Quản lí môi trường cho sự phát triển bền vững

 Quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên rừng hiện còn và trồng rừng mới Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế việc chặt phá rừng. Tăng cường trồng rừng và các cây công nghiệp phù hợp, phát triển hình thức nông lâm kết hợp ở những vùng bắt buộc phải trồng cây nông nghiệp trên đất dốc. Nâng cao hiệu suất sử dụng củi đốt, phát triển khí sinh học và sử dụng năng lượng mặt trời. Thâm canh cây công nghiệp và tạo việc làm mới để phát triển nông thôn, giảm sức ép của sản xuất nông nghiệp đối với các đất rừng còn lại. Việc bảo vệ rừng phải đi đôi giữa bảo tồn, phục hồi với trồng rừng và quản lý buôn bán gỗ nhằm PTBV tài nguyên rừng. Việc áp dụng một giải pháp đơn lẻ nào đó sẽ không có khả năng giải quyết được vấn đề này, dù chỉ là làm chậm một cách có ý nghĩa việc phá rừng hiện nay. Trong quá trình áp dụng các giải pháp bảo vệ rừng, cần chú ý bảo đảm quyền lợi của những người dân bản xứ với nền văn hóa, lối sống và kiến thức bản địa của họ.  Thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và các vườn quốc gia Đây được coi là biện pháp quan trọng nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, trước hết là nguồn tài nguyên sinh vật. Tuy vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên có những yêu cầu riêng nhưng đều được xây dựng trên cơ sở bảo tồn sự đa dạng sinh học, đa dạng mục đích sử dụng với mục tiêu hàng đầu là bảo tồn thiên nhiên. Các vườn quốc gia trên thế giới đã được thành lập từ rất sớm ở nhiều nước khác nhau, ở Nam Phi có vườn quốc gia được thành lập từ 1898, ở Ấn Độ từ 1908, ở Achentina từ 1909, ở Úc từ 1915. Đến năm 1990 đã có khoảng 560 khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia được thiết lập ở vùng rừng mưa nhiệt đới, với tổng diện tích khoảng 780.000 km2 (chiếm 4% tổng diện tích rừng mưa nhiệt đới).  Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng Chứng chỉ rừng được định nghĩa là một quá trình dẫn đến việc chứng nhận bằng văn bản do một tổ chức thứ ba (ngoài người sản xuất gỗ và tiêu dùng gỗ) độc lập thực hiện, xác nhận về địa điểm và hiện trạng quản lý của khu rừng sản xuất gỗ là bền vững. Thông thường có hai nội dung cơ bản thực hiện trong quá trình cấp chứng chỉ rừng là: kiểm toán rừng và dán nhãn cho phép. Chứng chỉ rừng ra đời nhằm đảm bảo với người tiêu dùng về nguồn gốc đáng tin cậy của các sản phẩm rừng về các mặt sản xuất bền vững (tài nguyên không bị suy giảm), an toàn về môi trường và tuân thủ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chứng chỉ rừng có thể đóng vai trò như một công cụ kinh tế trong hệ thống các công cụ chính sách nhưng không thể thay thế các quy định, luật pháp và giáo dục tuyên truyền trong việc quản lý rừng bền vững.

pdf106 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 650 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lí môi trường cho sự phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t tài nguyên nước. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời các nguồn gây ô nhiễm tài nguyên nước. 8.1.2.4. Bảo vệ môi trường nước Các biện pháp bảo vệ môi trường nước bao gồm các giải pháp như sau: - Tiêu chuẩn chất lượng nước và điều kiện vệ sinh khi xả nước thải ra nguồn: Sử dụng nguồn nước và tiêu chuẩn chất lượng nước sử dụng, Điều kiện vệ sinh khi xả nước thải ra nguồn nước. - Tổ chức quản lý và kiểm soát chất lượng nguồn nước: Quan trắc môi trường nước, Kỹ thuật quan trắc. - Các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm nước: Các biện pháp hạn chế xả chất thải ra nguồn nước mặt; Tăng cường xáo trộn pha loãng nước thải với nước nguồn; Làm giàu ôxy. - Sử dụng tổng hợp và hợp lý nguồn nước. Trần Phước Cường 86 8.1.3. Quản lý chất thải rắn và chất thải độc hại 8.1.3.1. Quản lý chất thải rắn 8.1.3.1.1. Các nguồn phát sinh chất thải rắn Hình 8.1 mô tả các nguồn phát sinh chất thải rắn. Các nguồn phát sinh chất thải rắn chủ yếu bao gồm: a. Chất thải rắn sinh hoạt Theo con số thống kê của các tỉnh, thành phố, từ năm 1996 đến năm 1999, lượng chất thải rắn phát sinh bình quân khoảng từ 0,6-0,8 kg/người.ngày. Ở một số đô thị nhỏ, lượng chất thải rắn phát sinh dao động từ 0,3-0,5 kg/người.ngày. Lượng rác thải đô thị cũng như công nghiệp ngày càng tăng do quá trình đô thị hoá diễn ra với tốc độ chóng mặt, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Hơn nữa, sự gia tăng của dân số cũng là nguyên nhân chính làm lượng rác thải tăng lên với mức độ cảnh báo trong khi tỷ lệ thu gom thì rất thấp. Bảng 8.1 mô tả tình hình dân số và mức độ thu gom rác thải đô thị ở sáu tỉnh thành lớn nhất Việt Nam. Hình 8.1. Các nguồn thải chất thải rắn Bảng 8.1. Dân số và mức độ thu gom rác thải ở một số đô thị Việt Nam Tỉnh thành Dân số thành thị Dân số nông thôn Hiệu quả thu gom (%) TP. Hồ Chí Minh 3.378.500 5.728.900 70-75 Hà Nội 1.372.800 2.503.000 65 Hải Phòng 572.100 1.792.400 64 Đà Nẵng 446.000 446.000 66 Biên Hoà 365.500 365.500 30 Huế 266.800 266.800 30 (Nguồn: Watson 2004) RÁC THẢI Thải Xử lý Đất Biển Sông Hồ Ô nhiễm đất, nước ngầm Ô nhiễm biển Ô nhiễm sông, hồ Sinh hoạt Công nghiệp Nông nghiệp Khác Tái sử dụng Phân bón Khác Đốt Chôn lấp Trần Phước Cường 87 Đô thị càng phát triển thì lượng chất thải rắn sinh hoạt, thương mại, dịch vụ càng tăng. Ở Bangkok mỗi người dân mỗi ngày thải ra khoảng 1 kg chất thải rắn. Nước ta đang trong quá trình đô thị hóa mạnh, ở tất cả các đô thị đang diễn ra quá trình cải tạo nhà cửa, cải tạo đường sá, cầu cống, xây mới, xây chen, rất sôi động, trong quá trình hoạt động này thải ra khối lượng chất thải xây dựng rất lớn, đây là một vấn đề chất thải rắn đô thị cần quan tâm giải quyết. b. Chất thải rắn bệnh viện Nước ta có một mạng lưới bệnh viện từ trung ương đến địa phương. Thống kê năm 1996 cho thấy toàn ngành y tế có 12.556 cơ sở với 172.642 giường bệnh. Ngoài các bệnh viện của Bộ Y tế chúng ta còn có cả một hệ thống bệnh viện của các lực lượng vũ trang. Tổng số cơ sở điều trị và tổng số giường của hệ thống này theo ước tính cũng có thể lên tới hàng ngàn. Bộ Y tế còn có nhiều xí nghiệp dược mà trong quá trình sản xuất cũng thải ra chất thải độc hại. Trong số các bệnh viện hiện nay có tới 815 bệnh viện không có hệ thống xử lý chất thải hoặc có nhưng không hoạt động, hoặc hoạt động không thường xuyên, không có hiệu quả. Trung bình một bệnh viện nhỏ thải ra vài trăm kg rác, một bệnh viện trung bình thải ra 600-800 kg rác, bệnh viện lớn có hơn 1 tấn một ngày. Khối lượng chất thải của từng bệnh viện phụ thuộc vào các yếu tố cụ thể của bệnh viện như: chuyên khoa của bệnh viện, số giường bệnh, lưu lượng bệnh nhân, kỹ thuật