Hiện nay, Điều 110 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi) quy định: “Ngoài Thủ tướng, các thành
viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại
biểu Quốc hội”. Như vậy, chức vụ Bộ trưởng
ở nước ta vẫn có thể kiêm nhiệm chức danh
đại biểu Quốc hội. Trên thực tế, số lượng đại
biểu Quốc hội nằm trong cơ quan của Chính
phủ khá nhiều, ở Quốc hội khóa XI là 22 đại
biểu, Quốc hội khóa XII giảm 7 đại biểu2. Ngày
3/8/2011, Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn
danh sách thành viên Chính phủ, trong số 22
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có
14 Bộ trưởng, 01 Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ là đại biểu Quốc hội (www.chinhphu.vn).
Như vậy, số lượng đại biểu Quốc hội nằm trong
cơ quan của Chính phủ ở nhiệm kỳ khóa XIII
vẫn giống nhiệm kỳ khóa XII. Việc quy định
Bộ trưởng có thể là đại biểu Quốc hội cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối
với Bộ trưởng chưa cao.
Thiết nghĩ, khi sửa đổi Hiến pháp 1992
chúng ta nên sửa đổi Điều 110 Hiến pháp theo
hướng: “Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác
của Chính phủ không phải là đại biểu Quốc
hội”. Quy định này nhằm góp phần đổi mới
và nâng cao hiệu quả của mối quan hệ pháp
lý giữa Quốc hội và Chính phủ Việt Nam, đáp
ứng mục tiêu mà Đại hội Đảng XI đặt ra: “Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền
lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ giữa quốc hội và chính phủ trong hiến pháp 1958 của pháp và vận dụng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 618
2011
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Mối quan hệ trong hoạt động lập pháp
Hiến pháp 1958 của Pháp ra đời ngày
4/10/1958 thay thế Hiến pháp 1946 nhằm
phân định rõ ba quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp; thiết lập một Quốc hội do dân bầu
nhưng bị hạn chế quyền lực; nâng cao vị thế
của Chính phủ; xây dựng chế định nguyên thủ
quốc gia là hiện thân của quyền hành pháp để
điều khiển mọi hoạt động của Chính phủ. Một
trong những mục tiêu của các nhà soạn thảo
Hiến pháp 1958 là: gia tăng quyền hành pháp
trong mối tương quan với quyền lập pháp1.
Với tư tưởng đó, mặc dù vẫn khẳng định
trung thành với Tuyên ngôn Nhân quyền 1789
và Hiến pháp năm 1946 nhưng Hiến pháp 1958
có nhiều cải cách trong mối quan hệ giữa Quốc
hội và Chính phủ. Hiến pháp 1958 dành riêng
một chương (chương 5) với 18 điều để ghi
nhận mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
trên ba lĩnh vực cơ bản: lập pháp, giám sát và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước. Đây là những lĩnh vực quan trọng mà
bất kỳ quốc gia nào cũng phải giải quyết.
Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính
phủ Pháp trong hoạt động lập pháp được thể
hiện chủ yếu thông qua hai vấn đề chính: đối
tượng điều chỉnh của quyền lập pháp và quy
trình lập pháp.
Đối tượng điều chỉnh của quyền lập pháp
và quyền hành pháp được Hiến pháp phân
định rõ ràng. Theo quy định tại Điều 34, Quốc
hội có quyền lập pháp trong các lĩnh vực như:
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
nhân quyền (quyền công dân); quốc tịch; dân
sự (hôn sản, thừa kế, sinh tặng, quyền và nghĩa
vụ dân sự); hình sự (trọng tội, khinh tội, hình
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là nhiệm vụ mà Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhất là hiện nay khi cơ cấu nhân sự bộ máy nhà nước đã được Kỳ họp thứ
nhất, Quốc hội khóa XIII thông qua. Để bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả, vấn đề cơ bản là giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, đặc biệt là quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ. Học hỏi kinh nghiệm
các nước tiên tiến, từ đó vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam là một yêu cầu cần thiết. Bài
viết trình bày mối quan hệ pháp lý giữa Quốc hội và Chính phủ nước Cộng hòa Pháp, qua đó đưa ra một số ý
kiến về việc vận dụng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vũ THU HằNG*
QUAN HỆ GIỮA QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ
TRONG HIẾN PHÁP 1958 CỦA PHÁP
VÀ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
(*) ThS. Trường cao đẳng Nội vụ Hà Nội.
(1) Nguyễn Đăng Dung, Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 396.
