất khẩu lao động thì có lợi làm giảm được chi phí marketing, đào tạo, và nhất là co được thị trường ổn địnhTuy nhiên, để khẳng định rõ, hợp đồng cần được quy định: “Nếu một trong hai bên muốn kéo dài hợp đồng thì phải thông báo cho bên kia biết 2 tháng trước khi hợp đồng hết thời hạn” và hai bên sẽ điều chỉnh lại những điều khoản của hợp đồng cũ. Trong bản hợp đồng mới, bên xuất khẩu phải chú trọng tới vấn đề tăng lương, thưởng cho người lao động, tuy vậy triong đàm phán khả năng chấp nhận của họ là 70%. 12. Điều khoản về tranh chấp, trọng tài và luật điều chỉnh Giống như những hợp đồng ngoại thương khác, bất kỳ tranh chấp nào cũng sẽ được giải quyết bằng biện pháp thươgn lượng, hoà giải. Nếu không sẽ được đưa vấn đề ra trước hội đồng trọng tài quốc tế. Vấn đề chỉ định trọng tài, luật điều chỉnh là đối tượng đàm phán. 13. Điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hợp đồng. Nếu bên nào muốn sửa đổi, bổ sung bất kỳ điều khoản nào hoặc điều kiện nào của hợp đồng cũng phải thông báo cho bên kia trước một khoảng thời gian nhất định (thường là 60 ngày) Tất cả những điều kiện hoặc điều khoản được bổ sung hoặc sửa đổi chỉ có giá trị khi cả hai bên chấp thuận bằng một phụ lục kèm theo. 14. Điều khoản về " Bất khả kháng" Hai bên phải quy định rõ những trường hợp nào thuộc về bất khả kháng. Trong những hợp đồng mua – bán hàng hoá, người ta coi hậu quả của bão, lụt, đình công, lãn công, cháy nổ... là những trường hợp “bất khả kháng” Trong hợp đồng xuất khẩu lao động, người ta đặc biệt chú trọng tới các chính sách kinh tế, chính trị, ngoại giao của chính phủ và coi những quyết định trong lĩnh vực trên mà ảnh hưởng tới việc thực thi hợp đồng là trường hợp bất khả kháng. 15. Hiệu lực của hợp đồng. Trong hợp đồng xuất khẩu lao động cần thiết phải có điều khoản nhấn mạnh :”hợp đồng chỉ có giá trị hiệu lực sau khi hai bên đệ trình và được các cấp có thẩm quyền phê chuẩn, và hai bên có trách nhiệm thông báo cho nhau biết việc phê chuẩn của mình và khả năng thực hiện”. Thực tế cho thấy điều khoản này thực sự là cứu cánh cho nhiều công ty trong nước tránh khỏi bị phạt hợp đồng. 16. Phụ lục của hợp đồng Trong phụ lục thể hiện những thay đổi của bất kỳ điều khoản hoặc điều kiện nào của hợp đồng. Phụ lục còn là nơi chi tiết hoá các điều kiện hoặc các điều khoản. 17. Khảo sát: Vì đối tượng của hợp đồng là con người cho nên bên xuất khẩu lao động phải đặc biệt chú trọng tới các điều kiện của điều khoản hợp đồng Bên xuất khẩu lao động phải có cuộc khảo sát về nơi ăn ở, sinh hoạt mà người lao động sẽ tới. Cho nên đưa điều khoản này vào hợp đồng là điều cần thiết. Chi phí cho chuyến đi này sẽ do bên xuất khẩu lao động chịu, nhưng cũng có thể là bên nhập khẩu lao động sẽ giúp đỡ về nơi ở và các thủ tục nhập cảnh. 18. Điều khoản bắt buộc: Do phong tục, tập quán mỗi nước có khác nhau cũng như sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, quan niệm chủng tộc... để đảm bảo giá trị con người, giá trị sức lao động, trong hợp đồng phải ghi rõ “quyền con người của người lao động phải được triệt để tôn trọng và người lao động cũng như các quyền lợi khác của họ phải được bảo vệ phù hợp với Luật lao động quốc tế và những điều khoản của hợp đồng này”. 19. Phạt vi phạm hợp đồng: Điều khoản này nhằm bảo vệ hợp đồng được thực hiện một cách trọn vẹn. Nếu một bên phá vỡ hợp đồng vì những lý do không thuộc phạm vi quy định trong hợp đồng này sẽ bị phạt với một tỷ lệ thích đáng. Tỷ lệ xấp xỉ từ 5% - 10% giá trị của hợp đồng. 20. Chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng sẽ chấm dứt một cách tự nhiên khi hết hạn. Nếu một trong hai bên muốn chấm dứt trước thời hạn thì phải thông báo cho phía bên kia trước hai tháng và đền bù cho người lao động một tháng lương. Nếu không thông báo trước thì có thể đền bù cho người lao động hai tháng lương. 