Kết luận
Chiến tranh Lạnh kết thúc đã chấm dứt, về cơ bản,
bầu không khí ngột ngạt mà loài người đã phải chịu
đựng trong đó suốt 4 thập niên rưỡi. Trong môi trường
hòa dịu và cởi mở của kỉ nguyên sau chiến tranh, hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều coi phát triển kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân chúng của họ là
một trong những ưu tiên cao nhất trong chương trình
nghị sự. Các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc
cũng vậy. Để phát triển, họ đều cần tới một môi trường
hòa bình và ổn định ở những khu vực xung quanh. Họ
cũng cần tới sự hợp tác kinh tế để có thể bổ sung và chia
sẻ các nguồn lực cho nhau vì mục tiêu cùng phát triển.
Chính những lợi ích chung đó cùng với tác động
của xu hướng hòa bình và hợp tác trong môi trường
quốc tế mới những năm đầu của thời kìsau Chiến tranh
Lạnh thập đã thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc xích lại
gần nhau. Nhờ thiện chí và những nỗ lực của cả hai bên,
quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã chính thức
được thiết lập vào tháng 7 năm 1991. Sự kiện này đã có
những đóng góp to lớn đối với hòa bình, an ninh và phát
triển của Đông Nam Á nói chung, ASEAN và Trung
Quốc nói riêng.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ đối thoại Asean - Trung Quốc: Nguyên nhân, quá trình và ý nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ranh
Lạnh đã thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc xích lại gần
nhau. Nhờ thiện chí và những nỗ lực của cả hai bên,
quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã chính thức
được thiết lập vào tháng 7 năm 1991. Sự kiện này không
chỉ chấm dứt tình trạng lạnh nhạt, thậm chí là thù địch
lẫn nhau giữa hai bên, mà còn tạo cơ hội cho ASEAN
và Trung Quốc hợp tác với nhau trong một số lĩnh vực
nhất định.
2. Nguyên nhân dẫn đến sự thiết lập quan hệ
ASEAN - Trung Quốc
2.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực
Với cuộc đảo chính bất thành ngày 19/08/1991 tại
Liên Xô, Liên bang Xô Viết, thành trì của hệ thống xã
hội chủ nghĩa tan vỡ. Với sự kiện này, trật tự thế giới
hai cực đã hoàn toàn sụp đổ. Lịch sử thế giới đã chuyển
sang một thời kì mới: Thời kì sau Chiến tranh Lạnh.
Chiến tranh Lạnh kết thúc đã đẫn tới những biến
đổi to lớn trong môi trường chính trị và kinh tế quốc tế.
Ở thời kì này, hoà bình, hợp tác để phát triển đã trở
thành xu thế chung trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa
các quốc gia được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chia sẻ
những lợi ích chung về hoà bình, an ninh và phát triển.
Ý thức hệ không còn là rào cản đối với quan hệ giữa các
nước trong cộng đồng thế giới.
Khuynh hướng trên cũng chi phối quan hệ giữa các
nước lớn. Quan hệ Mỹ - Tây Âu, Mỹ - Nhật Bản, những
đồng minh truyền thống trong thời kì Chiến tranh Lạnh
vẫn tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Lạnh
kết thúc, lá chắn an ninh của Mỹ đối với Tây Âu và
Nhật Bản không còn quan trọng như trước nữa. Cả hai
chủ thể này đều cố gắng giảm bớt sự phụ thuộc về an
ninh vào sức mạnh quân sự của Mỹ. Để đạt mục tiêu đó,
các nước Tây Âu đã quyết định làm sâu sắc hơn tiến
trình hội nhập khu vực của họ với việc thành lập Liên
minh châu Âu vào tháng 12/1992 và mở rộng EU để thu
nạp một số nước, vốn là các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô
Viết trước đây ở Baltic.
Mặc dù vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đồng minh chặt
chẽ với Mỹ, Nhật Bản cũng tiến hành một số hoạt động
Trần Xuân Hiệp
30
ngoại giao độc lập nhằm khẳng định vai trò chính trị của
họ. Tokyo đã tích cực tham gia vào các hoạt động giữ gìn
hoà bình ở Campuchia, ở vùng Vịnh Sau nhiều năm né
tránh ý tưởng hợp tác Đông Á do Malaysia đưa ra từ năm
1990, đến năm 1997, Nhật Bản đã tán thành ý tưởng họp
Thượng đỉnh ASEAN + 3 do ASEAN khởi xướng.
Bức tranh địa - chính trị thế giới Hậu Chiến tranh
Lạnh còn có thêm sự thay đổi với sự xuất hiện của một
số cường quốc khu vực mới. Sự xuất hiện của Trung
Quốc, dù chỉ mới đáng chú ý về kinh tế, đã buộc Mỹ và
EU, Nhật Bản phải thay đổi cách ứng xử với họ. Chính
sách tiếp xúc mà nội các B. Clinton thực hiện trong
quan hệ với Trung Quốc đã góp phần tạo không khí hoà
dịu ở khu vực Đông Bắc Á, nơi cơ cấu an ninh Chiến
tranh Lạnh vẫn tiếp tục tồn tại. Trong những năm đầu
sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự chèo lái của
Borist Yeltsin cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại
theo hướng hoà dịu và hợp tác với các nước phương
Tây nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ của Mỹ và EU để phục
hồi và phát triển kinh tế. Sự hoà dịu và hợp tác giữa các
nước lớn đã giúp duy trì môi trường hoà bình, an ninh
trên phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên, môi trường hoà bình và an ninh thế giới
hậu Chiến tranh Lạnh vẫn còn rất bấp bênh. Tại một số
nơi trên thế giới, nhất là Nam Tư, các nước Cộng hoà
thuộc Liên Xô cũ, những mâu thuẫn tiềm tàng về tôn
giáo, sắc tộc, vốn bị kìm nén trong suốt thời kì Chiến
tranh Lạnh, đã bùng phát, gây nên tình trạng xung đột
tôn giáo, sắc tộc dữ dội tại các nước trên. Ở châu Á, các
hoạt động khủng bố được đẩy mạnh ở Afghanistan,
Pakistan, Indonesia, Philippineses và Nam Thái Lan.
Trong khi nền chính trị thế giới được đặc trưng bởi
hoà bình về tổng thể, căng thẳng, xung đột cục bộ ở một
số khu vực, thì bức tranh kinh tế thế giới cũng có nhiều
biến đổi cả tích cực lẫn tiêu cực.
Những thành tựu của cách mạng khoa học công
nghệ lần thứ ba đã đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá về
kinh tế. Dưới tác động của quá trình này, tất cả các quốc
gia đều có thể tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn lực bên
ngoài. Vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và kĩ năng
quản lí có thể được chuyển giao cho bất kì nước nào,
nếu họ muốn tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và có
đủ năng lực tiếp nhận chúng. Tuy nhiên, toàn cầu hoá
kinh tế cũng làm cho cạnh tranh kinh tế giữa các quốc
gia càng trở nên gay gắt.
Để khai thác được các cơ hội và giảm bớt các tác
động tiêu cực từ toàn cầu hoá kinh tế, cộng đồng quốc tế
đã tiến hành những điều chỉnh chính sách quan trọng.
Ở cấp độ toàn cầu, ngày 1/1/1995, Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) đã được thành lập thay thế cho
GATT. Ở cấp độ khu vực, nhiều tổ chức hợp tác khu
vực mới ra đời. Vào năm 1992, Hoa Kỳ đã cùng với
Mexico và Canada lập khu Mậu dịch tự do Bắc Mỹ. Ở
Mỹ Latinh, Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)
cũng được thành lập. Ở châu Á - Thái Bình Dương,
APEC quyết định xây dựng Khu mậu dịch tự do APEC
vào năm 2010 đối với các nước phát triển và 2020 với
các thành viên đang phát triển1. Ở cấp độ quốc gia, hầu
hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách
phát triển kinh tế nhằm thích ứng với toàn cầu hoá.