điều trị, khí hậu thời tiết, phong tục tập quán, v.v Vấn đề chất thải bệnh viện cũng đang là một trong những nguồn ô nhiễm và lây truyền bệnh, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của cộng đồng dân cư. Hiện tại, hầu hết các phế thải bệnh viện được thải lẫn lộn chung với các chất thải sinh hoạt khác của thành phố mà không có sự phân loại và xử lý cục bộ, không một bệnh viện nào được trang bị các phương tiện xử lý các phế thải độc hại một cách hoàn chỉnh, điều này là nguyên nhân gây ra những mầm mống nguy hại rất đáng kể tới sức khỏe của dân cư cũng như môi trường sống. Rác thải sinh ra từ bệnh viện nhìn chung đều được thu gom thủ công sau đó xử lý bằng cách thải ra bãi rác công cộng rất dễ gây ra bệnh dịch lớn trong một phạm vi rộng lớn. Vì vậy hiện nay vấn đề xử lý rác thải sinh ra từ các bệnh viện, các trung tâm y tế đang rất được quan tâm, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, v.v.. vì đây là các thành phố lớn, đông dân, lượng rác thải sinh ra từ các bệnh viện, trung tâm y tế hàng ngày rất lớn và thành phần rác thải cũng rất đa dạng. Năm 1999, Bộ Y tế đã ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế, tuy nhiên, việc thực hiện quy chế này hiện chưa có hiệu quả cao. Trần Phước Cường 88 Cho đến năm 1999 ở nước ta mới có 1 thành phố là Hà Nội là có lò đốt chất thải rắn bệnh viện đúng kỹ thuật và hợp vệ sinh, TP. Hồ Chí Minh cũng đang triển khai xây dựng lò đốt rác bệnh viện theo công nghệ hiện đại. c. Chất thải rắn công nghiệp Trong quá trình sản xuất ở bất kỳ ngành công nghiệp nào cũng đều phát sinh chất thải rắn, trong đó bao gồm cả phế liệu và phế phẩm. Công nghệ sản xuất càng lạc hậu thì tỷ lệ lượng chất thải rắn tính trên đầu sản phẩm càng lớn. Có nhiều ngành sản xuất công nghiệp có rất nhiều chủng loại khác nhau, thành phần của chất thải công nghiệp cũng rất phức tạp, một số chủng loại có chứa chất độc hại, như thủy ngân từ các ngành công nghiệp hóa clo, cyanua, crôm, kẽm, từ công nghiệp mạ, crôm từ công nghiệp crôm, luyện kim màu, dầu mỡ từ công nghiệp dầu khí, chì từ chế tạo máy, công nghiệp sơn, sản xuất ắcquy. 8.1.3.1.2. Những vấn đề trong quản lý chất thải rắn hiện nay a. Thu gom và vận chuyển chất thải rắn không đáp ứng yêu cầu Hầu hết đô thị nước ta hiện nay còn rất yếu kém về việc thu gom và vận chuyển chất thải rắn; Ở các thành phố tỷ lệ thu gom chất thải rắn năm 1998 dao động từ 40% đến 70%; Ở các thị xã tỷ lệ này chỉ đạt từ 20% đến 40%, thậm chí có một số thị xã và thị trấn chưa có tổ chức thu gom chất thải rắn. Do tỷ lệ thu gom chất thải rắn thấp cùng với ý thức giữ gìn vệ sinh của người dân còn kém nên đã xảy ra tình trạng vất rác ra đường, vất rác vào ao hồ, cống rãnh, sông ngòi trong thành phố, làm mất vệ sinh, cảnh quan làm tắt nghẽn dòng thoát nước và gây ô nhiễm môi trường nước, môi trường đất và môi trường không khí. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này, như thiếu lực lượng lao động thu gom rác, phương tiện, công cụ, thu gom rác, vận chuyển rác vừa thiếu, vừa lạc hậu, vừa bảo dưỡng kém, hay bị hư hỏng. Quy hoạch đô thị không có diện tích tập trung rác, trung chuyển rác, nhiều ngõ ngách đường phố quá hẹp, xe thu gom rác không đi vào được. Số lượng hố xí thùng, hai ngăn tuy có giảm bớt, những vẫn còn tồn tại ở mọi đô thị. Ở Hà Nội năm 1997 mỗi ngày thu gom 2,75 tấn phân tươi (năm 1996 là 7,3 tấn), ở Hải Phòng năm 1997 thu gom 13,7 tấn/ngày (năm 1996 là 18,8 tấn/ngày). Chất thải rắn thường rơi vãi rải rác trên mặt đường, trong quá trình người bới rác thu nhặt các phế liệu. Các thùng rác đặt ở trên đường công cộng đôi khi cũng bị phá. Công nhân của URENCO (Công ty môi trường đô thị) luôn phải chịu vất vả để thu gom chất thải trên mặt đất. Các chất thải bị đổ ngay trong phố, làm chậm trễ công việc của công nhân URENCO. Hơn nữa, các chất thải này hấp dẫn côn trùng, ruồi, chuột là những loại hay truyền bệnh. Thêm vào đó, khi chuyển chất thải vào các xe tải thường sinh bụi và tỏa mùi khó chịu ra xung quanh. Trần Phước Cường 89 b. Chưa phân loại chất thải rắn Chất thải rắn đô thị và công nghiệp nước ta chưa được phân loại, trước hết là chưa phân loại chất thải rắn độc hại và chất thải rắn thông thường. Mọi thứ chất thải rắn đều đổ thải lẫn lộn, gây ra hậu quả lâu dài và nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe con người, đặc biệt là sức khỏe của người thu gom rác. c. Xử lý, đổ thải chất thải rắn không đúng kỹ thuật, không hợp vệ sinh Hiện nay ở nước ta trong quy hoạch phát triển đô thị và khu công nghiệp chưa quan tâm thích đáng đến việc đổ thải và xử lý chất thải rắn. Công nghệ xử lý chất thải rắn rất đơn giản và lạc hậu, chủ yếu là bằng cách chôn lấp. Vị trí bãi chôn rác không được lựa chọn cẩn thận trong quy hoạch, nhiều nơi chỉ đơn thuần sử dụng điều kiện địa hình đất trũng hay ao hồ có sẵn để làm nơi chôn rác. Các bãi chôn rác đều không được xây dựng đúng kỹ thuật, không có lớp chống thấm ở đáy và xung quanh, nước rác không được thu gom và xử lý, quy trình đổ rác không đúng kỹ thuật, do đó đã dẫn đến tình trạng rò rỉ, thẩm thấu nước rác rất bẩn ra môi trường xung quanh, gây ô nhiễm nước mặt và về lâu dài có thể thẩm thấu xuống dưới làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Quá trình sử dụng và vận hành chôn lấp chất thải rắn đô thị tại các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã tạo nên những “đồi rác”. Thông qua các tác động của tự nhiên như nắng, mưa, gió, quá trình phân hủy các chất thải đã gây nên sự ô nhiễm môi trường. Mùi xú uế đã gây sự khó chịu cho dân cư sinh sống quanh bãi, đồng thời hấp dẫn sự tập trung của chuột, các loài ruồi, nhặng và các loài côn trùng truyền bệnh. Bãi rác bốc mùi hôi thối, các khí mêtan, H2S bốc lên gây ô nhiễm môi trường không khí xung quanh, nói chung là rất mất vệ sinh, do đó đã xảy ra tình trạng nhân dân xung quanh ngăn chặn không cho đổ rác vào bãi. 8.1.3.1.3. Quản lý chất thải rắn đô thị và công nghiệp Quản lý chất thải rắn bao gồm các khâu chủ yếu sau: thu gom, vận chuyển, phân loại và xử lý thải bỏ. Dưới đây nêu ra một sô biện pháp quản lý chính. a. Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch quản lý chất thải rắn Cần phải nghiên cứu đánh giá chính xác hiện trạng chất thải rắn ở đô thị và công nghiệp hiện nay của địa phương, cũng như dự báo chúng trong tương lai 10 - 15 năm tới, đặc biệt làm rõ những vấn đề sau: - Các nguồn thải chất thải rắn, trước mắt và lâu dài. - Lượng thải là bao nhiêu, trước mắt và lâu dài. - Thành phần và tính chất của chất thải rắn, trước mắt và lâu dài. Từ kết quả nghiên cứu trên tiến hành xây dựng chiến lược và lập kế hoạch quản lý môi trường ngắn hạn và dài hạn cho phù hợp. Trần Phước Cường 90 Nội dung chiến lược và kế hoạch quản lý chất thải cần tập trung vào các vấn đề: - Dành đủ đất trong quy hoạch phát triển đô thị và công nghiệp phục vụ cho thu gom, vận chuyển (trung chuyển) và xử lý, thải bỏ chất thải rắn. - Xây dựng lực lượng thu gom, phân loại, vận chuyển và dịch vụ quản lý chất thải đủ mạnh, lập phương án thu gom và vận chuyển hợp lý. - Đầu tư trang thiết bị đầy đủ phương tiện thu gom và vận chuyển chất thải rắn. - Quy hoạch địa điểm xử lý chất thải rắn lâu dài, ít nhất là 10 năm. - Lựa chọn công nghệ xử lý đổ thải chất thải rắn phù hợp. - Lập kế hoạch phân loại chất thải và kế hoạch phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải rắn. - Kế hoạch kinh tế- tài chính phục vụ quản lý chất thải, áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý chất thải rắn. - Nâng cao nhận thức và giáo dục cộng đồng tham gia giữ gìn vệ sinh và giải quyết vấn đề chất thải rắn đô thị và công nghiệp. b. Tổ chức thu gom và phân loại chất thải rắn tại nguồn Ở nhiều nước người ta đã tiến hành thu gom và phân loại chất thải rắn tại nguồn. Chất thải rắn từ các hộ hay từ các cơ sở sản xuất đã được phân loại ngay từ nơi sản sinh ra nó. Các chất thải độc hại, chất thải thông thường, chất thải có thể tái sử dụng được phân tách riêng và đựng vào các túi hay các thùng có màu sắc khác nhau. Chất thải độc hại được tách thu gom, vận chuyển riêng và đưa đến nơi xử lý chất thải độc hại. Trên các đường phố và ở các địa điểm sinh hoạt công cộng đều để sẵn các thùng rác để khách đi trên đường phố không vất rác ra đường. Đối với các “xóm liều” trong đô thị, đường sá thường rất hẹp, xe thu rác thường không vào được, cần phải giáo dục ý thức và cung cấp phương tiện cho dân “xóm liều” thu gom rác tại chỗ ở của họ đưa đến địa điểm đổ công cộng và từ địa điểm này có thể thu gom và vận chuyển rác bằng xe đến nơi xử lý rác. c. Lựa chọn công nghệ xử lý đổ thải chất thải rắn hợp lý Trên thực tế có 3 công nghệ xử lý chất thải thường dùng là: chôn lấp, làm phân compost và thiêu đốt. - Chôn lấp chất thải rắn: Chôn lấp chất thải rắn là công nghệ đơn giản nhất, đỡ tốn kém nhất và được áp dụng rỗng rãi trên thế giới, nhưng đòi hỏi có diện tích rất lớn. Việc lựa chọn bãi chôn rác là hết sức quan trọng. Để từng bước qui chuẩn hóa việc xây dựng bãi chôn lấp rác, Bộ Xây dựng và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001 Trần Phước Cường 91 về “Hướng dẫn thực hiện các quy định bảo vệ môi trường đối với việc lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp chất thải rắn”. Thông tư này quy định việc lựa chọn địa điểm bãi chôn lấp phải tuân thủ các yêu cầu dưới đây: + Các địa điểm được lựa chọn phải phù hợp với các yêu cầu qui hoạch đô thị do chính phủ phê duyệt. + Qui định khoảng cách từ địa điểm chọn xây dựng bãi chôn lấp đến các vùng phụ cận như: các trung tâm đô thị, sân bay, khu công nghiệp, cảng và các khu vực dùng nước ngầm. + Qui mô bãi chôn lấp tương ứng với qui mô dân số đô thị. + Qui trình lựa chọn địa điểm xây dựng bãi chôn lấp phải tính đến các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, kỹ thuật và cơ sở hạ tầng của khu vực đó (ví dụ: dân số, đặc điểm và sự phát sinh rác thải, định hướng phát triển đôt thị, tăng trưởng kinh tế, các điều kiện địa chất thủy văn). + Thời gian vận hành của bãi chôn lấp ít nhất là 5 năm và nên vận hành trong 25 năm hoặc lâu hơn càng tốt. Năm 2001 cùng với việc ban hành Thông tư trên, Bộ Xây dựng đã ban hành bản phụ lục Tiêu chuẩn thiết kế các bãi chôn lấp chất thải rắn” cho Bộ TCXDVN 261: 2001. Bộ tiêu chuẩn thiết kế mới đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc thiết kế và xây dựng bãi chôn lấp với các chi tiết kỹ thuật cho phần lớn các hạng mục chính của một dự án xây dựng bãi chôn lấp như: các hệ thống thu gom, xử lý khí và nước rỉ rác, các khu vực xây dựng bãi chôn lấp, hệ thống cống rãnh, hệ thống quan trắc, đường ngầm, khu vực phân loại và chứa chất thải, và các công trình phụ trợ khác. Tiêu chuẩn mới này và thông tư được đề cập ở trên là những bước ngoặt trong lịch sử quản lý chất thải rắn ở Việt Nam. Các cán bộ công tác tại các cơ quan chức năng tham gia vào các dự án bãi chôn lấp hiện nay đã có công cụ luật pháp và các cơ sở cùng các chỉ dẫn cụ thể để thực hiện các dự án xây dựng bãi chôn lấp và quan trọng hơn cả là để đưa ra các quyết định hợp lý về địa điểm của những bãi chôn lấp. - Chế biến chất thải rắn hữu cơ thành phân compost: Thành phần chất thải rắn hữu cơ dễ phân hủy, như rau, quả phế phẩm, thực phẩm thừa, cỏ, lá cây, v.v có thể chế biến dễ dàng thành phân compost để phục vụ nông nghiệp. Ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng thí điểm xí nghiệp chế biến phân compost từ chất thải rắn sinh hoạt của đô thị. Nhưng công suất của các xí nghiệp này còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động vì giá thành của loại phân này đắt hơn các loại phân khác nên không tiêu thụ được, xí nghiệp không cân bằng được thu chi. Nhà nước chưa có chính sách kinh tế xã hội hỗ trợ cho các xí nghiệp Trần Phước Cường 92 này để phát triển sản xuất phân compost, vừa giảm được diện tích bãi chôn rác, vừa có thêm lượng phân, không phải là phân hóa học phục vụ nông nghiệp. - Thiêu hủy chất thải rắn: Xây dựng các lò đốt rác với nhiệt độ cao có thể đốt được chất thải rắn thông thường, cũng như chất thải rắn nguy hại, trong nhiều trường hợp người ta kết hợp lò đốt rác với sản xuất năng lượng như phát điện, cấp nước nóng. Thiêu hủy rác có ưu điểm nổi bật là giảm thể tích chất thải phải chôn (xỉ, tro của lò đốt), do đó giảm được diện tích đất dùng cho bãi thải. Tuy vậy, đầu tư cho nhà máy đốt rác tương đối lớn, giá thành vận hành nhà máy cũng cao, ngoài ra khói thải của nhà máy có tính nguy hại, cần phải tiến hành xử lý khói thải với công nghệ cao mới bảo vệ được môi trường. Ngoài ra, ở một số nước còn dùng phương pháp bê tông hóa chất thải rắn nguy hại, đổ chất thải nguy hại vào các thùng, bể bọc kín bằng vật liệu kiên cố và chôn sâu dưới đất hoặc vứt xuống đáy biển. d. Phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải rắn Phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải rắn là phương cách tốt nhất để giảm nhỏ nhu cầu đất chôn rác và tiết kiệm vật liệu, tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay ở nước ta việc chọn lựa, thu lượm các chất thải có thể tái sử dụng được chủ yếu là do “đội quân” nhặt rác cá thể, chưa có tổ chức thu gom và sản xuất có quy mô công nghiệp. Rất nhiều chất thải rắn đô thị và công nghiệp có thể tái sử dụng, tái chế như kim loại vụn, vỏ hộp, giấy, carton, chai lọ, các