21. Ngôn ngữ hợp đồng. Hợp đồng được viết bằng tiếng Anh. III. KÝ KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG TRONG NƯỚC. Ký kết hợp đồng cung cấp lao động với cơ sở cử người đi xuất khẩu lao động. Đây là bước tiếp theo của việc ký hợp đồng xuất khẩu lao động với bên nước ngoài. Có thể thực hiện bước này trước bằng những hợp đồng nguyên tắc. Nếu thực hiện sau thì đây sẽ là hợp đồng chi tiết và được cụ thể hoá. Nội dung của hợp đồng này chịu chi phối bởi Luật lao động, Nghị định 370 HĐBT và những văn bản khác của nhà nước. Điểm đáng lưu ý là: Bên A (cơ sở cử người lao động ) có yêu cầu bên B (cơ quan xuất khẩu lao động ) trích phần trăm trả cho họ không hay bên A coi việc tuyển người của bên B là một ưu đãi đối với họ. Nếu bên A đòi phần trăm thì tủ lệ là bao nhiêu. Trên thực tế nhà nước không quy định tỷ lệ này và cũng không cho phép bên A thu bất kỳ khoản nào của người lao động. Bên A, nếu đòi hỏi, phải thoả thuận với bên B và bên B, nếu đồng ý, sẽ trích tỷ lệ phần trăm trong số tiền mà bên B được hưởgn theo quy định của nhà nước tại Nghị định 370 HĐBT và Thông tư số 05 LB/TC – LDTBXH. Tỷ lệ mà bên B sẽ trích trả cho bên A sẽ do hai bên thoả thuận. Bên A có cam kết tiếp nhận người lao động trở lại cơ sở cũ để làm việc sau khi hết hạn làm việc ở nước ngoài không. Bên B cần phải đàm phán để bên A cam kết tiếp nhận người lao động trở lại làm việc tại cơ sở cũ của họ sau khi hết hợp đồng. Tuy nhiên đây không phải là trách nhiệm pháp lý của bên B, mà trách nhiệm này thuộc về bản thân người lao động và cơ sở của họ. Người lao động nếu muốn trở lại cơ sở cũ thì thường phải đóng góp một khoản tiền nhất định theo “lệ hàng” của từng cơ sở. Khoản tiền này bên A thường lý giải như là một khoản để “xây dựng và phát triển cơ sở” và “do cá nhân người lao động tự nguyện đóng góp”. Bên B phải cam kết thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết để chuyển trả người lao động về địa phương cũng như về cơ sở cũ sau khi họ hết hợp đồng. 1. Ký kết hợp đồng với từng người lao động Cũng như hợp đồng tại mục V.1. trên đây, cơ sở của hợp đồng này là do Nghị định 370 HĐBT chi phối. Hợp đồng phải thể hiện trách nhiệm của bên xuất khẩu lao động và trách nhiệm của người lao động đối với nhà nước. Điểm đánh lưu ý: Phải quy định mức lương của từng người lao động sau khi họ đã thực hiện nghĩa vụ (bao gồm các khoản : nghĩa vụ Bảo hiểm xã hội, đóng góp cho ngân sách nhà nước, đóng góp cho bên xuất khẩu lao động) Hợp đồng này phải có đầy đủ những điều khoản và điều kiện liên quan đến người lao động của hợp đồng giữa bên xuất khẩu lao động và bên nước ngoài. Quy định rõ mức đóng góp của người lao động theo lương về các khoản như: bảo hiểm xã hội, nộp ngân sách nhà nước, nộp cho bên xuất khẩu lao động. Tuy nhiên phải làm cho người lao động hiểu rằng việc đóng góp cũng như tỷ lệ mà họ phải đóng góp là do nhà nước quy định chứ không phải do bên xuất khẩu lao động tự ý đặt ra. Theo quy định của Nghị định 370 HĐBT và Thông tư số 05 LB/TC- LĐTBXH thì mức đóng góp này không vượt quá 40% lương của người lao động. Quy định số “tiền đặt cọc” của người lao động. Số tiền này thường tương đương với giá 1 vé máy bay, và người lao động sẽ được trả lại sau khi họ hoàn thành hợp đồng và không vi phạm. 2. Đào tạo Mục đích của việc đào tạo là để tạo nguồn cho việc xuất khẩu lao động, nâng cao trình độ của người lao động về nghề nghiệp cũng như ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu của bên nhập khẩu lao động. Về đào tạo gồm hai mảng: Đào tạo nâng cao tay nghề. Không phải