62 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
phạt); tài chính (giá, thuế, quy chế phát hành
tiền tệ); hành chính (bầu cử, thành lập các loại
sở công lập, công chức); giáo dục; quốc phòng
(ấn định nguyên tắc cơ bản về tổ chức tổng
quát quốc phòng); lao động (quyền làm việc,
bảo hiểm xã hội). Những vấn đề khác sẽ được
Chính phủ quy định bằng Sắc lệnh. Chính phủ
còn có thể ban hành Sắc lệnh để sửa đổi các
đạo luật của Quốc hội. Tuy nhiên, việc sửa đổi
này phải tuân theo những nguyên tắc nhất định
như: phải có sự thỏa thuận của Tham chính
viện; những đạo luật ban hành sau khi Hiến
pháp 1958 có hiệu lực chỉ có thể bị sửa đổi bởi
Sắc lệnh nếu Hội đồng Bảo hiến tuyên bố đạo
luật có tính cách lập quy (Điều 37).
Về quy trình lập pháp, đây là một trong
những quy trình quan trọng thuộc chức năng
của Quốc hội các nước. Mỗi quốc gia tùy thuộc
vào đặc điểm của mình có những quy trình
lập pháp riêng. Tuy nhiên, hầu hết quy trình
lập pháp của Nghị viện các nước tư sản đều
bắt nguồn từ sáng kiến lập pháp, sau đó soạn
thảo dự án luật trình các ủy ban của Nghị viện
xem xét thông qua. Quy trình ban hành luật
của Nghị viện Pháp cũng tuân thủ những quy
định chung đó. Mối quan hệ giữa Nghị viện và
Chính phủ Pháp được thiết lập chặt chẽ trong
quy trình, thủ tục này.
Ở Pháp, sáng kiến lập pháp thuộc về nghị sĩ
và thành viên Chính phủ. Chính phủ có vai trò
đặc biệt với quyền sáng kiến lập pháp. Điều 39
Hiến pháp quy định: “Thủ tướng và các thành
viên Nghị viện đều có quyền đưa ra sáng kiến
ban hành luật. Các dự thảo luật được đưa ra
thảo luận tại Hội đồng Bộ trưởng sau khi có
ý kiến của Toà án hành chính tối cao và được
trình lên Thường vụ Hạ viện hoặc Thường vụ
Thượng viện”. Nghị sĩ và thành viên Chính
phủ còn có quyền yêu cầu sửa đổi luật (Điều
44). Tuy nhiên, các đề xuất sửa đổi, bổ sung
do thành viên Nghị viện đưa ra sẽ không được
chấp nhận nếu việc thông qua các đề xuất sửa
đổi, bổ sung đó có hệ quả làm giảm nguồn
lực của Nhà nước, tạo ra hoặc làm tăng thêm
khoản chi của Nhà nước (Điều 40).
Ở Việt Nam, bốn bản Hiến pháp đều quy
định Chính phủ có quyền trình dự án luật trước
Quốc hội (quyền sáng kiến lập pháp). Tuy
nhiên, chủ thể quyền sáng kiến lập pháp ở nước
ta rất rộng. Ngoài Chính phủ, Điều 87 Hiến
pháp 1992 quy định: “Chủ tịch nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận,
các đại biểu Quốc hội cũng có quyền trình dự
án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội
thực hiện quyền kiến nghị về luật thông qua
việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi,
bổ sung luật hiện hành”. Trên thực tế, ở nước
ta, quyền sáng kiến lập pháp là thực quyền đối
với Chính phủ nhưng lại là quyền mang tính
hình thức đối với đại biểu Quốc hội. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
giảm sút vai trò lập pháp của Quốc hội Việt
Nam. Vấn đề nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội, xây dựng cơ chế phát huy vai trò của
đại biểu Quốc hội trong hoạt động sáng kiến
lập pháp cần được đặc biệt quan tâm trong
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII.
Trong quy trình lập pháp của Pháp, các chủ
thể của sáng quyền lập pháp soạn thảo và trình
dự án luật ra một trong các ủy ban thường trực
của hai viện để xem xét. Hiến pháp quy định
thẩm quyền của Hạ viện và Thượng viện trong
lĩnh vực lập pháp là khá bình đẳng nhưng đối
với dự án luật về tài chính thì phải đưa ra Hạ
viện xem xét trước. Báo cáo thẩm tra của các
ủy ban là cơ sở để các viện thảo luận và thông
qua dự án.
Thủ tục trình dự án luật của các nghị sĩ
cũng tương tự thủ tục trình dự án luật của
Chính phủ. Dự án luật được chuyển cho Uỷ
ban có liên quan nghiên cứu, xem xét khi có
yêu cầu của Chính phủ hoặc của một trong hai
Viện đã nhận được dự án luật đó. Dự án luật
mà không có đề nghị của Chính phủ hoặc một
trong hai Viện sẽ được chuyển cho một trong
những Uỷ ban chuyên trách của Hạ viện hoặc
của Thượng viện (Điều 43).