bao bì bằng nilông, đồ gỗ hư hỏng v.v Cần phải coi việc phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải là có ý nghĩa chiến lược trong quản lý chất thải rắn đô thị và công nghiệp. e. Áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý chất thải rắn - Phí người dùng: Phí người dùng được áp dụng phổ biến ở các đô thị là phí thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị. Phí này được thu từ các hộ gia đình và coi là khoản tiền phải trả cho các dịch vụ thu gom và xử lý chất thải, nó được tính toán trên cơ sở tổng chi phí trực tiếp cho các dịch vụ, không tính đến thiệt hại môi trường. Phí này thay đổi tùy theo gia đình, phụ thuộc vào số túi rác của gia đình thải ra. Cách tính thay đổi này đã khuyến khích các gia đình tái sử dụng chất thải, khó khăn là việc giám sát sự đổ thải chất thải rắn vụng trộm của các hộ thiếu ý thức bảo vệ môi trường. - Phí đổ bỏ chất thải rắn: Ở một số nước áp dụng phí đổ bỏ chất thải rắn, chủ yếu là đối với chất thải rắn công nghiệp. Phí này phụ thuộc tính chất và lượng chất thải. Đối với các chất thải khó xử lý như lốp xe, cặn dầu thì phải nộp lệ phí cao hơn. Phí này cũng có tác dụng khuyến khích các xí nghiệp cải tiến công nghệ sản xuất để giảm chất thải. Trần Phước Cường 93 - Các phí sản phẩm và hệ thống kỹ quỹ hoàn trả: Phí sản phẩm đánh vào các sản phẩm có bao bì không trả lại như bao bì dầu nhờn, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các lốp xe, các nhiên liệu ô tô. Hệ thống ký quỹ hoàn trả được áp dụng phổ biến nhất là đối với đồ uống như chai hộp rượu, bia, nước giải khát, để khuyến khích tái sử dụng lại các vỏ hộp, vỏ chai. Người sử dụng phải ký quỹ tiền các vỏ hộp, chai khi mua, khi dùng xong đem các vỏ hộp, chai trả sẽ nhận lại số tiền trên. Ở Mỹ qui định mua mỗi acquy ô tô phải ký quỹ 5 USD, nếu đem acquy cũ đến cửa hàng để mua acquy mới thì không phải nộp tiền ký quỹ. - Các khoản trợ cấp: Nhà nước cung cấp các khoản trợ cấp cho các cơ quan và khu vực tư nhân tham gia vào việc quản lý chất thải rắn, như trợ cấp nghiên cứu và lập kế hoạch quản lý chất thải rắn, trợ cấp cho việc phát triển và lắp đặt công nghệ sản xuất thải ra ít chất thải hơn, trợ cấp, hỗ trợ giá, hoặc ưu đãi miễn thuế, đối với công nghiệp tái chế, tái sử dụng chất thải, v.v 8.1.3.2. Quản lý chất thải rắn nguy hại Để quản lý tốt chất thải nguy hại, cần thực hiện một cách nghiêm ngặt nguyên tắc quản lý “từ nôi đến mồ” đối với chất thải nguy hại. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có một bộ các tiêu chuẩn, quy định, yêu cầu toàn diện, áp dụng cho việc quản lý chất thải nguy hại từ điểm chất thải nguy hại phát sinh cho đến địa điểm hủy bỏ cuối cùng. Các loại tiêu chuẩn, quy định khác nhau được ban hành (kỹ thuật, vận hành, làm sạch, xử lý và các yêu cầu khác) để áp dụng đối với những người chủ phát sinh chất thải, vận chuyển chất thải nguy hại, cũng như các phương tiện cất chứa, xử lý và hủy bỏ chúng. 8.1.3.2.1. Quản lý nguồn phát sinh Cần phải nắm vững và quản lý các thông tin về nguồn phát sinh chất thải nguy hại: Trong địa phương có các nguồn phát thải nào? Lượng phát thải là bao nhiêu? Thành phần và tính chất độc hại của các chất thải đó. Ở nhiều nước đã tiến hành thủ tục đăng ký và cấp giấy phép đối với các nguồn thải chất thải nguy hại, nhất là đối với các ngành công nghiệp. Nhiều khi cơ quan quản lý môi trường tiến hành khảo sát, đo lường, phân tích các nguồn thải chất nguy hiểm cụ thể để đảm bảo các thông tin về nguồn thải chất nguy hại là chính xác, đồng thời cũng tiến hành kiểm tra sự tuân thủ luật lệ về quản lý chất thải nguy hại của các chủ nguồn thải, yêu cầu tất cả các chủ nguồn thải phân loại và tách các chất thải nguy hại với các chất thải thông thường, đôi khi người ta còn phân loại thành phần chất thải nguy hại và chất thải rất nguy hại. Trần Phước Cường 94 Để quản lý tốt các loại chất thải sinh hoạt nguy hại, cần tuyên truyền giáo dục xây dựng tập quán cho nhân dân tự giác tách riêng chất thải nguy hại và bỏ vào túi ni lông màu đỏ. Cần phải truyền bá các thông tin về chất thải nguy hại, nâng cao hiểu biết về các tác động nguy hại đối với sức khỏe cộng đồng, làm sao cho mọi chủ nhân của các nguồn chất thải nguy hại ý thức hết trách nhiệm của mình và biết cách quản lý chất thải nguy hại ngay từ nguồn phát sinh, áp dụng các biện pháp giảm thiểu chất thải nguy hại và không đổ chất thải nguy hại lẫn lộn với chất thải thông thường. 8.1.3.2.2. Thu gom và vận chuyển chất thải nguy hại Việc thu gom và vận chuyển chất thải nguy hại đưa đến nơi xử lý cần phải đảm bảo hết sức an toàn, không để ảnh hưởng đến sức khỏe của công nhân viên thu gom chất thải và nhân dân xung quanh, không để rò rỉ và rơi vãi trên đường vận chuyển. Muốn đạt được yêu cầu trên, ở mỗi địa phương cần có tổ chức quản lý thu gom và đổ thải chất thải nguy hại riêng, chuyên trách công việc này, cần được trang bị công cụ và phương tiện thu gom và vận chuyển đúng kỹ thuật an toàn, không vận chuyển chất thải nguy hại chung với chất thải thông thường. 8.1.3.2.3. Xử lý và hủy bỏ chất thải nguy hại Xử lý và hủy bỏ chất thải nguy hại thường tổn phí hơn hủy bỏ chất thải rắn thông thường rất nhiều lần. Vì vậy trước khi xử lý và hủy bỏ cần phải tiến hành phân loại và chọn lọc để tách bớt các chất thải nguy hại có thể tái sử dụng hoặc tái sinh làm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất công nghiệp, để giảm bớt lượng chất thải nguy hại cần xử lý và hủy bỏ triệt để. Xử lý và hủy bỏ chất thải nguy hại cần có phương pháp đặc biệt, không giống như đối với chất thải thông thường. Trong thực tế người ta sử dụng các phương pháp sau: phương pháp hóa học, dùng các chất hóa học để trung hòa, biến các chất thải nguy hại thành chất không độc hại, áp dụng đối với các chất thải nguy hại từ các nhà máy hóa chất; phương pháp bê tông hóa, cố định các chất thải độc hại trong các khối bê tông, thường áp dụng đối với các chất thải kim loại nặng; phương pháp đốt trong các lò đốt nhiều tầng với nhiệt độ cao hơn 1.300oC, thường áp dụng đối với các chất thải bệnh viện và các chất thải nguy hại khác có thể cháy được; chôn cất, lưu giữ trong các thùng chứa kiên cố, không để chất thải nguy hại rò rỉ thẩm thấu ra ngoài. Ở nước ta hiện nay đã có một số các quy định về quản lý chất thải nguy hại như sau: − Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/07/1999 về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy hại. Trần Phước Cường 95 − Quyết định của Bộ Y tế số 2575/1999/QĐ-BYT ngày 27/08/1999 về việc ban hành Quy chế Quản lý chất thải y tế. − Quyết định của Bộ Tài nguyên và Môi trường số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 