Trong khi các nước công nghiệp phát triển như Mỹ,
Nhật Bản, EU, Canada chuyển sang xây dựng các nền
kinh tế tri thức, thì phần lớn các nước đang phát triển đã
quyết định mở cửa đất nước, tham gia vào phân công
lao động quốc tế. Tình trạng cạnh tranh giành FDI,
ODA giữa các nước đang phát triển đã trở nên gay gắt
hơn bao giờ hết. Do tầm cỡ thị trường, lợi thế về nguồn
nhân lực dồi dào và rẻ, những ưu đãi dành cho các nhà
đầu tư nước ngoài, các nguồn FDI trên thế giới đã đổ xô
vào Trung Quốc, Ấn Độ và Brasil, giúp các nước này
đẩy nhanh tốc độ phát triển. Vào cuối những năm 90 thế
kỉ XX, sự phát triển của các nền kinh tế trên, đặc biệt là
kinh tế Trung Quốc, đã trở thành hiện tượng đáng chú ý
nhất trong nền kinh tế thế giới.
1Tính tới năm 2002, trên thế giới đã có 250 hiệp định
thương mại tự do đa phương và song phương được kí kết,
trong đó 168 thoả thuận mậu dịch tự do đã được đưa vào thực
hiện. Gần 50% các hiệp định tự do mậu dịch song phương này
được kí kết sau khi WTO xuất hiện.
2.2. Tình hình Đông Nam Á, Trung Quốc những
năm đầu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và
nhu cầu cải thiện quan hệ giữa hai bên
* Tình hình Đông Nam Á và nhu cầu hợp tác với
Trung Quốc
Đông Nam Á ở thời kì hậu Chiến tranh Lạnh cũng
có nhiều biến đổi quan trọng. Với sự kết thúc của Chiến
tranh Lạnh, lần đầu tiên, kể từ năm 1945, hoà bình đã
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 29-40
31
được tái lập trên toàn bộ lãnh thổ Đông Nam Á. Các
quốc gia, các dân tộc ở khu vực này đã có thể tập trung
phần lớn nguồn lực của mình để phát triển. Phát triển
kinh tế được xem là ưu tiên hàng đầu của tất cả các
nước trong khu vực. Để phát triển kinh tế, các nước
Đông Nam Á không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư
tưởng, đều mong muốn chung sống hoà bình và hợp tác
với nhau. Quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và
Đông Dương, vốn đối đầu và căng thẳng trong gần suốt
thập niên 80 của thế kỷ XX do vấn đề Campuchia, đã
trở nên hoà dịu, nhất là từ khi Việt Nam rút hết quân đội
khỏi Campuchia tháng 10/1989.
Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh kết thúc cũng đặt
Đông Nam Á trước nhiều nhiều thách thức mới.
Về phương diện chính trị - an ninh, do vị trí của
Đông Nam Á trong chính sách của Mỹ và Nga đã giảm
xuống, vào năm 1992, cả hai nước này đều quyết định
rút các lực lượng quân sự khỏi căn cứ của họ ở một vài
nơi trong khu vực2. Quyết định trên của Mỹ và Nga đã
tạo ra một “khoảng trống quyền lực” ở Đông Nam Á.
Từ kinh nghiệm lịch sử, các nước Đông Nam Á đều biết
rằng “khoảng trống quyền lực” trong khu vực của họ
không bao giờ tồn tại được lâu. Các cường quốc bên
ngoài sẽ tìm mọi cách lấp vào “khoảng trống” đó. Nếu
khả năng này lại xảy ra, Đông Nam Á sẽ, một lần nữa,
trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi của
các nước lớn. Hòa bình, an ninh của khu vực này sẽ bị
đe dọa.
2Căn cứ của Nga ở Cam Ranh trên lãnh thổ Việt Nam.
Căn cứ của Mỹ ở Subic và Clark trên lãnh thổ Philippines.
Bên cạnh thách thức trên, một nguy cơ lớn nữa đối
với hòa bình và an ninh của Đông Nam Á là tình trạng
căng thẳng ở biển Đông, nơi đang tranh chấp chủ quyền
giữa giữa Trung Quốc, Đài Loan và 4 nước Đông Nam Á
bao gồm Việt Nam, Philippineses, Malaysia và Brunei.
Tình hình ở vùng biển này đã trở nên nóng bỏng, khi
Trung Quốc công bố Pháp lệnh về lãnh hải và vùng tiếp
giáp vào ngày 25/2/1992. Theo Pháp lệnh này, ¾ diện
tích biển Đông sẽ được gộp vào lãnh thổ Trung Quốc.
Để thực hiện tham vọng đó, Trung Quốc đã tăng chi phí
quốc phòng3 hiện đại hoá quân đội, nhất là hải quân.
Những động thái chính trị - quân sự trên của Trung
Quốc càng khiến các nước Đông Nam Á lo ngại. Trước
đây để đảm bảo an ninh cho mình, các nước ASEAN
đều trực tiếp hoặc gián tiếp dựa vào sức mạnh quân sự
của Mỹ; Lào, Việt Nam tìm chỗ dựa ở Liên bang Xô
Viết. Những chỗ dựa an ninh sau này đã không còn nữa,
sau khi cả Mỹ và Nga đều quyết định rút các lực lượng
quân sự khỏi Đông Nam Á.
Trong chiến lược Châu Á - Thái Bình Dương mới,
Mỹ dành ưu tiên cao hơn cho khu vực Đông Bắc Á, nơi
Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, còn Bắc Triều Tiên
đang nỗ lực tìm kiếm vũ khí hạt nhân. Sự ưu tiên này
được phản ánh rõ ràng qua việc bố trí các lực lượng
quân sự Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Trong số 100.000
quân mà Washington tuyên bố sẽ duy trì ở khu vực này,
có tới 84.000 quân được đồn trú tại Đông Bắc Á
(37.000 ở Nam Triều Tiên và 47.000 đóng tại Nhật Bản)
[4]. Hơn nữa, lực lượng quân sự Mỹ đóng ở Đông Á lại
bao gồm chủ yếu là lục quân và không quân, chứ không
phải là hải quân như các nước ASEAN chờ đợi.
Sự bố trí lực lượng như trên của Mỹ trái ngược lớn
với sự bố trí lực lượng của Trung Quốc. Do tầm cỡ lãnh
thổ khổng lồ trải dài từ Đông Bắc Á tới sát Đông Nam Á,
Trung Quốc đã bố trí lực lượng quân sự của họ không
chỉ ở Đông Bắc Á mà cả ở Hải Nam, vùng lãnh thổ
thuộc Đông Nam Á, xét từ góc độ địa lí. Cách bố trí lực
lượng như vậy tạo điều kiện cho Trung Quốc với tay tới
được cả hai khu vực. Nhờ đó “Trung Quốc có sức nặng
và vị trí” đúng như Colin Gray đã nhận xét [2, tr.258].
3Năm 1992, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng
hơn khoảng 50% so với chi tiêu quốc phòng năm 1989.
Những thực tế trên càng củng cố niềm tin của nhiều
nước ASEAN rằng họ không thể trông đợi vào sự “che
chở” của Mỹ, khi phải đối diện với các nguy cơ từ bên
ngoài đối với an ninh quốc gia và khu vực như trước nữa.
Ngoài những thách thức trên, môi trường an ninh ở
Đông Nam Á còn bị đe dọa bởi nguy cơ bùng nổ của
nhiều vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ giữa các
Trần Xuân Hiệp
32
nước ở khu vực này (tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, các
vấn đề tôn giáo, sắc tộc...). Nếu những vấn đề trên
không được kiềm chế, được quản lí, nguy cơ xung đột
vũ trang ở Đông Nam Á là khó tránh khỏi.
Trong lĩnh vực kinh tế, những thách thức mà Đông
Nam Á phải đối diện cũng không nhỏ. Chủ nghĩa bảo hộ
mậu dịch gia tăng tại các nước công nghiệp phát triển,
sự điều chỉnh chính sách thương mại của Mỹ và EU đối
với ASEAN, cạnh tranh FDI và thị trường từ phía Trung
Quốc, những vấn đề kinh tế - xã hội bên trong mỗi nước
ASEAN... đã làm cho các nền kinh tế của họ phát triển
chậm lại, so với nửa sau những năm 80 thế kỷ XX. Vào
năm 1995, tăng trưởng kinh tế Thái Lan chỉ đạt mức
8,8% so với mức 12% năm 1988. GDP của Singapore
giảm từ mức 10,1% của hai năm 1993, 1994 xuống còn
7,8% vào năm 1995. Trừ Malaysia tiếp tục tăng trưởng
cao (9,4%) vào năm đó, các nền kinh tế khác đều phát
triển khá chậm chạp [5, tr.112].