lúc nào trình độ chuyên môn của người lao động cũn đạt yêu cầu của phía nhập khẩu lao động, do vậy phải đào tạo ra một đội ngũ công nhân có tay nghề cao là một yêu cầu quan trọng trong công tác xuất khẩu lao động. Đào tạo ngoại ngữ. Một trong những yếu kém của người lao động Việt nam so với lao động của một số nước khác như Thái Lan, Malayxia, Philipine là trình độ ngoại ngữ. Ngoại ngữ là một công cụ thứ hai của người lao động mà thiếu nó hiệu quả lao động sẽ giảm sút rõ rệt. Thực hiện chuyển giao lao động cho phía nước ngoài. Xin giấy phép xuất khẩu lao động. Theo quy định hiện hành, việc xuất khẩu lao động phải được Bộ Lao Động – Thương binh xã hội chấp thuận. Mỗi một hợp đồng xuất khẩu lao động đều được xem xét kỹ càng trước khi được cấp “giấy phép đưa người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài”. Giấy phép này là một yếu tố để bên xuất khẩu lao động làm hộ chiếu cho người lao động. Làm thủ tục hộ chiếm – thị thực xuất cảnh. Đây là một khâu chiếm nhiều thời gian trong quá trình chuyển giao lao động. Hiện nay, theo quy định mới, việc cấp hộ chiếu và thi thực xuất cảnh cho đối tượng lao động do Cục quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Nội Vụ thực hiện. Người lao động sẽ xin cấp hộ chiếu theo các bước sau: Làm đơn xuất cảnh, có xác nhận của công an địa phương. Nộp đơn xin xuất cảnh tại công an tỉnh/ thành phố nơi đương sự cư trú. Công an tỉnh/ thành phố, sau 15 ngày nghiên cứu hồ sơ, nếu được sẽ chuyển hồ sơ lên Cục quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Nội Vụ Cục quản lý xuất nhập cảnh – bộ nội vụ cấp hộ chiếu – thị thực xuất cảnh và trả lại cho công an tỉnh/ thành phố để trả lại cho đương sự. Quy trình trên sẽ chiếm khoảng 20 đến 25 ngày (theo thông lệ của Cục quản lý xuất nhập cảnh), nhưng trên thực tế thời gian còn lâu hơn. Xin thị thực nhập cảnh Sau khi có hộ chiếu và thị thực nhập cảnh, bên xuất khẩu lao động sẽ tập trung lại và mang đến Đại sứ quán của nước nhập khẩu lao động làm thủ tục nhập cảnh. Quá trình này được thực hiện nhờ sự trợ giúp của bên nhập khẩu lao động, nếu không sữ rất khó khăn. Hiện này quá trình xin thị thực nhập cảnh chiếm khoảng thời gian từ 1 tuần đến 2 tuần. Cá biệt có nước chỉ cấp thị thực sau 1 tuần như Nhật Bản, Malaysia. Tập huấn lao động Đây là một khâu quan trọng nhằm mục đích giới thiệu cho người lao động biết về phong tục tập quán, tông giáo nước bạn. Thiếu sự hiểu biết trên cũng như nhận thức không đầy đủ về luật pháp của nước bạn sẽ gây ra không ít khó khăn cho cả hai bên. Ngoài ra người lao động cần phải hiểu biết thêm về văn hoá, xã hội nước bạn. Những người có thể truyền đạt những vấn đề trên là các cán bộ của các Vụ khu vực – Bộ Ngoại giao hoặc những cán bộ đã từng công tác lâu năm tại các nước đó. Thời gian tập huấn thường vào khoảng từ 3 đến 5 ngày. Tổ chức đưa lao động ra sân bay. Bên xuất khẩu lao động phải chịu trách nhiệm và chi phí cho người lao động đi từ nơi tập trung ra sân bay, do vậy phải tổ chức thuê ô tô đi tập trung, tránh để người lao động đi riêng lẻ để khỏi xảy ra sự cố như muộn giờ, nhầm địa điểm, thất lạc hành lý, giấy tờ... Nếu bên nhận lao động mua sẵn vé máy bay thì bên xuất khẩu lao động phải thông báo trước cho người lao động chi tiết vê thông tin liên quan đến chuyến bay. Nếu bên xuất khẩu lao động tự mua vé máy bay thì phải đăng ký trước với cơ quan hàng không để tránh vị phạm về thời gian. 3. Quản lý Bên xuất khẩu lao động phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ về người lao động, tài chính nhằm đảm bảo an ninh, xã hội cho người lao động và nước sở tại cũng như đảm bảo hợp đồng. Một trong những biện pháp là phải tổ chức Ban quản lý lao động tại nước có lao