về việc ban hành danh mục chất thải nguy hại áp dụng để nhận biết, phân loại các chất thải nguy hại, làm căn cứ cho việc quản lý chất thải nguy hại. 8.2. Quản lý môi trường của một số nền kinh tế 8.2.1. Khai thác khoáng sản Khoáng sản được con người sử dụng hàng ngày trong các ngành kinh tế khác nhau. Tùy thuộc vào vị trí, cấu trúc, dạng tồn tại của mỏ khoáng sản khai thác, tác động môi trường của quá trình khai thác rất đa dạng và có cường độ khác nhau: Hoạt động khai thác khoáng sản nhìn chung rất đa dạng như: xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực khai thác (đường giao thông, nhà cửa và mặt bằng), nổ mìn và bốc xúc đất đá thải, bơm nước thải và nước ngầm, Các quá trình trên gây ra các tác động tới hàng loạt các yếu tố môi trường như: suy thoái chất lượng không khí, chất lượng nước mặt, lưu lượng và chất lượng nước ngầm, thay đổi cảnh quan và địa hình khu vực, mất đất rừng và suy giảm đa dạng sinh học, tạo ra tiếng ồn và ảnh hưởng tới sức khỏe của dân cư địa phương và người lao động. Do sự đa dạng về phương pháp khai thác và vị trí cụ thể của các mỏ khoáng sản nên tác động tới môi trường của việc khai thác các mỏ khoáng sản cụ thể rất khác nhau. Tác động tới môi trường không khí của hoạt động khai thác khoáng sản chủ yếu là tạo ra bụi và các khí độc hại. Bụi bao gồm các mảnh vụn đất đá, bụi silic, bụi than, bụi amiăng, bụi phóng xạ. Hai loại bụi sau rất độc hại tới sức khỏe con người. Bụi thường phát sinh trong quá trình nổ mìn, đào xúc đất đá, bốc xúc và vận chuyển khoáng sản. Các khí độc hại gồm các dạng cacbuahydro (metan, propan, butan,), SiO2, CO2, CO, NOx, khí trơ và nhiều loại khác. Các loại khí này phát sinh từ khối khoáng sản đang khai thác và vật liệu nổ mìn. Tác động tới môi trường nước mặt, phát sinh từ dòng thải bùn cát trên các khai trường, nước ngầm trong các moong, lò, giếng, nước khoan, nước chảy tràn qua khai trường, Thành phần độc hại trong các dòng nước thải gồm: chất rắn lơ lửng trong nước, các loại muối hòa tan như SO4 2-, NO3 -, các kim loại nặng, dầu mỡ và hóa chất sử dụng trong quá trình khai thác,... Tác động tới nước ngầm, thể hiện ở nhiều khía cạnh: suy thoái, cạn kiệt và hạ thấp mực nước ngầm do đào moong và khai thác, ô nhiễm các tầng chứa nước ngọt và thấu kính nước ngọt. Trần Phước Cường 96 Mất đất và mất rừng thường xảy ra với quy mô lớn, đối với các mỏ khai thác bằng phương pháp lộ thiên là do việc làm đường, tạo các moong khai thác, đổ đất đá thải, khai thác gỗ chống lò gây nên, Bên cạnh việc mất diện tích đất để xây dựng các công trình hạ tầng, đất khu vực khai thác khoáng sản thường bị bóc đi lớp đất mầu, dễ bị xói mòn, không thuận lợi cho việc tái phủ xanh rừng. Song song với việc mất rừng, nhiều loại động vật quý hiếm trong khu vực khai thác của các mỏ khoáng sản sẽ di cư hoặc bị tiêu diệt. Những dạng địa hình nhân sinh như các moong, các núi đá thải, các taluy đường được hình thành đã làm thay đổi cơ bản địa hình nguyên thủy (ví dụ các moong và các núi thải ở các mỏ Cọc Sáu, Đèo Nai-Quảng Ninh). Các mỏ khai thác bằng phương pháp hầm lò sâu thường không ảnh hưởng trực tiếp tới đất và rừng, nhưng có thể tạo ra các tai biến môi trường đối với các công trình hạ tầng hiện đang tồn tại trên mặt đất. Cảnh quan và địa hình khu vực bị biến động mạnh mẽ do các hoạt động khai thác khoáng sản, nhất là đối với các mỏ được khai thác bằng phương pháp lộ thiên như than, đá vôi, sét kaolin, vật liệu xây dựng khác. Các bãi khai thác cát trên sông có thể gây ra các biến động dòng chảy chính của sông và tác động tới chân đê, cũng như công trình thủy nông và cầu cống. Khu vực khai thác khoáng sản thường có tiếng ồn cao hơn mức cho phép do nổ mìn, hoạt động của các máy thiết bị khai thác. Tiếng ồn tác động tiêu cực tới sức khỏe của dân cư địa phương và các động vật hoang dã trong khu vực. Một số công trình khai thác dầu khí và sa khoáng trên biển còn gây ra các tác động mạnh mẽ nhiều mặt tới các hệ sinh thái nước. Theo Seboid (1989) con người thực sự trở thành nhân tố địa chất. Lượng đất, đá do con người đào bới đạt 20 tấn/đầu người. Lượng đất đá khổng lồ ấy có thể so sánh với lượng đất đá do quá trình bồi tụ và xói lở sản sinh ra. Hoạt động khai thác làm cho bề mặt trái đất bị biến đổi sâu sắc, phá đi những cân bằng vốn có của nó. Trong các ngành công nghiệp, thì khai thác mỏ tác động tới môi trường tự nhiên nhiều hơn cả, đặc biệt ở phương pháp khai thác lộ thiên. 8.2.2. Phát triển năng lượng Quản lý môi trường trong lĩnh vực năng lượng đòi hỏi sự đầu tư nhiều công sức trong các mặt sau đây: - Xây dựng một chiến lược quốc gia về phát triển bền vững các nguồn năng lượng của đất nước. Trong đó, ngoài các dạng năng lượng hiện nay cần mở rộng khả năng sử dụng các nguồn năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng hóa thạch trong tiêu dùng. Trần Phước Cường 97 - Tăng cường sử dụng các công cụ pháp luật của nhà nước như tiêu chuẩn, đánh giá tác động môi trường, thanh tra, kiểm tra để quản lý môi trường các dự án phát triển nguồn năng lượng, khai thác nguồn năng lượng. - Tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế môi trường như thuế, phí môi trường,... trong việc khai thác và sử dụng năng lượng ở Việt Nam. Tăng giá bán năng lượng thương mại (than, điện, xăng, dầu,...) để tạo ra các nguồn kinh phí cần thiết cho công tác bảo vệ môi trường. Chiến lược năng lượng trên thế giới và ở Việt Nam a. Chiến lược năng lượng thế giới Theo báo cáo của Liên hiệp quốc, hàng năm cả thế giới tiêu thụ nguồn nhiên liệu tương đương 8 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó có 90% có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch như: dầu, than đá, khí đốt tự nhiên. Khối lượng lớn nhiên liệu này bị đốt cháy sẽ thải vào môi trường 37.051.670 tấn CO2. Ở Việt Nam, năm 2000 cả nước tiêu thụ nhiên liệu tương đương 1,5 triệu tấn dầu và thải vào môi trường 113.696 tấn CO2. Khí thải đang là mối nguy cơ thực sự cho con người và môi trường. Vì vậy, để hạn chế khí thải, các nhà hoạch định chính sách môi trường trên thế giới và ở Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp khắc phục và các chiến lược năng lượng. Chiến lược và chính sách năng lượng thế giới đã được phát thảo trong tài liệu “Cứu lấy Trái đất”. Mục tiêu chính của chiến lược là nâng cao tính hiệu quả trong trong lĩnh vực năng lượng nhằm đạt được sự PTBV của loài người. Chiến lược đề ra một số hành động ưu tiên: - Soạn thảo những chiến lược quốc gia về năng lượng thật rõ ràng và chính xác cho thời gian khoảng 30 năm tới. - Hạn chế sử dụng các loại nhiên liệu hóa thạch, sự lãng phí trong việc phân phối năng