Tại các nước Đông Dương, tình hình kinh tế ít
nhiều sáng sủa hơn, đặc biệt là kinh tế Việt Nam. Trong
5 năm từ 1991 - 1995, GDP của Việt Nam tăng trung
bình 8,2%. Công nghiệp tăng trung bình 13,3%. Nông
nghiệp tăng bình quân 4,5%. Sản lượng lương thực tăng
26% so với 5 năm truớc. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
17 tỉ đô la Mỹ. Nhập khẩu trên 21 tỉ đô la [1, tr.159].
Với những kết quả trên, Việt Nam đã thoát ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội mà đất nước đã lâm vào từ
giữa những năm 80 thế kỉ XX.
Nhằm giữ vững môi trường hoà bình trong khu vực
và tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trong vùng hợp
tác và phát triển kinh tế trong bối cảnh quốc tế mới, Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV đã được triệu tập ở
Singapore tháng 1/1992. Tại Hội nghị, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã thảo luận về tình hình thế giới, tình hình khu
vực và đưa ra 3 quyết định quan trọng. Đó là xúc tiến
quá trình liên kết kinh tế khu vực thông qua kế hoạch
thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong
vòng 15 năm, bắt đầu từ 1/1/1993; mở rộng hợp tác khu
vực sang lĩnh vực an ninh và tăng cường quan hệ với
các nước Đông Dương, tiến tới nhất thể hoá Đông Nam
Á trong một tổ chức hợp tác khu vực chung.
Để triển khai các kế hoạch hợp tác khu vực trên,
ASEAN rất cần tới quan hệ hữu nghị và hợp tác của các
nước lớn, đặc biệt là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Mối quan tâm của ASEAN đối với Trung Quốc là
do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một
nhân tố có ảnh hưởng hết sức quan trọng đối với hòa
bình, an ninh ở khu vực Đông Nam Á. Lịch sử Đông
Nam Á từ sau tháng 10/1949 đã chứng tỏ điều đó. Để
hạn chế các tác động tiêu cực của Trung Quốc đối với
khu vực và nhất là ngăn không cho họ thực hiện được
tham vọng nhảy vào lấp “khoảng trống quyền lực” ở
Đông Nam Á, ASEAN cần phải điều chính chính sách,
vốn không thân thiện với Trung Quốc mà nó đã thực thi
từ khi ra đời (1967) cho tới khi Chiến tranh Lạnh kết
thúc. Theo nhận thức của các nhà lãnh đạo ASEAN,
một quan hệ hòa bình, hợp tác và hữu nghị với Trung
Quốc sẽ khuyến khích Bắc Kinh đóng vai trò tích cực và
xây dựng ở Đông Nam Á.
Thứ hai, Trung Quốc là một trong những bên và là
bên lớn nhất đang tranh chấp chủ quyền với 4 nước
Đông Nam Á (Việt Nam, Philippines, Malaysia và
Brunei). Việc Bắc Kinh công bố Pháp lệnh về lãnh thổ
vàvùng phụ cận vào tháng 2/1992, đã cho các nước
Đông Nam Á thấy rõ tham vọng của Bắc Kinh đối với
vùng biển này. Với sức mạnh quân sự, kinh tế ngày
càng gia tăng, Trung Quốc có thể độc chiếm biển Đông
bằng vũ lực. Một khi Trung Quốc dùng cách này để
thực hiện tham vọng của họ, xung đột vũ trang, thậm
chí là chiến tranh, có thể sẽ xảy ra ở biển Đông. Nếu
tình hình diễn tiến như vậy, không chỉ chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của 4 nước Đông Nam Á đang tranh chấp ở
biển Đông với Trung Quốc sẽ bị đe dọa mà hòa bình, an
ninh ở Đông Nam Á cũng bị đặt trước thách thức mới.
Sự đi lại tự do và an toàn của tàu bè trên các tuyến hàng
hải quốc tế chạy qua biển Đông sẽ không thể tiếp tục.
Để ngăn ngừa, hay ít nhất, kiềm chế bớt khả năng
Trung Quốc gây hấn ở biển Đông, các nhà lãnh đạo
ASEAN càng nhận thấy sự cần thiết phải hòa giải với
Trung Quốc. Thông qua việc cải thiện quan hệ với
Trung Quốc, ASEAN hi vọng có thể cùng với Trung
Quốc tìm kiếm con đường giải quyết cuộc tranh chấp
chủ quyền ở biển Đông một cách hòa bình.
Thứ ba, những thay đổi trong chính sách đối nội và
đối ngoại của chính Trung Quốc. Từ năm 1978, Trung
Quốc đã bắt đầu thực hiện chính sách cải cách kinh tế,
mở cửa với thế giới bên ngoài.
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 29-40
33
Hệ thống quản lí kinh tế của Trung Quốc trước đây
theo mô hình Liên Xô, tập trung kế hoạch hóa cao. Ở
giai đoạn đầu, mô hình quản lí này đã giúp Trung Quốc
gặt hái được những thành công nhất định về kinh tế.
Tuy nhiên, việc áp dụng lâu dài và cứng nhắc mô hình
đó đã để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát
triển kinh tế của quốc gia này. Để lấy lại sức sống cho
nền kinh tế quốc gia, Trung Quốc đã tiến hành cải cách
cơ cấu kinh tế. Mục đích cơ bản của tái cơ cấu nền kinh
tế Trung Quốc là chuyển từ kinh tế tập trung kế hoạch
hóa sang một nền kinh tế sản xuất hàng hóa có kế hoạch
dựa trên sở hữu công, xã hội chủ nghĩa
Cùng với cải cách cơ cấu kinh tế, Trung Quốc cũng
rất nỗ lực để mở cửa hơn nữa với thế giới bên ngoài,
thông qua những hoạt động chính sau:
+ Tìm kiếm quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn không chỉ
với các nước tư bản phát triển mà cả các nước thế giới
thứ ba. Trung Quốc đặc biệt coi trọng hợp tác Nam -
Nam. Theo quan điểm của Trung Quốc, thế giới thứ ba
đang tạo thành lực lượng quyết định trong việc giữ vững
hòa bình và thay thế các quan hệ kinh tế quốc tế không
cân bằng hiện nay bằng một trật tự kinh tế quốc tế mới.
Do vậy, tăng cường hợp tác Nam - Nam không chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với kinh tế mà cả chính trị thế giới.
Với nhận thức như vậy, Trung Quốc dành ưu tiên cho
phát triển hợp tác kinh tế với thế giới thứ ba, trong đó
có ASEAN.
+ Mở cửa với thế giới bên ngoài với nhiều cấp độ
khác nhau: Cấp độ đầu tiên là xây dựng các đặc khu
kinh tế (SEZs) như Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu và
Hạ Môn.
Để thiết lập một đặc khu kinh tế trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, chính phủ đã cho phép lập ra một hệ thống
hành chính đặc biệt cùng với một chính sách kinh tế đặc
biệt cho SEZ đó. Việc phát triển của SEZ chủ yếu dựa
trên thu hút và sử dụng FDI. Khi đầu tư vào các SEZ,
các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng các đối xử ưu
đãi và những điều kiện thuận lợi về thuế quan, đi lại,
nhân sự làm việc và lưu thông tư bản. Định hướng phát
triển sản xuất của các SEZ là hướng ra xuất khẩu.
Đồng thời các SEZ cũng được yêu cầu phát triển
các dự án công nghệ tập trung tri thức. Để khai thác
khoáng sản và các nguồn lực nông nghiệp nhiệt đới, đảo
Hải Nam cũng được thực hiện một số chính sách như
một SEZ.