động (nếu số lao động lớn) Ban quản lý lao động chịu sự quản lý về mặt nhà nước của Đại sứ quán tại nước đó. Ban quản lý phải bao gồm những cán bộ có năng lực, kinh nghiệm trong công tác quản lý nhân sự, tài chính. Một số biện pháp nữa là phải thu thế chấp của người lao động (tiền đặt cọc) theo qui định của nhà nước tại Nghị định 370HĐBT để ràng buộc người lao động không tự ý phá bỏ hợp đồng. Thực chất số tiền này là để dành mua vé máy bay cho người lao động nếu họ vi phạm kỷ luật lao động và bị phía bạn trả về nước không có bồi thường. Trên đây là một số bước đi chính trong quá trình thực hiện việc xuất khẩu lao động và một số biện pháp nhằm đảm bảo việc xuất khẩu lao động đạt được hiệu quả cao. IV. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI . Vài nét khái quát về công ty dịch vụ và thương mại . Theo quyết định số 1639 QĐ/UB ngày 13 tháng 8 năm 1994 của Uỷ Ban nhân dân thành phố Hà Nội , Công ty dịch vụ và thương mại được chính thức thành lập với tên giao dịch nước ngoài là : Trade and Service Company, viết tắt là TSC thuộc Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI). Trụ sở đặt tại: 79 Bà Triệu - Hai Bà Trưng - Hà Nội và chi nhánh văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng. Vốn kinh doanh: 4.000 triệu đồng Công ty tham gia hoạt động các ngành nghề kinh doanh chủ yếu: Dịch vụ thông tin tư vấn, xúc tiến thương mại, đầu tư và nghiên cứu thị trường. Kinh doanh cung ứng và giới thiệu việc làm. Môi giới ký kết hợp đồng, kinh doanh theo uỷ thác của khách hàng. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của hoạt động kinh doanh Công ty tổ chức bộ máy thành 4 phòng: Phòng tổng hợp, Phòng giao dịch thương mại và du lịch, Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu, Phòng đại lý bán vé máy bay. Bám sát nhiệm vụ hoạt động của mình Công ty đã không ngừng đạt được những kết quả tạo điều kiện cho những bước phát triển tiếp theo. - Phòng giao dịch thương mại và du lịch: Kể từ khi ra đời, hoạt động kinh thương mại và du lịch phát triển không ngừng, đặc biệt năm 1995 Phòng đã được cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế và cấp thị thực nhập cảnh trực tiếp với A18 – Bộ Nội vụ cho khách nước ngoài vào Việt Nam đã tạo điều kiện thu hút thêm nhiều khách du lịch thì nguồn thu của Phòng tăng lên rõ rệt. Chỉ tính riêng năm 1995 Phòng đã tổ chức đón tiếp 1590 lượt khách nước ngoài vào Việt Nam trong đó 908 khách là khách khai thác trực tiếp từ nước ngoài còn lại 682 khách khai thác từ các nguồn trong nước. Tuy nhiên gần đây Phòng đã ký được hợp đồng nguuyên tắc với một công ty du lịch của Nhật Bản theo đó dự kiến sẽ đưa vào Việt Nam một số lượng lớn khách du lịch thông qua TSC. Phòng Đại lý bán vé máy bay Chỉ riêng trên địa bàn Hà nội hàng năm đã có tới trên 20 đại lý bán vé máy bay mới của Hãng hàng không Việt Nam, chưa kể một số hãng bay nước ngoài cũng bắt đầu bán vé trực tiếp. Các đại lý vé mới chủ yếu là dùng chế độ hao hồng cao để thu hút khách nên không những lượng khách bị phân tán mà tỷ lệ lãi còn bị giảm nhiều do phải chi hoa hồng hơn năm trước, vì vậy cũng có những khó khăn nhất định đối với hoạt động của Phòng. Tuy nhiên tổng doanh thu hoa hồng đại lý bán vé năm 1999 đạt 1030 triệu đồng tăng 33% so với năm 1998. Nhìn chung hoạt động có tăng lên nhưng Phòng vẫn chưa khai thác hết được tiềm năng vì thực tế Phòng chưa có chiến lược Marketing cụ thể để liên kết với các hãng hàng không nước ngoài như : Jardiness Pacific, Bristish Airway ... trong việc ký hợp đồng làm đại lý. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Bên cạnh việc thực hiện công tác xuất khẩu lao động là chính, Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu còn thực hiện xuất nhập khẩu một số hàng thủ công mỹ nghệ...với doanh thu hàng năm đạt khoảng 60.000 USD. Phòng tổng hợp Đây là Phòng hoạt động có tính chung nhất của toàn công ty với công việc chủ yếu là kế toán tổng hợp. Hiệu quả hoạt động của Phòng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của toàn công ty. Nhìn chung hoạt động của Phòng rất tốt vì khối lượng công việc rất lớn nhưng chưa có sai sót lớn nào xảy ra. 2. Số lượng hợp đồng. Công ty dịch vụ và thương mại tiến hành rất nhiều hoạt động xuất khẩu, trong đó có hoạt động xuất khẩu lao động là một hoạt động mà công ty tiến hành tương đối hiệu quả . Nhìn chung số lượng hợp đồng xuất khẩu lao động tại công ty dịch vụ và thương mại chưa được nhiều. Từ năm 1998, công ty thường xuyên có hợp đồng xuất khẩu lao động sang Đài Loan, Hàn Quốc và một số nước ở Châu Phi... Đây là những nước có hợp đồng xuất khẩu lao động tương đối đều trong 3 năm gần đây của công ty. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động của công ty được thể hiện như sau: Bảng 1: Tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu lao động tới một số nước tại công ty dịch vụ và thương mại Đơn vị: Chiếc Năm Nước 1997 1998 1999 6 tháng đầu năm 2000 Hồng Kông 153 350 459 256 Đài Loan 110 425 675 155 Hàn Quốc 750 1.010 1.215 589 LiBi 510 285 120 63 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 1997, 1998, 1999... Tuy nhiên tình hình thực hiện hợp đồng xuất khẩu lao động ở công ty dịch vụ thương mại còn rất hạn chế do điều kiện về công ty của nước nhập khẩu lao động cũng như chất lượng người lao động. Riêng năm 1999, công ty đã không thực hiện được số hợp đồng yêu cầu từ phía nước nhập khẩu, xuất khẩu sang Nhật Bản do trình độ người lao động quá thấp không đáp ứng được yêu cầu. 3. Chất lượng hợp đồng xuất khẩu lao động của công ty dịch vụ và thương mại. Công ty rất có tín nhiệm trên thị trường quốc tế về hoạt động xuất khẩu lao động, điều này thể hiện qua những hợp đồng mà công ty thực hiện được đều được bên nhập khẩu đánh giá cao. Bởi lẽ công ty rất chú trọng đến việc tuyển lựa người lao động có trình độ, sức khoẻ, khả năng, đạo đức phù hợp với yêu cầu của người nhập khẩu lao động. Chính vì vậy số lượng hợp đồng xuất khẩu lao động thường đáp ứng từ 89% - 95% lượng hợp đồng yêu cầu từ người nhập khẩu. Bảng 2:Đánh giá thực hiện hợp đồng xuất khẩu lao động tới một số nước Chỉ tiêu Năm Số hợp đồng Yêu cầu Số hợp đồng Thực hiện Tỷ lệ % 1997 1600 1523 95 1998 2100 2070 99 1999 3000 2469 83 Nguồn: Báo cáo tổng kết 3 năm 1997, 1998, 1999 Bên cạnh đó, công ty cũng thường tư vấn cho phía nhập khẩu những điều kiện, yêu cầu mà người lao động Việt Nam thường có phù hợp với từng điều kiện lao động của công ty cần nhập khẩu lao động. CHƯƠNG III MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT TRONG VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG 1. Những tồn tại trong xuất khẩu lao động tại Việt Nam Qua tình hình xuất khẩu lao động của Công ty thì nhìn chung hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam nói chung còn có những tồn tại sau: Thiếu nguồn thông tin về nhu cầu của bên nhập khẩu lao động, chưa hiểu biết nhiều về luật lao động của nước nhập khẩu lao động. Trình độ của người lao động chưa đáp ứng tốt nhu cầu công việc của phía đối tác. Thiệt thòi nhiều trong ký kết hợp đồng do trình độ của người giao dịch cũng như bất đồng ngôn ngữ. Việc thực hiện hợp đồng còn chậm trễ về thời gian nên làm giảm độ tin cậy của phía nhập khẩu lao động. Đôi khi có những công ty còn vi phạm hợp đồng. 2. Một số tồn tại trong xuất khẩu lao động tại công ty dịch vụ và thương mại Qua nghiên cứu tình hình xuất khẩu lao động tại công ty, ngoài những