lượng và ô nhiễm môi trường trong việc sản xuất năng lượng thương mại. - Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo được và những nguồn năng lượng không sử dụng nhiên liệu hóa thạch khác. - Sử dụng năng lượng có hiệu quả cao hơn nữa ở gia đình, các khu công nghiệp, các công trình công cộng và giao thông. - Phát động các chiến dịch tuyên truyền quảng cáo để đẩy mạnh hoạt động tiết kiệm năng lượng và bán các sản phẩm tiêu thụ ít năng lượng. Trong bối cảnh môi trường thế giới đang bị biến động mạnh bởi sự gia tăng hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu toàn cầu, thì việc giảm bớt sự phát thải khí nhà kính đang là vấn đề cần được ưu tiên của các tổ chức quốc tế và các quốc gia thành viên. Trần Phước Cường 98 b. Chiến lược năng lượng ở Việt Nam Hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức về chiến lược và chính sách năng lượng. Tuy nhiên, dựa vào các văn bản về môi trường và cách tiếp cận hệ thống có thể phát thảo khung chiến lược năng lượng Việt Nam gồm các điểm chủ yếu sau: Chiến lược về nguồn năng lượng Việt Nam là quốc gia có dự trữ tương đối cao về năng lượng gồm trữ lượng lớn than đá (3,5 tỷ tấn), than nâu, dầu khí, thủy điện và nguồn nhiệt bức xạ mặt trời phong phú. Vì vậy, việc đầu tiên là xây dựng được một cơ cấu nguồn năng lượng, đặc biệt là nguồn năng lượng thương mại hợp lý bằng cách kết hợp hài hòa giữa năng lượng hóa thạch, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo khác. Nguồn năng lượng nguyên tử chỉ nên sử dụng khi các nguồn năng lượng khác không đủ với nhu cầu sử dụng trong nước. Chiến lược tiết kiệm tiêu dùng năng lượng thương mại Việc tiết kiệm tiêu dùng năng lượng thương mại cần được thực hiện kể từ quá trình khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nâng cao hiệu suất sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong các cơ sở sản xuất điện thương mại, tiết kiệm tiêu dùng điện thương mại trong các ngành công nghiệp, giao thông, hộ gia đình và công sở. Biện pháp có hiệu quả để thực hiện là lựa chọn các thiết bị có hiệu suất năng lượng cao, giảm tổn thất truyền tải năng lượng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, sử dụng có hiệu quả các công cụ kinh tế (thuế, phí năng lượng) để giảm mức tiêu thụ năng lượng đặc biệt là điện tiêu dùng... Chiến lược ưu tiên phát triển và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo quy mô nhỏ Do các đặc điểm tự nhiên, lãnh thổ Việt Nam có nhiều nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo quy mô vừa và nhỏ như: bức xạ mặt trời vùng nhiệt đới, các nguồn thủy điện, các nguồn địa nhiệt, một lượng sinh khối lớn dưới dạng các chất thải nông lâm nghiệp và rác thải sinh hoạt, một số khu vực có thủy triều cao và gió thường xuyên tốc độ lớn, Vì vậy, việc khai thác các nguồn năng lượng sạch và tái tạo trên không chỉ có lợi cho hoạt động BVMT, mà còn có hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí chuyển tải năng lượng thương mại tới vùng sâu, vùng xa. Chiến lược này đòi hỏi có các chính sách đầu tư về khoa học, kinh tế và xã hội thích hợp. Hiện nay, Bộ Công nghiệp đang hoàn chỉnh Dự án Luật tiết kiệm năng lượng trình Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam xem xét và thông qua trong thời gian sớm nhất nhằm ban hành Luật tiết kiệm năng lượng như một công cụ quản lý thích hợp và hiệu quả nhất trong chương phát triển năng lượng ở Việt Nam. 8.2.3. Phát triển nông nghiệp 8.2.3.1. Đất đai và sản xuất nông nghiệp bền vững Trần Phước Cường 99 Liên quan tới nông nghiệp bền vững FAO, 1989 đã định nghĩa: “PTBV là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên thiên nhiên, định hướng những thay đổi công nghệ và thể chế theo một phương thức sao cho đạt đến sự thỏa mãn một cách liên tục những nhu cầu của con người của những thế hệ hôm nay và mai sau. Sự PTBV như vậy trong lĩnh vực nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản) chính là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn gen động và thực vật không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội”. Do đó, các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững theo FAO là: (1) Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai về số lượng và chất lượng và nhiều các sản phẩm nông nghiệp khác. (2) Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm việc tươm tất cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp. (3) Duy trì, và chỗ nào có thể, tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn, hoặc không gây những nhiễm độc môi trường. (4) Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tự tin trong nông dân. Hình 8.2. Phát triển nông nghiệp bền vững Nền nông nghiệp hiện đại ở các nước phát triển và nền nông nghiệp truyền thống ở các nước đang phát triển đều không đáp ứng được các yêu cầu đối với nông nghiệp hiện 1. Mục tiêu 2. Điều kiện tiên quyết Bề vững Kinh tế Xã hội Sinh thái Ngắn hạn Dài hạn Nguyện vọng chính trị Sự nhất trí Phát triển và bảo tồn tài nguyên quốc gia Cân bằng giữa các thế hệ Trần Phước Cường 100 nay là nâng cao năng suất bằng cách giữ lại những điểm mạnh của nông nghiệp truyền thống và đáp ứng các nhu cầu của thời đại mới. Nông nghiệp bền vững, do đó phải mang tính kế thừa, chắt lọc những tinh túy của các nền nông nghiệp chứ không phải chạy theo những cái “mốt”, cái hiện đại và bác bỏ những cái thuộc về truyền thống. Ví dụ, nông nghiệp bền vững không loại trừ việc sử dụng phân bón hóa học, hoá chất BVTV, mà sử dụng chúng hợp lý hơn, đồng thời dùng các công nghệ truyền thống để tăng lượng phân bón hữu cơ và cơ cấu cây trồng để khống chế sâu hại. Nhiều người tưởng rằng, có thể khắc phục hậu quả tiêu cực của hoá chất BVTV bằng các loại nông dược an toàn hơn đối với môi trường. Thực tế đúng như vậy, nhưng nhìn về lâu dài, cả nông dược hóa học lẫn sinh học chỉ có giá trị tương đối. Đó là do thiên nhiên đã phú cho cơ thể sống nói chung một khả năng tự điều chỉnh để chống lại mọi tác động nhằm tiêu diệt nòi giống của nó. Chính vì vậy, sâu hại có khả năng đề kháng với nông dược hóa học lẫn sinh học, nếu chúng ta cứ lặp đi lặp lại một loại thuốc. Theo thông báo gần đây nhất thì đã có hơn 500 loài côn trùng và ve bét chống chịu được thuốc trừ sâu hóa học và 8 loài kháng được thuốc trừ sâu sinh học. Ngay cả khái niệm “có hại” cũng nên hiểu cho đúng. Phải chăng cái gì có hại đối với con người cũng có hại đối với loài khác và cần phải tiêu diệt? Thiên nhiên là một tồn tại sống động mà trong đó mọi thành phần đều có quan hệ qua lại lẫn nhau và có những quan hệ mà đến nay chúng ta vẫn chưa biết rõ. Cho nên cách giải quyết đúng đắn nhất là giữ cho vạn vật được hài