Trên cơ sở các kết quả ban đầu và kinh nghiệm từ
việc thực hiện SEZ, từ 1984, Trung Quốc mở ra các lĩnh
vực mới ở cấp độ thứ hai và thứ ba với thế giới bên
ngoài. Tham gia vào các cấp độ này là 14 thành phố ven
biển bao gồm Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Châu,
Đại Liên, Khu vực đồng bằng sông Dương Tử, đồng
bằng sông Châu Giang và Tam giác bao gồm Hạ Môn,
Chương Châu và Tuyền Châu ở phía Nam Phúc Kiến.
Ưu đãi về thuế và các điều kiện thuận lợi đã được dành
cho các khu vực này. Với sự phát triển công nghệ và các
ngành công nghiệp phát triển tốt và nguồn tài nguyên,
14 thành phố duyên hải được trù định phát triển bằng
vốn nước ngoài và công nghệ tiên tiến, qua đó, nâng cấp
công nghệ và tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm Trung
Quốc trênthị trường thế giới. Những thành phố ở cấp độ
này được yêu cầu sử dụng các lợi thế cạnh tranh từ nông
nghiệp để phát triển các sản phẩm nông nghiệp, dệt và
công nghiệp nhẹ cho thị trường thế giới. Từ chính sách
mở cửa đa cấp độ, triển khai dần dần theo hướng Đông -
Tây, Nam - Bắc, Trung Quốc đã gia tăng sự mở cửa từ
duyên hải vào nội địa. Các hình thức hợp tác kinh tế
khác nhau đã được phát triển bằng việc sử dụng vốn
nước ngoài và công nghệ tiên tiến.
+ Thăm dò các hình thức hợp tác quốc tế trong
những lĩnh vực kinh tế khác nhau.
Từ cuối những năm 1980, ở Trung Quốc không chỉ
có các liên doanh mà có cả các công ti hợp tác giữa
người nước ngoài với người Trung Quốc, các công tỉ
100% vốn nước ngoài trong một số ngành sản xuất. Số
liệu của Bộ Quan hệ kinh tế và Mậu dịch đối ngoại
Trung Quốc cho biết trong vòng 7 năm từ 1979 đến
1985 đã có 16,000 tỉ USD đầu tư được phê chuẩn. Tới
tháng 9/1985, đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc đã
lên tới 250 triệu USD [3, tr.27].
Bắt đầu từ 1980, Trung Quốc đã xúc tiến đầu tư ra
bên ngoài. Tới cuối 1984, đã có 150 triệu USD được
đầu tư vào các dự án phi mậu dịch ở 30 nước, trong đó
có Thái Lan và Singapore.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng bắt đầu phát triển các
quan hệ tài chính với các nước khác, mở rộng các khoản
vay nước ngoài thông qua Ngân hàng Trung Quốc, phát
hành trái phiếu trong thị trường tài chính Nhật Bản và
các nước Tây Âu.
Trần Xuân Hiệp
34
Các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh ở
Trung Quốc. Tới tháng 12/1985 đã có 155 chi nhánh của
ngân hàng nước ngoài hoạt động tại nước này [3, tr.27].
Nhờ thực hiện những biện pháp trên, tới cuối những
năm 1980, công cuộc cải cách mở cửa mà Trung Quốc
thực hiện từ 1978 đã đưa lại các kết quả rõ rệt. Kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng cao. Trong hai năm 1987 và
1988, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 2 chữ số (11,1%
và 11,3%), trong khi đó, kinh tế ASEAN, trừ Thái Lan
và Singapore, chỉ tăng trưởng dưới 9% (Xem Bảng 1).
Bảng 1. Tỉ lệ tăng trưởng thực của ASEAN 5 và Trung Quốc (%)
Năm Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Trung Quốc
1987 4,9 5,4 4,8 9,4 9,5 11,1
1988 5,8 8,9 6,3 11,1 13,3 11,3
1989 7,5 9,2 6,1 9,2 12,3 4,3
1990 7,1 9,7 2,7 8,3 11,6 3,9
1991 6,6 8,7 -0,7 6,7 7,9 8,0
Nguồn: Asian Development Bank. Key Indicators of Developing Asian and Pacific Countries, 2005
Trong hai năm 1989 và 1990, do chính sách trừng
phạt kinh tế mà các nước phương Tây áp đặt sau sự kiện
Thiên An Môn, sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
đã giảm xuống còn 4,3% và 3,9%. Tuy nhiên, nền kinh
tế này đã lấy lại đà tăng trưởng vào năm 1991 với mức
tăng 8,0%. Bất chấp lệnh trừng phạt của Mỹ, các nhà
đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục rót vốn vào nền kinh tế
Trung Quốc. Singapore là nước thành viên ASEAN
luôn thu hút được nhiều FDI nhất ở Đông Nam Á. Tuy
vậy, nếu so sánh với Trung Quốc thì mức tăng FDI của
Singapore chậm hơn nhiều. Nếu vào năm 1980, Trung
Quốc mới chỉ thu hút được 57 triệu USD, còn Singapore
đã thu hút được 1,236 tỉ USD thì tới năm 1991, Trung
Quốc đã gần đuổi kịp Singapore về số lượng FDI (4,366
tỉ của Trung Quốc so với 4,887 tỉ USD của Singapore)
(Xem Bảng 2).
Trong bối cảnh như vậy, nếu các nước thành viên
ASEAN không thay đổi chính sách đối với Trung Quốc,
họ sẽ đánh mất các cơ hội mà sự tăng trưởng kinh tế của
nước này có thể mang lại cho họ. Đây sẽ là một thiệt
thòi lớn về kinh tế, nhất là trong bối cảnh các nước
ASEAN 6 đang mất dần lợi thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, còn các thị trường truyền thống của nó
cũng bị thu hẹp do chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch của Tây
Âu, Bắc Mỹ và cả do sự cạnh tranh của Trung Quốc.
Đối với ASEAN, chính sách lạnh nhạt với Trung
Quốc cũng không còn phù hợp. Chính sách đó sẽ khiến
ASEAN không thể triển khai các kế hoạch xây dựng
một số cơ chế hợp tác đa phương trong khu vực mà nó
đang ấp ủ. Bởi vì, nếu không có sự tham gia của Trung
Quốc, bất kì sáng kiến hợp tác khu vực nào do ASEAN
đề xướng cũng khó thành hiện thực. Sự hiện diện của
Trung Quốc trong khu vực sẽ giúp ASEAN thực hiện
được chính sách cân bằng về ảnh hưởng và quyền lợi
giữa các nước lớn ở Đông Nam Á mà Hiệp hội này theo
đuổi, khi bước vào thời kì sau Chiến tranh Lạnh.
Bảng 2. Dòng FDI vào Trung Quốc và Singapore
ĐVT: triệu USD
Năm Trung Quốc Singapore
1980 57 1.236
1981 265 1.660
1982 430 1.602
1983 636 1.134
1984 1.258 1.302
1985 1.659 1.047
1986 1.875 1.710
1987 2.314 2.836
1988 3.194 3.655
1989 3.393 2.887
1990 3.487 5.575
1991 4.366 4.887
Nguồn: World Trade Analyzer (WTA) CDROM
2001 and International Monatery Fund, International
Financial Statistics, 2001.
* Tình hình Trung Quốc và nhu cầu hợp tác với
ASEAN
Những động thái mới trong chính sách Trung Quốc
của ASEAN đã nhận được những phản ứng tích cực từ
phía Bắc Kinh. Bởi vì, động thái đó phù hợp với chính
sách xích lại gần ASEAN của Trung Quốc.
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 29-40
35
Đối với Trung Quốc, Đông Nam Á có vai trò rất quan
trọng xét từ mọi góc độ.
Về phương diện an ninh, Đông Nam Á là nơi Trung
Quốc có các lợi ích an ninh trực tiếp. Nước này chia sẻ
biên giới chung trên bộ với ba nước Đông Nam Á lục
địa là Việt Nam, Lào và Myanmar. Trên biển, Trung
Quốc tiếp giáp với Việt Nam và Philippines. Mọi biến
động chính trị theo hướng tiêu cực ở Đông Nam Á đều
có thể khiến cho an ninh của Trung Quốc ở phía Nam,
Tây Nam và Đông Nam bị ảnh hưởng. Do vậy, duy trì
môi trường hòa bình, an ninh ở Đông Nam Á là phù hợp
với lợi ích an ninh của Trung Quốc.