kết quả đạt được thì còn có những tồn tại trong công tác này, cụ thể như sau: Nỗ lực tìm kiếm đối tác nhập khẩu lao động từ phía nước ngoài còn nhiều hạn chế do những khó khăn trong về tài chính, trình độ công nhân viên... Nguồn lao động cung ứng của công ty đôi khi còn chưa đáp ứng đúng như nhu cầu của phía nhập khẩu lao động. Hầu hết mới chỉ xuất khẩu lao động có trình độ lao động thủ công, chứ chưa khai thác xuất khẩu lao động có trình độ cao. Đôi khi tập trung đáp ứng nhu cầu của khách hàng lớn mà chưa chú ý đến mở rộng thị trường xuất khẩu lao động ở những khách hàng nhỏ, lẻ. Công ty còn hạn chế về tài chính cũng như chưa coi hoạt động xuất khẩu lao động là chiến lược của công ty nên Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu ít được quan tâm xát xao từ cấp trên. II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: Định hướng của công ty trong xuất khẩu lao động Qua tình hình xuất khẩu lao động của công ty trong báo cáo tổng kết công ty luôn xác định phải tích cực tìm kiếm đối tác, thực hiện có hiệu quả những hợp đồng ... Nhưng điều quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện hợp đồng đó là kế hoạch đào tạo và tư vấn một số vấn đề về điều kiện bên nhập khẩu lao động cũng như người lao động. Đảm bảo tăng số lượng hợp đồng thực hiện cũng như chất lượng hợp đồng. Bên cạnh đó, công ty đang có kế hoạch hợp tác với các nước như Braxin, Malayxia... để mở rộng thị trường xuất khẩu lao động của mình, tăng doanh thu cho công ty, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong nước. 2. Một số kiến nghị đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động tại công ty dịch vụ và thương mại . Những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Các chính sách mới đang phát huy tác dụng, nhiều doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân được hình thành và phát triển đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể. Các doanh nghiệp quốc doanh đang sắp xếp lại và điều chỉnh quy mô hoạt động cho phù hợp. Như vậy sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá với sự tồn tại của nhiều thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội là tiền đề hình thành thị trường lao động. Đặc điểm của thị trường lao động Việt nam là hình thành theo vùng một cách tự nhiên, phần lớn (80%) tập trung ở nông thôn, lao động chủ yếu bằng thủ công, năng suất và hiệu quả còn thấp, tiền công lao động cũng còn thấp so với các nước láng giềng. Lao động có trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ thì chủ yếu tập trung ở các thành phố và khu công nghiệp. Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn quá cao, đặc biệt là ở nông thôn, nên đã bắt đầu hình thành dòng di chuyển lao động, gồm di chuyển lao động trong nước và di chuyển lao động ra nước ngoài hay còn gọi là xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết một phần tệ nạn xã hội, ngoại tệ thu được góp phần tích luỹ và phát triển nền kinh tế quốc dân; giúp cho một số Bộ, Ngành có điều kiện nâng cấp các cơ sở và điều kiện hoạt động của mình, trong điều kiện eo hẹp về vốn ngoại tệ của nhà nước hiện nay. Tăng số lượng người lao động đi làm ở nước ngoài là một trong những biện pháp hỗ trợ chương trình việc làm của quốc gia, góp phần làm giảm sức ép việc làm trong nước. Xuất khẩu lao động có ý nghĩa kinh tế – xã hội lớn như vậy cho nên chính phủ chủ trương xuất khẩu hàng triệu lao động trong những năm tới, đa dạng hoá ngành nghề và phương thức đưa đi, cho phép nhiều thành phần tham gia xuất khẩu. Với tinh thần nhà nước quản lý rõ ràng, chặt chẽ, công khai tiến tới có pháp lệnh về xuất khẩu lao động. Qua một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu về xuất