hòa. Nếu xảy ra hiện tượng mất cân bằng như dịch hại phát sinh thì phải tìm cách khống chế để nó trở thành vô hại, không ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế, xã hội và môi trường, chứ không phải là tàn sát để cho nó mất cân bằng thêm. Đó chính là phương pháp tối ưu của hệ thống IPM (Quản lý dịch hại tổng hợp). Điều đó cũng có nghĩa là nông dược hóa học hay sinh học nên dùng vào lúc nào, xen kẽ hay phối hợp, với mức độ nào là vừa phải, nếu không còn biện pháp nào khác. Đối với phân bón cũng vậy. Xu hướng chung hiện nay là biết áp dụng khôn ngoan và có hiệu quả các loại phân khoáng, phân hữu cơ và chế phẩm vi sinh vật, phân bón vi sinh một cách tổng hợp song song với việc quản lý mùa vụ, phân khoáng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây dưới dạng tập trung, nhưng thường đắt đối với tiểu nông. Các chế phẩm vi sinh vật tương đối rẻ nhưng kết quả áp dụng còn bị hạn chế ở một số ít loài và môi trường tương ứng, phân hữu cơ thường có sẵn và là loại phân bón tổng hợp nhưng cần bón nhiều mới đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cây. Cho nên, việc sử dụng phối hợp các Trần Phước Cường 101 nguồn dinh dưỡng khác nhau không chỉ góp phần khắc phục những bất lợi ở phạm vi nào đó, mà còn làm tăng năng suất. 8.2.3.2. Các biện pháp quản lý tài nguyên đất - Cần có quy hoạch sử dụng đất hợp lý. Ngoài quy hoạch tổng thể rất cần quy hoạch chi tiết có giá trị thực tiễn cao đến cấp xã, cần gắn liền quy hoạch sử dụng đất với các ngành công nghiệp và dịch vụ như du lịch, chế biến nông sản, phát triển ngành nghề thủ công mà thị trường đòi hỏi. - Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước. Xác định rõ, công khai và tăng quyền sử dụng đất. Đây là khâu đột phá, là vấn đề trung tâm then chốt và cũng là biện pháp về kinh tế, quản lý để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả đất đai. Giao đất, giao rừng cần kết hợp chặt chẽ với quy hoạch sử dụng đất trong vùng, nhất là quy hoạch vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến sau thu hoạch. - Tăng cường quản lý đất đai về số lượng và chất lượng, mà nòng cốt là quản lý tổng hợp với sự liên kết của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực theo phương châm “tiết kiệm đất”, đặc biệt đất cho xây dựng các công trình công cộng và nhà ở. Dành đất tốt cho sản xuất nông nghiệp lâu dài. - Cần có các chương trình, dự án nghiên cứu và triển khai về quản lý, sử dụng đất lâu dài, gắn kết chặt chẽ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở phạm vi vĩ mô (toàn quốc) và vi mô (từng vùng đặc thù). Cần thiết có những chương trình nghiên cứu tổng hợp dài hạn về bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu đất, kết hợp giữa chuyển giao công nghệ tiên tiến với các tri thức bản địa, đảm bảo sử dụng đất bền vững, thích hợp cho từng vùng với điều kiện khai thác khí hậu và kỹ thuật canh tác khác nhau. - Cần phát triển mạnh thị trường về quyền sử dụng đất. Đồng thời tăng cường quản lý thị trường bất động sản. Nghiêm chỉnh thi hành Luật Đất đai, kết hợp với các biện pháp chính sách, nhằm khuyến khích việc quản lý, sử dụng đất đúng mục đích. Kiên quyết thu hồi lại đất từ các trường hợp sử dụng đất sai mục đích. 8.2.4. Khai thác tài nguyên rừng 8.2.4.1. Khái niệm tài nguyên rừng Rừng là quan trọng nhất của sinh quyển và có ý nghĩa lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội, sinh thái và môi trường. Trên thực tế rừng đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng những hiểu biết về rừng chỉ mới thực sự có được từ thế kỷ XIX. Theo quan điểm sinh thái học rừng được xem là hệ sinh thái điển hình trong sinh quyển (Temslay, 1935; Vili, 1957; Trần Phước Cường 102 Odum, 1966). Rừng là sự thống nhất trong mối quan hệ biện chứng giữa sinh vật - trong đó thực vật với các loài cây gỗ giữ vai trò chủ đạo, đất và môi trường. Việc hình thành các kiểu rừng có liên quan chặt chẽ giữa sự hình thành các thảm thực vật tự nhiên với vùng địa lý và điều kiện khí hậu. Trong mỗi kiểu rừng được hình thành thì khí hậu, đất đai và độ ẩm sẽ xác định thành phần cấu trúc và tiềm năng phát triển của thảm thực vật rừng. Sự phân bố của thảm thực vật rừng là sự đồng nhất tương đối về địa lý, sinh thái và được hiểu như là một đơn vị địa lý thực vật độc lập, chúng kết hợp với nhau theo vĩ độ và theo độ cao thành những đai rừng lớn trên trái đất. Sự phân bố các đai rừng về cơ bản không chịu ảnh hưởng tác động của con người. 8.2.4.2. Tài nguyên rừng của Việt Nam Năm 1943, diện tích rừng Việt Nam ước tính có khoảng 14 triệu ha, với tỷ lệ che phủ là 43%. Năm 1976 giảm xuống còn 11 triệu ha với tỷ lệ che phủ còn 34%. Năm 1985 còn 9,3 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 30%. Năm 1995 còn 8 triệu ha và tỷ lệ che phủ là 28%. Trong thời kỳ 1945-1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân 100.000 ha/năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975-1990: Mất 2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/năm. Tuy nhiên, từ những năm 1990-1995, do công tác trồng rừng được đẩy mạnh, đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên. Hiện nay diện tích đất rừng ở Việt Nam được quy hoạch là 19 triệu ha, trong đó có 9,3 triệu ha là có rừng che phủ, còn lại là cây bụi, rừng thưa và bãi cỏ, đất trống chưa sử dụng. Về chất lượng, trước 1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200-300m3/ha, trong đó các loài gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo, giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993 ước tính vào khoảng 76m3/ha. Trong rừng Việt Nam cũng phong phú về các loài dược liệu, trong đó có rất nhiều loài đã được biết đến và khai thác phục vụ cho việc chế biến thuốc. Có 10% số loài thú, chim, cá của thế giới được tìm thấy ở Việt Nam và hơn 40% loài thực vật đặc hữu không tìm thấy nơi nào khác ngoài Việt Nam. Những nguyên nhân chính làm suy thoái rừng ở Việt Nam: - Đốt nương làm rẫy, sống du canh du cư; trong tổng diện tích rừng bị mất hàng năm thì khoảng 40 - 50% là do đốt nương làm rẫy. - Chuyển đất có rừng sang đất sản xuất các cây kinh doanh, đặc biệt là phá rừng để trồng các cây công nghiệp như cà phê ở Tây Nguyên chiếm 40 - 50% diện tích rừng bị mất trong khu vực. Trần Phước Cường 103 - Khai thác quá mức vượt khả năng phục hồi tự nhiên của rừng. Ví dụ, riêng nhà máy giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú) trong vòng 10 năm hoạt động, đã khai thác 85.590 ha rừng bồ đề, mỡ và tre nứa. - Do khai thác không có kế hoạch, kỹ thuật khai thác lạc hậu làm lãng phí tài nguyên rừng. - Do cháy rừng, nhất là các rừng tràm, rừng thông, rừng khộp rụng lá. - Do