Khi xem xét dự án luật tại Nghị viện, Nghị
viện phải xem xét các dự án luật do Chính phủ
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 638
2011
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
đệ trình đầu tiên. Đối với những yêu cầu sửa
đổi luật không được ủy ban nghiên cứu trước,
Chính phủ có thể phản đối.
Sau khi đã được thông qua tại một viện, dự
án luật phải trình sang viện kia để biểu quyết,
chấp thuận. Vai trò của Chính phủ là rất lớn
khi có sự bất đồng ý kiến giữa hai Viện. Trong
trường hợp Chính phủ tuyên bố tính cấp thiết
phải ban hành dự án luật đó thì Thủ tướng có
quyền đề nghị một Ủy ban hỗn hợp có thành
phần ngang số giữa Hạ viện và Thượng viện
chịu trách nhiệm soạn thảo, đề xuất một văn
bản về các quy định vẫn còn có ý kiến khác
nhau. Chính phủ có thể đưa văn kiện do Ủy
ban soạn thảo cho hai Viện chuẩn y. Nếu Ủy
ban trên không thể mang lại sự thỏa hiệp,
Chính phủ có quyền yêu cầu Hạ viện đưa ra
quyết định cuối cùng (Điều 45).
Như vậy, Hiến pháp 1958 của Pháp đã quy
định khá cụ thể quy trình lập pháp của Quốc
hội. So với các Hiến pháp trước, thủ tục lập
pháp trong Hiến pháp 1958 đã giúp Chính phủ
có thể can thiệp khá sâu vào quy trình xem xét
dự án luật tại hai Viện của Quốc hội; giúp hạn
chế một phần quyền lực của Quốc hội và thiết
lập một Chính phủ mạnh hơn, có thể kiểm soát
quyền lập pháp của Quốc hội.
2. Hoạt động quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước
Hiến pháp 1958 của Pháp đã có những cải
cách nhất định trong cách thức tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước đồng thời vẫn tôn
trọng Tuyên ngôn Nhân quyền 1789. Đây là
Tuyên ngôn chi phối quy định về thẩm quyền
quyết định những vấn đề quan trọng có liên
quan đến chủ quyền quốc gia. Điều 3 Hiến
pháp quy định nhân dân Pháp là chủ thể duy
nhất của chủ quyền quốc gia. Nhân dân Pháp
thực hiện chủ quyền quốc gia dưới hai hình
thức: thông qua đại diện và thông qua con
đường trưng cầu ý kiến nhân dân. Như vậy, xét
về nguyên tắc, Quốc hội Pháp là những người
đại diện cho nhân dân quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước.
Đây là điểm tương đồng giữa Hiến pháp
Pháp và Hiến pháp Việt Nam. Hiến pháp Việt
Nam luôn khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Nhân dân Việt Nam là chủ
thể duy nhất của quyền lực nhà nước. Nhân
dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua
cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Tuy nhiên, nếu Hiến pháp
của Pháp khẳng định trực tiếp hai hình thức
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thì
Hiến pháp Việt Nam chưa trực tiếp quy định
nghĩa vụ trưng cầu ý dân của Nhà nước. Hình
thức này chỉ được gián tiếp quy định thông qua
quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân.
Khi sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng ta nên quy
định rõ: trong trường hợp quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước, Nhà nước có
nghĩa vụ trưng cầu ý dân.
Những vấn đề quan trọng nhất của đất nước
do Quốc hội Pháp quyết định. Quốc hội biểu
quyết thông qua luật quy định các vấn đề như:
các quyền dân sự, tài chính, quốc phòng
(Điều 34). Để thực hiện chương trình hoạt động
của mình, Chính phủ có thể yêu cầu Nghị viện
cho phép ban hành Pháp lệnh quy định việc áp
dụng trong một thời gian nhất định các biện
pháp thông thường thuộc phạm vi điều chỉnh
của luật. Các Pháp lệnh này được ban hành sau
khi đã đưa ra thảo luận tại Hội đồng Bộ trưởng
và sau khi có ý kiến của Toà án Hành chính tối
cao (Điều 38).
Đối với những lĩnh vực quan trọng, Quốc
hội Việt Nam có thể đưa ra quyết định dưới
hai hình thức: luật và nghị quyết. Hiện nay,
nhiều nhà khoa học cho rằng, tính chất pháp
lý của nghị quyết chưa rõ ràng, chế tài trong
nghị quyết đối với các cơ quan thực hiện cũng
không có. Vì vậy, với những vấn đề trọng đại
của đất nước, Quốc hội nên phân loại rõ hơn
và ban hành luật.