khẩu lao động, để đẩy mạnh hoạt động của lĩnh vực này, em đề xuất một số ý kiến sau: Để giảm bớt tình trạng lao động bỏ trốn, vi phạm hợp đồng ở nước ngoài, nhà nước nên ban hành các văn bản pháp lý ràng buộc người lao động và thân nhân phải nghiêm chỉnh tuân thủ hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp, nếu vi phạm phải đền bù về kinh tế và chịu trách nhiệm dân sự hoặc hình sự. Đối với các trường hợp các vi phạm hợp đồng dẫn tới thiệt hại cho doanh nghiệp thì gia đình cũng phải chịu phạt, nghiên cứu và thu dịch vụ một lần và tự đó người là phải chịu trách nhiệm với pháp luật nước sở tại khi đi làm việc ở nước ngoài. Hiện nay tại một số nước tỷ lệ lao động Việt nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc khá cao. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là người lao động khi ra đi phải qua nhiều khâu trung gian, nộp nhiều khoản tiền (có nơi lên tới 4.000 USD/người). Do vậy dẫn tới tình trạng công nhân quá lo đến việc trả nợ nên nhiều người lao động đã bỏ việc ra ngòai làm để có thu nhập cao hơn. Để tránh tình trạng này nên có sự thống nhất các khâu trong việc xuất khẩu lao động để tránh hiện tượng tiêu cực, giảm bớt chi phí cho người lao động. Luật quỹ hỗ trợ người nghèo và các gia đình chính sách, cho họ vay tiền để làm thủ tục xuất khẩu lao động, hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực đào tạo để người lao động có kỹ năng nghề nghiệp khi đi làm việc ở nước ngoài. Việc mở rộng thị trường mới là vấn đề cốt lõi để đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động. Để làm tốt việc này các doanh nghiệp phải đầu tư kinh phí để tìm kiếm và mở rộng thị trường. Vì vậy khi tìm được thị trường mới, cần có chính sách ưu tiên cho những công ty có công đầu trong việc khai phá thị trường. Hiện nay nhiều công ty của Việt nam tốn nhiều công sức để tìm kiếm thị trường trên cùng một lãnh thổ, cho nên cần có sự chỉ đạo thống nhất để không dẫn đến sự cạnh tranh gây khó khăn cho các công ty và thiệt hại trong việc ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài. KẾT LUẬN Xuất khẩu lao động thực sự đã và đang đem lại nhiều lợi ích cho đất nước về mặt kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động không những giải quyết tình trạng thất nghiệp rất lớn ở Việt Nam hiện nay mà còn mang lại thu nhập cao cho người lao động và nguồn lợi cho nhà nước. Với sự nhận thức sâu sắc về hiệu quả mà nó đem lại, nhà nước ta ngày càng có nhiều chính sách đổi mới khuyến khích hợp tác xuất khẩu lao động. Để thực hiện tốt hoạt động này phải có những biện pháp hoàn chỉnh hơn nữa. Vấn đề xuất khẩu lao động cần sự hỗ trợ thiết thực từ các cấp, các ngành đặc biệt từ chính sách mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, Công ty đẩy mạng hiệu quả xuất khẩu lao động là xu hướng chính góp phần tích cực vào quá trình xây dựng đất nước cũng như trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hợp tác lao động quốc tế. Đề tài “xuất khẩu lao động ” mà em trình bày ở đây không ngoài mục đích góp phần nâng cao hiệu quả của công tác này, để cho sự nghiệp hợp tác lao động của nước ta và các nước trên thế giới ngày càng phát triển, để cho việc xuất khẩu lao động thực sự là một hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho công cuộc đổi mới hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế – trường đại học ngoại thương Giáo trình ngoại thương Việt nam - trường đại học ngoại thương Nghị định 370/ HĐBT Thông tư số 05/ LB – TC – LĐTBXH Một số tài liệu của công ty thương mại và dịch vụ Thời báo kinh tế Báo cáo tình hình xuất khẩu lao động tại công ty dịch vụ thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3770.doc
Tài liệu liên quan