ảnh hưởng của bom đạn và các chất hóa học trong chiến tranh, riêng ở miền Nam đã bị phá hủy khoảng 2 triệu ha rừng tự nhiên. Hậu quả của việc phá rừng, giảm diện tích rừng nhanh chóng đã gây nên nhiều tác hại rất nghiêm trọng đối với môi trường, đất đai, đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Một số vùng đầu nguồn do không có rừng đã không điều tiết nước, úng lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên ở trung du và đồng bằng. Vì vậy vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường rừng, khôi phục các hệ sinh thái rừng, bảo tồn tính đa dạng sinh học là những việc làm hết sức cấp bách. 8.2.4.3. Các biện pháp quản lý và phát triển tài nguyên rừng Ngày nay bảo vệ và PTBV tài nguyên rừng đang được đặt ra như một yêu cầu cấp bách cho nhiều quốc gia và trên toàn cầu. Trên nguyên lý chung của sự PTBV, tính bền vững của rừng được đánh giá dựa trên sự ổn định về diện tích, về khả năng cung cấp gỗ và chất lượng gỗ, về chức năng bảo tồn đa dạng sinh học, về mặt sinh thái, về tính bền vững của kinh tế xã hội và đảm bảo việc làm cho con người. Rừng được coi là nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo. Nếu khai thác hợp lý sẽ bảo đảm cho việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên quý giá này. Khai thác hợp lý tài nguyên rừng được hiểu là quá trình khai thác luôn nằm trong giới hạn cho phép của khả năng tái sinh của rừng. Bảo đảm cho sự khai thác ổn định lâu dài đồng thời vẫn duy trì được các tính năng của rừng về cung cấp tài nguyên, phòng hộ môi trường, bảo đảm sinh thái cảnh quan cũng như tính đa dạng sinh học vốn có của rừng. Chính vì vậy mà những biện pháp quản lý tài nguyên rừng phải phù hợp các điều kiện sinh thái, kinh tế, xã hội và nó sẽ thay đổi khi các điều kiện này thay đổi. Những nhiệm vụ cơ bản trong quản lý tài nguyên rừng là nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên vốn có của rừng, trước hết là nguồn tài nguyên sinh học và bảo vệ môi trường. Trong một số trường hợp sẽ bao gồm các mục đích cho sản xuất lâm nghiệp xã hội, cung cấp củi, gỗ, lương thực thực phẩm. Dù trong điều kiện nào thì điều quan trọng là phải xác định được sự phù hợp giữa lợi ích trước mắt của nhân dân địa phương và lợi ích quốc gia lâu dài. Phát triển tài nguyên rừng không chỉ phụ thuộc đơn thuần vào quản lý rừng mà còn là vấn đề kinh tế xã hội của mỗi vùng, mối quốc gia. Do vậy, mỗi quốc gia cần có những Trần Phước Cường 104 chính sách riêng phù hợp với điều kiện thực tế của họ. Một số biện pháp chung có thể tập trung vào những khía cạnh sau:  Quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên rừng hiện còn và trồng rừng mới Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế việc chặt phá rừng. Tăng cường trồng rừng và các cây công nghiệp phù hợp, phát triển hình thức nông lâm kết hợp ở những vùng bắt buộc phải trồng cây nông nghiệp trên đất dốc. Nâng cao hiệu suất sử dụng củi đốt, phát triển khí sinh học và sử dụng năng lượng mặt trời. Thâm canh cây công nghiệp và tạo việc làm mới để phát triển nông thôn, giảm sức ép của sản xuất nông nghiệp đối với các đất rừng còn lại. Việc bảo vệ rừng phải đi đôi giữa bảo tồn, phục hồi với trồng rừng và quản lý buôn bán gỗ nhằm PTBV tài nguyên rừng. Việc áp dụng một giải pháp đơn lẻ nào đó sẽ không có khả năng giải quyết được vấn đề này, dù chỉ là làm chậm một cách có ý nghĩa việc phá rừng hiện nay. Trong quá trình áp dụng các giải pháp bảo vệ rừng, cần chú ý bảo đảm quyền lợi của những người dân bản xứ với nền văn hóa, lối sống và kiến thức bản địa của họ.  Thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và các vườn quốc gia Đây được coi là biện pháp quan trọng nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, trước hết là nguồn tài nguyên sinh vật. Tuy vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên có những yêu cầu riêng nhưng đều được xây dựng trên cơ sở bảo tồn sự đa dạng sinh học, đa dạng mục đích sử dụng với mục tiêu hàng đầu là bảo tồn thiên nhiên. Các vườn quốc gia trên thế giới đã được thành lập từ rất sớm ở nhiều nước khác nhau, ở Nam Phi có vườn quốc gia được thành lập từ 1898, ở Ấn Độ từ 1908, ở Achentina từ 1909, ở Úc từ 1915. Đến năm 1990 đã có khoảng 560 khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia được thiết lập ở vùng rừng mưa nhiệt đới, với tổng diện tích khoảng 780.000 km2 (chiếm 4% tổng diện tích rừng mưa nhiệt đới).  Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng Chứng chỉ rừng được định nghĩa là một quá trình dẫn đến việc chứng nhận bằng văn bản do một tổ chức thứ ba (ngoài người sản xuất gỗ và tiêu dùng gỗ) độc lập thực hiện, xác nhận về địa điểm và hiện trạng quản lý của khu rừng sản xuất gỗ là bền vững. Thông thường có hai nội dung cơ bản thực hiện trong quá trình cấp chứng chỉ rừng là: kiểm toán rừng và dán nhãn cho phép. Chứng chỉ rừng ra đời nhằm đảm bảo với người tiêu dùng về nguồn gốc đáng tin cậy của các sản phẩm rừng về các mặt sản xuất bền vững (tài nguyên không bị suy giảm), an toàn về môi trường và tuân thủ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chứng chỉ rừng có thể đóng vai trò như một công cụ kinh tế trong hệ thống các công cụ chính sách nhưng Trần Phước Cường 105 không thể thay thế các quy định, luật pháp và giáo dục tuyên truyền trong việc quản lý rừng bền vững. Trần Phước Cường 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Tài nguyên và Môi trường 2008, Tuyển tập các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, Hà Nội. [2]. Bộ Tài nguyên và Môi trường 2009, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội. [3]. Lê Văn Khoa và nnk 2001, Khoa học môi trường, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội. [4]. Lưu Đức Hải 2006, Định hướng chiến lược phát triển đô thị và đô thị hoá bền vững ở Việt Nam, Viện Quy hoạch đô thị nông thôn, Bộ Xây dựng, Hà Nội. [5]. Nguyễn Đình Hoè 2002, Môi trường và phát triển bền vững, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội. [6]. Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Kim Loan 2005, Con người và môi trường, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. [7]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam 2005, Luật Bảo vệ Môi trường 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [8]. Watson, A. D. 2004, An examination of Vietnam's urban waste management capacity', Masters thesis, The University of Toronto, < pub.html>. [9]. White, R. 2004, Controversies in Environmental Sociology, Cambridge University Press, Cambridge.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1_quan_ly_moi_truong_cho_ptbv_6249_2089857.pdf
Tài liệu liên quan