Về phương diện kinh tế, Đông Nam Á là một thị
trường rộng lớn với gần 500 triệu dân có mức sống ngày
càng cao. Nếu thiết lập được quan hệ tốt với ASEAN, tổ
chức hợp tác khu vực của 6 nước Đông Nam Á và đang
trong quá trình mở rộng để đón nhận các thành viên mới
trên bán đảo Đông Dương, Trung Quốc sẽ có điều kiện
thuận lợi hơn để tiếp cận thị trường rộng lớn này.
Các nước Đông Nam Á ngoại trừ Singapore, đều là
những nước giàu tài nguyên thiên nhiên, nhất là các tài
nguyên Trung Quốc có ít hoặc đang cạn kiệt (dầu mỏ,
các loại khoáng sản như than, thiếc, đồng, bauxite...).
Nền nông nghiệp nhiệt đới của Đông Nam Á có thể là
nguồn nguyên liệu dồi dào cung cấp cho ngành chế biến
thực phẩm đang rất phát triển ở Trung Quốc.
Trên vùng biển Đông Nam Á có các tuyến giao
thông hàng hải nhộn nhịp vào loại bậc nhất thế giới.
Thông qua các con đường này, Trung Quốc xuất khẩu
hàng hóa ra bên ngoài và chuyên chở hàng hóa nhập
khẩu phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước.
Như vậy từ góc độ kinh tế có thể thấy Đông Nam Á
không chỉ là một nguồn lực giúp Trung Quốc duy trì tốc
độ phát triển kinh tế mà còn là nhân tố quan trọng đảm
bảo an ninh kinh tế của nước này.
Ngoài ra, ở Đông Nam Á còn có cộng đồng người
Hoa bao gồm khoảng 30 triệu người đang làm ăn, sinh
sống. Tuy chỉ chiếm 10% dân số các nước Đông Nam
Á, nhưng người Hoa chiếm tới 80% tài sản xã hội của
khu vực này [6, tr.3]. Vốn đầu tư của ASEAN vào
Trung Quốc, kể từ khi họ thực thi chính sách mở cửa,
chủ yếu là của các công ty của người Hoa ở Đông Nam
Á. Quan hệ hữu nghị và tin cậy lẫn nhau giữa Trung
Quốc với ASEAN sẽ là đảm bảo vững chắc cho dòng
vốn của người Hoa và Hoa kiều chảy vào nền kinh tế
Hoa lục.
Về phương diện chiến lược, vị trí của Đông Nam Á
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong chiến lược
vươn lên thành cường quốc toàn cầu của Bắc Kinh. Với
tầm cỡ lãnh thổ, quy mô dân số và một nền kinh tế đang
tăng trưởng mạnh mẽ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
luôn ấp ủ tham vọng trở thành một cường quốc hàng
đầu thế giới vào giữa thế kỉ XXI. Thật vậy, tại Hội nghị
toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc lần thứ 3 (khoá 11) cuối năm 1978, chiến
lược phát triển của Trung Quốc trong vòng 70 năm, từ
1980 đến 2050 đã được thông qua. Chiến lược này gồm
3 bước:
- Bước 1 (từ năm 1980 tới 1990): Trong 10 năm
này, Trung Quốc đặt chỉ tiêu tăng gấp đôi GDP và giải
quyết vấn đề ăn no, mặc ấm cho nhân dân trong nước.
- Bước 2 (1990-2000): Mục tiêu phấn đấu của bước
này là tăng gấp đôi GNP. GNP đầu người đạt mức 800
đô la Mỹ/năm; đời sống dân cư đạt mức “tiểu khang”.
- Bước 3 (từ 2000 - giữa thế kỷ XXI): Vào dịp kỉ
niệm 100 năm ngày thành lập Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa (2049), GDP đầu người của Trung Hoa lục
địa sẽ tương đương mức của các nước phát triển trung
bình. Tới lúc đó, đời sống của nhân dân Đại lục đã
tương đối giàu có. Công cuộc hiện đại hoá của Trung
Quốc sẽ hoàn thành về cơ bản.
Với một triển vọng phát triển kinh tế như vậy, lại là
một trong 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc, Trung Quốc có thể trở thành một
trong những cường quốc hàng đầu trên thế giới. Tuy
nhiên, tham vọng của Bắc Kinh không chỉ như vậy.
Điều họ mong muốn là vị thế của một cường quốc toàn
cầu, vượt Mỹ hay ít nhất là có thể sánh ngang hàng với
Mỹ. Để có được sự thừa nhận này, Trung Quốc cần xác
lập được một khu vực ảnh hưởng riêng. Trong những
khu vực xung quanh Trung Quốc, chỉ ở Đông Nam Á,
Trung Quốc mới tìm thấy những điều kiện thuận lợi để
thực hiện được mục tiêu đó.
Đông Nam Á bao gồm các quốc gia nhỏ và trung
bình. Giữa các nước còn tồn tại nhiều vấn đề do lịch sử
để lại. Do vậy, quan hệ hợp tác, tin cậy lẫn nhau giữa
các nước trong vùng chưa sâu sắc, ngay cả giữa những
Trần Xuân Hiệp
36
nước đã đứng chung trong một tổ chức hợp tác khu vực
là ASEAN, kể từ sau tháng 8/1967.
Một thuận lợi khác mà Trung Quốc có được trong
quá trình thực hiện tham vọng biến Đông Nam Á thành
khu vực ảnh hưởng của họ là Mỹ, Liên Xô, những đối
thủ chính từng tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi với
Trung Quốc ở Đông Nam Á đã không còn quan tâm tới
khu vực này như trong thập niên 70 và 80 thế kỷ XX
nữa. Từ năm 1992, họ đã rút các lực lượng quân sự khỏi
Đông Nam Á và để lại một “khoảng trống quyền lực”
trong khu vực Đây chính là cơ hội cho Trung Quốc.
Để thâm nhập được ảnh hưởng vào Đông Nam Á,
nơi hầu hết các quốc gia đều nhìn Trung Quốc với ánh
mắt nghi ngờ, Trung Quốc rất cần tới sự ủng hộ của
ASEAN. Bởi vì, là một tổ chức hợp tác khu vực,
ASEAN đang thi hành chính đối ngoại độc lập, cân
bàng ảnh hưởng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á. Mục
tiêu của chính sách là giữ cho Đông Nam Á không bị
cuốn vào vòng ảnh hưởng của bất kỳ nước lớn nào, kể
cả Trung Quốc. Chừng nào ASEAN còn thành công
trong chính sách này, “khoảng trống quyền lực” ở Đông
Nam Á vẫn tiếp tục tồn tại. Cơ hội cho Trung Quốc
nhảy vào lấp chỗ trống đó vẫn còn.
Ngoài ra, ở thời kì hậu Chiến tranh Lạnh, ASEAN
đang nỗ lực hoạt động để biến ý tưởng Hợp tác Đông Á
mà Malaysia khởi xướng thành hiện thực. Hiệp hội này
cũng đang tìm kiếm các ý tưởng, các con đường để mở
rộng hợp tác khu vực của ASEAN sang lĩnh vực an
ninh, vốn được ASEAN thận trọng né tránh trong suốt
thời kì Chiến tranh Lạnh. Những hoạt động đó của
ASEAN sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc hiện diện trong
khu vực và qua đó, nâng cao vị thế của họ Đông Nam Á
và Đông Á.
Về phương diện đối nội, ASEAN đang tìm cách
khởi động tiến trình liên kết kinh tế khu vực. Nếu
ASEAN thành công trong nỗ lực này, Trung Quốc sẽ có
thêm cơ hội để đẩy mạnh quan hệ kinh tế, mậu dịch với
các nước Đông Nam Á.
Ngoài những lợi ích ở tầm dài hạn, quan hệ với
ASEAN còn quan trọng đối với Trung Quốc ở tầm ngắn
hạn. Như mọi người đều biết, từ sau sự kiện Thiên An
Môn, Trung Quốc đã phải chịu sự trừng phạt về kinh tế
của Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Về phương diện ngoại
giao,Trung Quốc bị cô lập với cộng đồng thế giới. Uy
tín quốc tế của Trung Quốc cũng bị giảm sút nghiêm
trọng. Trong bối cảnh như vậy, việc ASEAN đưa ra
những tín hiệu hòa bình và hợp tác với Trung Quốc đã
tạo một cơ may cho Bắc Kinh giảm bớt được tình trạng
cô lập về ngoại giao và khắc phục một phần những khó
khăn về kinh tế do lệnh cấm vận của Mỹ gây ra cho họ.