Ở Pháp, vai trò của Chính phủ trong hoạt
động quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước được thực hiện thông qua Tổng
thống. Đối với những hoạt động về thực thi các
mục tiêu chính trị như: quyết định đưa ra trưng
cầu ý dân; bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm sự độc
lập quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm sự
64 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 16(201) 82011
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hoạt động và điều hòa các cơ quan công quyền,
Tổng thống trực tiếp quyết định. Theo quy định
tại Điều 16: “Khi có sự đe doạ nghiêm trọng
và trực tiếp đến sự tồn tại của các thiết chế của
nền Cộng hoà, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh
thổ hay đến việc thực hiện các cam kết quốc tế
của nước Cộng hoà Pháp và có sự đứt quãng
trong hoạt động bình thường của các cơ quan
hiến định của Nhà nước, Tổng thống có quyền
áp dụng mọi biện pháp cần thiết để khắc phục,
sau khi tham khảo ý kiến chính thức của Thủ
tướng, Chủ tịch của hai Viện và Chủ tịch Hội
đồng Hiến Pháp”.
Đối với các nhiệm vụ khác như việc ấn định
và điều khiển chính sách quốc gia, Chính phủ
sẽ quyết định và thực thi với việc sử dụng bộ
máy hành chính và quân lực. Thủ tướng bảo
đảm việc thi hành luật và thực hiện quyền lập
quy. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc
hội theo điều kiện và thủ tục luật định.
Như vậy, nếu loại trừ vai trò của Tổng
thống đối với Chính phủ thì chính thể của nhà
nước Pháp thể hiện nhiều đặc điểm của chính
thể cộng hòa đại nghị. Chính phủ thực hiện
hoạt động quản lý, chấp hành những chính
sách quan trọng do Quốc hội quyết định. Mối
quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ Pháp khi
quyết định những vấn đề trọng đại của quốc
gia thể hiện phần nào chức năng chấp hành -
điều hành của Chính phủ đối với Quốc hội.
3. Hoạt động giám sát
Mặc dù chế độ chính trị của Pháp theo Hiến
pháp 1958 không giống chế độ Nghị viện của
Anh, cũng không giống chế độ Tổng thống của
Mỹ mà thể hiện một chính thể cộng hòa hỗn
hợp, lưỡng tính nhưng mối quan hệ pháp lý
giữa Quốc hội và Chính phủ Pháp vẫn thể hiện
rõ nét nguyên tắc: kiểm soát quyền lực và cân
bằng quyền lực.
Yếu tố cân bằng quyền lực cũng thể hiện
trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ta.
Đó chính là sự phân công, phối hợp giữa các
cơ quan thực hiện ba quyền: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Yếu tố kiểm soát quyền lực đã
chính thức được Đại hội Đảng IX nêu ra và trở
thành một định hướng cơ bản trong đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi nhận thêm
một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tại Điều 2; đó là nguyên tắc:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Điều này bắt nguồn từ quan
điểm của Đại hội Đảng IX. Trong thời gian
tới, Hiến pháp nên tiếp tục thể chế hóa đường
lối Đại hội Đảng XI bằng cách ghi nhận thêm:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây cũng là một
định hướng cơ bản cho việc đổi mới và nâng
cao hiệu quả trong hoạt động giám sát giữa các
cơ quan nhà nước Việt Nam.
Theo Hiến pháp 1958, Chính phủ Pháp khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình vẫn
chịu sự giám sát của Quốc hội. Quốc hội có
quyền khiển trách, lật đổ Thủ tướng và Nội
các. Hoạt động chất vấn đối với thành viên
Chính phủ của hai Viện vẫn là một hoạt động
thường xuyên trong nghị trình của Quốc hội.
Nghị trình hai Viện sẽ dành trong một tuần một
khóa họp để chất vấn nhân viên Chính phủ và
để nghe câu trả lời của Chính phủ (Điều 48).
Khi Chính phủ ấn định chính sách quốc gia
theo Điều 20, chính sách này phải được biểu
quyết tại Hội đồng Bộ trưởng. Sau đó, Thủ
tướng đặt trước Hạ nghị viện vấn đề tín nhiệm
chương trình hay chính sách tổng quát. Hạ nghị
viện sẽ tiến hành bỏ phiếu đối với kiến nghị phê
bình. Kiến nghị này chỉ có giá trị nếu được phê
chuẩn bởi ít nhất 1/10 tổng số Hạ nghị sĩ. Nếu
kiến nghị không được chấp thuận, các Hạ nghị
sĩ không thể đề nghị kiến nghị mới trong cùng
khóa họp đó. Sau khi được Hạ nghị viện chấp
thuận, Thủ tướng có quyền yêu cầu Thượng nghị
viện chuẩn y tuyên cáo của Thủ tướng về chính
sách tổng quát. Trong trường hợp Hạ nghị viện
chấp nhận kiến nghị phê bình hay không chấp
thuận chương trình về chính sách tổng quát của
Thủ tướng, Thủ tướng phải từ chức.
Số 16(201) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 658
2011
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Ngược lại, Chính phủ cũng có những kiểm
soát nhất định đối với Quốc hội thông qua vai
trò của Tổng thống và thành viên Chính phủ.
Theo quy định của Hiến pháp, Tổng thống có
thể giải tán Hạ nghị viện, sau khi hỏi ý kiến
của Thủ tướng và Chủ tịch hai Viện.
Tổng thống có quyền yêu cầu Quốc hội
phúc nghị lại một phần hay toàn bộ dự luật
trước khi ban hành. Điều 10 Hiến pháp quy
định: “Tổng thống ban hành đạo luật 15 hôm
sau khi dự luật do Quốc hội chung quyết được
chuyển lên Tổng thống. Trước khi mãn thời
hạn trên, Tổng thống có thể yêu cầu Quốc hội
phúc nghị toàn thể dự luật hay một vài điều
khoản của dự luật”.
Ngoài vai trò của Tổng thống, sự kiểm soát
của Chính phủ đối với Quốc hội cũng được
thực hiện trong một số trường hợp nhất định.
Chẳng hạn như đối với quy trình xây dựng dự
luật tài chính, dự luật phải đưa ra Hạ viện trước.
Nếu Nội các và Hạ viện đối nghịch, Thượng
viện có quyền phủ quyết dự luật. Ngược lại,
nếu Nội các và Hạ viện đồng ý, phủ quyết của
Thượng viện sẽ bị bác bỏ. Thượng viện không
có sáng quyền để đưa ra quyết nghị phê bình
mà lật đổ Chính phủ nhưng Chính phủ có thể
nêu vấn đề tín nhiệm tại Thượng nghị viện.
Để hoạt động kiểm soát giữa quyền lập pháp
và quyền hành pháp đạt hiệu quả cao, Hiến
pháp 1958 đã thiết lập một nguyên tắc mới mà
chúng ta nên nghiên cứu để áp dụng cho phù
hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Đó là nguyên
tắc: chức vụ dân biểu bất khả kiêm nhiệm với
chức vụ Bộ trưởng. Một dân biểu phải từ chức
nếu muốn làm Bộ trưởng (Điều 23).
Hiện nay, Điều 110 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi) quy định: “Ngoài Thủ tướng, các thành
viên khác của Chính phủ không nhất thiết là đại
biểu Quốc hội”. Như vậy, chức vụ Bộ trưởng
ở nước ta vẫn có thể kiêm nhiệm chức danh
đại biểu Quốc hội. Trên thực tế, số lượng đại
biểu Quốc hội nằm trong cơ quan của Chính
phủ khá nhiều, ở Quốc hội khóa XI là 22 đại
(2) Nguyễn Đăng Dung, Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 428.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011; tr. 85.
biểu, Quốc hội khóa XII giảm 7 đại biểu2. Ngày
3/8/2011, Quốc hội khóa XIII đã phê chuẩn
danh sách thành viên Chính phủ, trong số 22
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có
14 Bộ trưởng, 01 Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ là đại biểu Quốc hội (www.chinhphu.vn).
Như vậy, số lượng đại biểu Quốc hội nằm trong
cơ quan của Chính phủ ở nhiệm kỳ khóa XIII
vẫn giống nhiệm kỳ khóa XII. Việc quy định
Bộ trưởng có thể là đại biểu Quốc hội cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối
với Bộ trưởng chưa cao.
Thiết nghĩ, khi sửa đổi Hiến pháp 1992
chúng ta nên sửa đổi Điều 110 Hiến pháp theo
hướng: “Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác
của Chính phủ không phải là đại biểu Quốc
hội”. Quy định này nhằm góp phần đổi mới
và nâng cao hiệu quả của mối quan hệ pháp
lý giữa Quốc hội và Chính phủ Việt Nam, đáp
ứng mục tiêu mà Đại hội Đảng XI đặt ra: “Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền
lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp”3.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_giua_quoc_hoi_va_chinh_phu_trong_hien_phap_1958_cua.pdf