Như vậy là, bước vào thời kì sau Chiến tranh Lạnh,
cả ASEAN và Trung Quốc đều có nhu cầu thiết lập
quan hệ đối thoại với nhau. Chính nhu cầu chung này đã
thúc đẩy hai bên xúc tiến các hoạt động nhằm xích lại
gần nhau, ngay từ cuối những năm 1980 vừa qua.
3. Quá trình thiết lập quan hệ đối thoại ASEAN
- Trung Quốc
3.1. Hoạt động của các nước thành viên
ASEAN nhằm cải thiện quan hệ với Trung Quốc
Là những đồng minh chống cộng gần gũi của Mỹ
trong suốt thời kì Chiến tranh Lạnh, Philippinesđã từ
chối bất kì hình thức tiếp xúc nào với các nước xã hội
chủ nghĩa, trong đó có Trung Quốc. Cho tới trước 1971,
Philippines không có quan hệ mậu dịch trực tiếp nào với
Trung Quốc, mặc dù hàng hóa Đại lục vẫn dễ dàng tìm
thấy ở Manila, do buôn bán gián tiếp giữa hai nước
thông qua Hồng Kông. Tuy nhiên, khi những dấu hiệu
đầu tiên về sự xích lại gần nhau giữa Mỹ và Trung Quốc
xuất hiện, Philippines đã điều chỉnh chính sách đối với
Đại lục. Vào tháng 9/1971, Philippines đã cử phái đoàn
thương mại đầu tiên tới Triển lãm thương mại Quảng
Châu. Sáu tháng sau, Tổng thống F.Marcos kí Sắc lệnh
hành pháp của Tổng thống số 384, chính thức hợp pháp
hóa việc buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa. Chỉ
bốn năm sau, Trung Quốc đã trở thành một trong 10 đối
tác mậu dịch hàng đầu của Philippines.
Tuy nhiên, động lực quan trọng nhất thúc đẩy
Philippines xích lại gần Trung Quốc là những phát triển
chính trị, quân sự ở bán đảo Đông Dương đầu những năm
1970. Nhận thấy mâu thuẫn đang ngày càng gia tăng giữa
Trung Quốc và Việt Nam, Philippines đã quyết định cải
thiện quan hệ với Trung Quốc nhằm dựa vào Trung Quốc
để tránh một sự “trả đũa” có thể của Việt Nam vì những
câu kết của Manila với Washington trong cuộc chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam (1954 - 1973). Tháng 6/1975,
tức là chưa đầy hai tháng sau khi chính quyền Sài Gòn
sụp đổ, Tổng thống F. Marcos đã tới Bắc Kinh để chính
thức hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Năm
1986, hai bên thiết lập cơ chế tham vấn song phương để
thảo luận các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 29-40
37
Trong suốt thập kỉ 1950 và 1960, Thái Lan, nơi đặt
tổng hành dinh của SEATO, đã ủng hộ mạnh mẽ chính
sách “kiềm chế Trung Quốc” của Mỹ. Việc giao thương
với Trung Quốc bị cấm bởi Sắc lệnh số 53 của Thủ
tướng Sarit Thanarat.
Tuy nhiên, cũng như Philippines, Thái Lan đã điều
chỉnh chính sách với Trung Quốc ngay khi xuất hiện các
động thái xích lại gần nhau giữa Bắc Kinh và
Washington. Thông qua nước thứ ba ở Scandinavia,
Thái Lan đã bày tỏ mong muốn tiếp xúc và đàm phán
với Trung Quốc. Phái đoàn Thái Lan ở Liên Hợp quốc
do Ngoại trưởng Thanat Khoman dẫn đầu đề nghị chính
phủ nước họ bỏ phiếu ủng hộ Trung Quốc thay thế Đài
Loan ở Liên hợp quốc tại cuộc họp của Đại hội đồng
Liên hợp quốc vào tháng 10/1972. Tuy nhiên, đề nghị
trên đã bị chính phủ Thái khước từ. Trong khi đó, cộng
đồng doanh nghiệp Thái Lan lại thúc giục chính phủ cho
phép buôn bán với Trung Quốc.
Đáp lại những động thái ngoại giao trên của phía
Thái Lan, Trung Quốc đã mời nước này cử đội bóng tới
tham dự Giải bóng bàn Châu Á tổ chức ở Bắc Kinh
(9/1972). Sau một cuộc thảo luận kéo dài ở Hội đồng an
ninh quốc gia, chính phủ Thái Lan đã chấp nhận lời mời
và cử Trung tướng cảnh sát Chumpoh Lohachala, Phó
trưởng cảnh sát về các vấn đề đặc biệt, dẫn đầu phái
đoàn và Prasit Kanchanawat, một nhà kinh doanh lai
Hoa và là thân tín của Thống chế Prapas Charusathien
đi theo đoàn với tư cách là cố vấn. Vai trò thật sự của
ông này là thăm dò ý định của Trung Quốc và các điều
kiện thương lượng.
Tháng 8/1972, Sắc lệnh cách mạng số 53, cấm buôn
bán với Trung Quốc, đã được sửa đổi để cho phép buôn
bán thông qua các cơ quan nhà nước. Đồng thời, phái
đoàn Thái Lan ở Liên hợp quốc do Pot Sarasin dẫn đầu,
đã gặp Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Ngoại giao và đứng
đầu phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc. Đây là
cuộc gặp đầu tiên giữa các quan chức Thái Lan và Trung
Quốc của Bộ Ngoại giao mỗi bên. Sang năm 1973, nhiều
cuộc gặp đã được thực hiện để thảo luận về các phương
diện như ngoại giao, chính trị, giao lưu thể thao...
Cuộc khủng hoảng năng lượng (1973) đã mở ra một
cơ hội mới khi phái đoàn Thái Lan do Thứ trưởng
Chattichai Choonhavan dẫn đầu thăm Bắc Kinh vào
tháng 12/1973 để thương lượng mua dầu của Trung
Quốc. Phía Trung Quốc đồng ý bán 50.000 thùng dầu cho
Thái Lan với giá hữu nghị. Phản ứng tích cực đó đã cải
thiện hình ảnh của Trung Quốc trong công chúng Thái.
Chính phủ dân sự Thái Lan cũng hủy bỏ sắc lệnh số 53
để tạo thuận lợi hơn cho việc giao thương với Trung
Quốc. Các cuộc tiếp xúc và trao đổi sau đó đã được tiến
hành thường xuyên hơn trong năm 1974 và 1975.
Ngày 1/7/1975, Thủ tướng Thái Lan Kucrit Pramot
tới Bắc Kinh. Trong Thông cáo chung kí trong chuyến
thăm trên, Trung Quốc và Thái Lan tuyên bố chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Từ đó, quan hệ Thái - Trung đã không ngừng phát
triển, đặc biệt là trong lĩnh vực chính tri - an ninh. Thái
Lan đã đứng về phía Trung Quốc trong suốt thời gian
xảy ra cuộc khủng hoảng Campuchia. Đổi lại, Trung
Quốc đã giúp đỡ Thái Lan giải quyết những khó khăn
trong phát triển kinh tế ở nửa đầu những năm 1980 và
chấm dứt sự ủng hộ đối với Đảng Cộng sản Thái Lan,
theo đề nghị của Bangkok.
Indonesialà nước thành viên nghi kị Trung Quốc
nhất. Trong khi hầu hết các nước ASEAN đã bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc, Indonesia vẫn tiếp tục giữ
khoảng cách với nước này và duy trì tình trạng không có
quan hệ ngoại giao mà họ đã chủ động cắt đứt từ năm
1965. Cho tới tháng 4/1985, Indonesia mới quyết định tái
lập quan hệ mậu dịch trực tiếp với Trung Quốc [8, tr.5].
Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, các
nhà lãnh đạo Indonesia đã nhận thấy việc tiếp tục chính
sách lạnh nhạt với Trung Quốc là bất lợi cho Indonesia
cả về đối nội lẫn đối ngoại. Các doanh nghiệp Indonesia
có thế mất các cơ hội kinh doanh tại thị trường Trung
Quốc. Điều này có nghĩa là kinh tế Indonesia sẽ không
có được một nguồn lực mới khi nó đang bị suy giảm
nghiêm trọng do giảm thu nhập về dầu mỏ. Chính sách
đa dạng hóa kinh tế mà Indonesia đang chủ trương thực
hiện sẽ khó thành công, nếu chính phủ nước này không
thể tìm kiếm thị trường mới cho các ngành công nghiệp
chế tạo của họ [7].
Về phương diện đối ngoại, là nước lớn nhất ở Đông
Nam Á, Indonesia có thể đóng vai trò lãnh đạo quan
trọng cả trong nền chính trị nội bộ khu vực lẫn trong
quan hệ với các cường quốc bên ngoài. Tuy nhiên, sự
không mềm dẻo về ngoại giao mà Jakarta thể hiện qua
chính sách đối với Trung Quốc, có thể làm giảm vai trò
của họ Indonesia là nước lớn thế giới thứ ba duy nhất
Trần Xuân Hiệp
38
không có đại diện ngoại giao tại Bắc Kinh. Điều này, tự
nó, đã là không bình thường.
Với nhận thức như vậy, Indonesia đã quyết định
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Tiếp sau việc
kí Bản ghi nhớ giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp
Indonesia (KADIN) và Hội đồng xúc tiến mậu dịch
quốc tế Trung Quốc ngày 5/7/1985, Tổng thống Suharto
đã ban bố Chỉ dụ Số 9/1985 ngày 23 tháng 7/1985 chính
thức tán thành việc nối lại quan hệ mậu dịch trực tiếp
giữa hai nước. Tới tháng 10/1986, hầu hết các cản trở về
thể chế đối với mậu dịch trực tiếp được tháo dỡ và
KADIN đã chuẩn bị để mở văn phòng tại Bắc Kinh.
Những động thái mới, tích cực trong nền ngoại giao
Indonesia đã nhận được phản ứng tích cực từ Trung
Quốc. Chính Bắc Kinh cũng khao khát tái lập quan hệ với
Jakarta. Bởi vì, “sự vắng mặt một phái đoàn ngoại giao ở
Jakarta là lời nhắc nhở Bắc Kinh về một cuộc phiêu lưu
ngoại giao sai lầm và sự thất bại của họ trong lĩnh vực
này khiến họ không thể mở quan hệ với các nước Châu Á
khác. Bắc Kinh cũng sẽ bị kiềm chế trong nỗ lực phát
triển quan hệ tích cực với ASEAN, đặc biệt là trong cải
thiện quan hệ với Malaysia và Singapore” [8, tr.5].
Với nỗ lực của cả hai bên, ngày 8/8/1990, quan hệ
giữa Indonesia và Trung Quốc đã được chính thức tái lập.
Các nước thành viên khác của ASEAN (Malaysia,
Singapore, Brunei) cũng xúc tiến các hoạt động để cải
thiện quan hệ với Trung Quốc. Tháng 10/1990,
Singapore, nước cuối cùng trong nhóm ASEAN, đã
chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa.
Như vậy, tới cuối những 1990, tất cả các nước
ASEAN đã thiết lập, cải thiện hoặc phát triển quan hệ
với Trung Quốc. Thực tế này tạo thuận lợi cho ASEAN
xúc tiến các hoạt động nhằm tiến tới thiết lập quan hệ
đối thoại với Trung Quốc.
3.2. Các hoạt động của ASEAN và Trung Quốc
vì mục tiêu thiết lập quan hệ giữa hai bên
Trước 1975, ASEAN không tìm kiếm quan hệ với
Trung Quốc đại lục. Cũng như các nước thành viên của
nó, ASEAN công nhận Đài Loan. Sau khi Trung Quốc
được tham gia vào Liên hợp quốc vào năm 1971,
ASEAN đã điều chỉnh chính sách đối với Cộng
hoàNhân dânTrung Hoa. Cũng vào thời gian đó, Trung
Quốc công nhận ASEAN với tư cách là một tổ chức hợp
tác khu vực của các quốc gia Đông Nam Á phát triển
theo con đường phi xã hội chủ nghĩa. Tháng 11/1978,
trong chuyến thăm Thái Lan, Singapore và Malaysia,
Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình bày tỏ
mong muốn phát triển quan hệ với tất cả các nước
ASEAN. Trong chuyến thăm Thái Lan tháng 11/1988,
Thủ tướng Lý Bằng đã tuyên bố 4 nguyên tắc trong việc
thiết lập, tái lập và phát triển quan hệ với các nước
ASEAN. Sau tái lập quan hệ ngoại giao với Indonesia
(8/8/1990), Singapore (3/10/1990), Trung Quốc đã thúc
đẩy quan hệ chính thức với tất cả các nước ASEAN.
Để thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, ngày
19/7/1991, Malaysia, nước đang giữ vai trò Điều phối
ASEAN và là nước chủ nhà của Hội nghị Bộ trưởng
ngoại giao ASEAN lần thứ 24 (AMM 24) đã mời Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tham dự
phiên khai mạc hội nghị với tư cách khách mời của
chính phủ Malaysia. Trong dịp này, Bộ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc đã có cuộc họp không chính thức đầu
tiên với Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN. Tại
cuộc họp, ông bày tỏ mong muốn của Trung Quốc có
quan hệ với ASEAN với tư cách một Nhóm nước.
Sự kiện Ngoại trưởng Trung Quốc tham dự AMM
24 được ASEAN và Trung Quốc coi là sự kiện mở đầu
cho quan hệ giữa hai bên. Hiện nay, ASEAN và Trung
Quốc lấy ngày 19/7 hàng năm để kỉ niệm sự kiện thiết
lập quan hệ giữa hai bên. Trong thực tế, đã không có bất
kì một thông báo hay một tuyên bố chính thức nào được
đưa ra vào ngày 19/7/1991 đề cập tới việc thiết lập quan
hệ giữa ASEAN và Trung Quốc.
4. Ý nghĩa của việc thành lập quan hệ đối thoại
ASEAN - Trung Quốc
Việc thiết lập quan hệ đối thoại giữa ASEAN và
Trung Quốc đã mở ra một thời kì mới trong quan hệ
giữa Đông Nam Á và Trung Quốc. Sự kiện này không
chỉ chấm dứt tình trạng lạnh nhạt, đề phòng lẫn nhau
giữa hai bên và còn tạo cơ hội cho ASEAN và Trung
Quốc xúc tiến hợp tác với nhau trong các lĩnh vực kinh
tế, mậu dịch, khoa học và công nghệ.
Những chương trình, những dự án hợp tác được
triển khai sau đó giữa hai bên sẽ giúp cho cả ASEAN
lẫn Trung Quốc phát huy được các lợi thế so sánh của
mình trong hợp tác cùng phát triển.
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 29-40
39
Đối với từng bên trong mối quan hệ này, quan hệ
đối thoại ASEAN - Trung Quốc cũng đem lại những lợi
ích riêng, rất quan trọng.
Về phía ASEAN, quan hệ đối thoại với Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa tạo cơ hội cho ASEAN khai thác
vị trí địa - chính trị của mình và các nước thành viên để
kiềm chế bớt tham vọng của Trung Quốc đối với khu
vực. Thông qua quan hệ ASEAN - Trung Quốc,
ASEAN sẽ có điều kiện đưa dần Trung Quốc vào các cơ
chế hợp tác đa phương mà ASEAN dự kiến thiết lập ở
Đông Nam Á, Đông Á và Châu Á - Thái Bình Dương
trong những năm về sau. Sự tham gia của Trung Quốc
vào các cơ chế này vừa đảm bảo sự thành công cho việc
thiết lập các cơ chế, các tiến trình đó vừa giúp ASEAN
có thêm các công cụ về thể chế để quản lí ảnh hưởng
của Trung Quốc đối với khu vực của mình.
Quan hệ đối thoại với Trung Quốc cũng sẽ giúp
ASEAN có chất xúc tác mới để thúc đẩy quan hệ của
Hiệp hội này với các cường quốc khác. Không phải
ngẫu nhiên, trong những năm đầu của thời kì hậu Chiến
tranh Lạnh, Nhật Bản đã nỗ lực đẩy mạnh quan hệ với
ASEAN, còn EU thì khởi động “Chính sách châu Á
mới” trong đó ASEAN được xem là bàn đạp, là cửa ngõ
để đi vào khu vực Đông Á sôi động về kinh tế và chính
trị. Về phía Ấn độ nước này coi ASEAN là trung tâm
trong chính sách “Hướng Đông” mà New Delhi bắt đầu
triển khai từ 1990.
Đối với các nước thành viên ASEAN, quan hệ đối
thoại giữa tổ chức hợp tác khu vực của họ với Trung
Quốc sẽ tạo thuận lợi hơn cho giới doanh nghiệp của
các nước đó đầu tư, kinh doanh ở Trung Quốc.
Mối quan hệ này cũng sẽ khiến chính sách của
Trung Quốc đối với đất nước họ trở nên rõ ràng, minh
bạch hơn. Trung Quốc sẽ không thể tiếp tục cái gọi là
“quan hệ giữa Đảng với Đảng” để can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước đó như trong thời kì Chiến
tranh Lạnh nữa.
Để xây dựng lòng tin với họ cũng như với ASEAN,
Trung Quốc cũng sẽ phải điều chỉnh chính sách đối với
người Hoa để vừa có thể tiếp tục thu hút các nguồn lực
của người Hoa ở các nước ASEAN vào phát triển kinh
tế, vừa sử dụng họ như cầu nối giữa Trung Quốc và các
nước chủ nhà.
Đối với Đông Nam Á, sự hiện diện của Trung Quốc
sẽ giúp kiềm chế bớt tham vọng đối với khu vực này
của các cường quốc khác, trước mắt là Nhật Bản. Khi
không nước lớn nào giành được ảnh hưởng ưu thế trong
khu vực, hòa bình và an ninh ở Đông Nam Á sẽ được
giữ vững.
Đối với Trung Quốc, thành công của việc thiết lập
quan hệ với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á là một
thắng lợi lớn về ngoại giao ngay trong năm đầu tiên của
thời kì hậu Chiến tranh Lạnh. Trong khi các nước
phương Tây tìm mọi cách cô lập Trung Quốc về ngoại
giao, bao vây về kinh tế nhằm tạo cơ hội cho các lực
lượng chính trị đối lập trong nước tiến hành “diễn biến
hòa bình” ở Trung Quốc, thì việc Trung Quốc thiết lập
được quan hệ đối thoại với ASEAN, một tổ chức hợp
tác khu vực đang có uy tín chính trị và quốc tế cao trên
thế giới, đã làm thất bại chính sách kiềm chế Trung
Quốc của phương Tây.
Việc ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại với Trung
Quốc cho thấy ASEAN đánh giá cao vai trò và vị thế
của Trung Quốc ở Đông Nam Á.
Tư cách đối tác đối thoại của ASEAN sẽ mở đường
cho Trung Quốc trở thành đối tác đối thoại đầy đủ của
ASEAN và hiện diện ở Đông Nam Á với tư cách một
nước lớn, ngang hàng với Mỹ, EU, Nhật Bản và các
cường quốc khác trong một trật tự khu vực do ASEAN
đang tích cực kiến tạo.
Cuối cùng, quan hệ đối thoại với ASEAN sẽ tạo
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Trung Quốc đến
đầu tư, kinh doanh ở các nước thành viên Hiệp hội.
Quan hệ đó cũng cung cấp cho các nhà đầu tư ASEAN
một “sự bảo hiểm khu vực” bên cạnh “bảo hiểm quốc
gia” do chính phủ nước họ cung cấp. Điều này sẽ tạo
khuyến khích họ đầu tư mạnh hơn và dài hơi hơn vào
nền kinh tế Đại lục, vốn còn nhiều trắc trở do đang
trong thời kì chuyển đổi.
Quan hệ chính thức giữa Trung Quốc với ASEAN
cũng mang lại lợi ích cho Cộng đồng người Hoa ở Đông
Nam Á. Sự phát triển theo hướng hữu nghị và hợp tác
của Trung Quốc với ASEAN và các nước thành viên
của nó giúp người Hoa, Hoa kiều nâng cao được vị thế
chính trị ở nước chủ nhà. Không chỉ chính phủ mà cả
doanh nghiệp các nước đó cũng cần tới họ, khi đầu tư
kinh doanh ở thị trường Trung Quốc.
Trần Xuân Hiệp
40
5. Kết luận
Chiến tranh Lạnh kết thúc đã chấm dứt, về cơ bản,
bầu không khí ngột ngạt mà loài người đã phải chịu
đựng trong đó suốt 4 thập niên rưỡi. Trong môi trường
hòa dịu và cởi mở của kỉ nguyên sau chiến tranh, hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều coi phát triển kinh tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân chúng của họ là
một trong những ưu tiên cao nhất trong chương trình
nghị sự. Các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc
cũng vậy. Để phát triển, họ đều cần tới một môi trường
hòa bình và ổn định ở những khu vực xung quanh. Họ
cũng cần tới sự hợp tác kinh tế để có thể bổ sung và chia
sẻ các nguồn lực cho nhau vì mục tiêu cùng phát triển.
Chính những lợi ích chung đó cùng với tác động
của xu hướng hòa bình và hợp tác trong môi trường
quốc tế mới những năm đầu của thời kìsau Chiến tranh
Lạnh thập đã thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc xích lại
gần nhau. Nhờ thiện chí và những nỗ lực của cả hai bên,
quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc đã chính thức
được thiết lập vào tháng 7 năm 1991. Sự kiện này đã có
những đóng góp to lớn đối với hòa bình, an ninh và phát
triển của Đông Nam Á nói chung, ASEAN và Trung
Quốc nói riêng.
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Colin S Gray (1996), “The Continued Primacy of
Geography”, Orbis, vol.40, no.2, Spring.
[3] Cheng Bifan, Zhang Nansheng (1987),
“Institutional Factors in China - ASEAN
economic relations”, trong cuốn ASEAN - China
economic relations: Trends and Pattern, Edited by
Chia Siow - Yue,Cheng Bìan, Institute of World
Economics and Politics and ASEAN Economic
Units, Institute of Southeast Asia , Singapore.
[4] Derek da Cunha, “Southeast Asian perceptions of
China’s future security role in its Backyard”,
AJ:wwwrand.or/pubs/conf_proceedings.
[5] Nguyễn Duy Quý (2001), Tiến tới một ASEAN
hoà bình, ổn định và phát triển bền vững, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6] Thông tấn xã Việt Nam, Vai trò của Trung Quốc
đối với Đông Nam Á và Việt nam trong lĩnh vực
kinh tế, đăng trên mạng Sina ngày 10/6/2008.
TTXVN dịch và đăng trên TLTKĐB số ra ngày
20/6/ 2008.
[7] Trade talks successful, Strait Times, Singapore, 4
June 1985.
[8] John Wong (1987), “An Overview of ASEAN -
China Economic Relations” trong ASEAN - China
Economic Relations: Trends and Pattern, Edited by
Chia Siow- Yue,Cheng Bifan, Institute of World
Economics and Politics and ASEAN Economic
Units, Institute of Southeast Asia, Singapore.
ASEAN - CHINA DIALOGIC RELATION:
REASONS, ESTABLISHMENT AND SIGNIFICANCE
Abstract: The ASEAN-China dialogic relation was started at the 24th ASEAN Foreign Ministers Meeting in July 1991 in Kuala
Lumpur, Malaysia. After more than two decades of development, the ASEAN-China cooperation has become one of the most active
and effective partnerships among ASEAN relationships with dialogic partners. This relationship has made great contributions to the
peace, security and development of Southeast Asia in general, ASEAN and China in particular. This article focuses on analyzing
factors that led to the establishment of the ASEAN-China relationship, the process of establishing their dialogue relation and the
significance of this relation.
Key words: ASEAN; China; relations; dialogic; partners.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_doi_thoai_asean_trung_quoc_nguyen_nhan_qua_trinh_va.pdf