PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Nằm tận cùng của dải đất miền Trung nhiều nắng gió, tiếp giáp với Vũng Tàu - Đồng Nai – Thành phố Hồ Chí Minh đầy năng động, bên cạnh Lâm Đồng sương mù thơ mộng; biển trời Bình Thuận thật hiền hòa, êm ả và quyến rũ lòng du khách. Với 192 km bờ biển, hàng trăm ngàn ha rừng tự nhiên, những đồi cát, những hòn đảo thơ giữa biển, những con thác, con suối ., thiên nhiên đã ưu đãi cho Bình Thuận một tiềm năng du lịch thật tuyệt vời. Nếu như đất Bình Thuận ngày xưa chỉ được biết đến với sự khô hanh, toàn nắng và cát, thì ngày nay miền đất ấy đã thay đổi hoàn toàn. Nếu những du khách đã từng đặt chân tới Bình Thuận nhận xét về nơi đây, họ sẽ bảo rằng: “Mảnh đất và con người Bình Thuận thật hiền hòa như chính tên gọi của nó”. Sức sống mãnh liệt của đất và người Bình Thuận đang trỗi dậy, để biến nơi đây thực sự là “Điểm đến của thiên niên kỷ mới”.
Có thể thấy rõ ràng rằng du lịch chính là lợi thế phát triển của Bình Thuận. Khi mà tiềm lực kinh tế của tỉnh còn nhiều yếu kém, thì việc phát triển du lịch dựa vào tiềm năng tự nhiên trời phú là một hướng đi đầy triển vọng cho nền kinh tế của tỉnh. Nhận thức được tiềm năng ấy, chính quyền tỉnh Bình Thuận đã quyết định đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, và hơn thế nữa, sự phát triển của ngành dịch vụ này sẽ kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, công nghiệp - xây dựng .
Mục tiêu là vậy, nhưng để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực phấn đấu. Không chỉ là sự nỗ lực của chính quyền và nhân dân địa phương, mà còn nhờ đến sự chung tay góp sức của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vốn là một tỉnh nghèo, nội lực chưa đủ mạnh, Bình Thuận vẫn rất cần đến các nhà đầu tư bên ngoài để tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển.
Từ khi có chính sách mở cửa của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Việt Nam đã phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện giao lưu quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư. Từ đó đến nay, hoạt động đối ngoại của ta không ngừng phát triển mạnh mẽ, và theo đó là sự xuất hiện với vị thế ngày càng được khẳng định của lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế. Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta “một thành phần mới xuất hiện và hình thành ngày càng rõ nét trong những năm gần đây: thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Việc nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp tối ưu để phát triển nền kinh tế này một cách có hiệu quả đang là mối quan tâm của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, cốt để làm sao khai thác được tiềm năng và lợi thế so sánh cho từng vùng. Cũng giống nhiều tỉnh thành khác, Bình Thuận hiện nay cũng phải ra sức thu hút đầu tư nước ngoài, mà quan trọng hơn cả là đầu tư cho du lịch, nhằm phát triển một ngành công nghiệp xanh theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà tỉnh đã đề ra.
Hiện nay, trên cả nước có hơn 100 Resort thì Bình Thuận đã có tới 79 Resort, trở thành nơi có nhiều Resort nhất Việt Nam. Tuy nhiên tất cả các cơ sở lưu trú của tỉnh chưa phải là tốt nhất, chưa có nhiều Hotel và Resort cỡ lớn, đạt tiêu chuẩn cao cấp; mà điều đó hầu như chỉ có thể được đáp ứng bởi các nhà đầu tư nước ngoài với quy mô vốn lớn và trình độ quản lý du lịch cao. Bên cạnh đó, mặc dù đã xuất hiện từ những năm đầu của thập kỷ 90, nhưng cho đến nay, số lượng dự án đầu tư nước ngoài về du lịch ở Bình Thuận vẫn còn khá ít ỏi. Tại sao lại như vậy? Và giải pháp nào cho vấn đề này? Đó là những câu hỏi đang đặt ra cho các nhà lãnh đạo tỉnh Bình Thuận. Và cũng từ những yêu cầu cấp bách đó, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VỀ LĨNH VỰC DU LỊCH TẠI TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2006 - 2010” để nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cử nhân Hành chính hệ chính quy.
Nội dung luận văn sẽ tìm hiểu xem tại sao nhà đầu tư lại lựa chọn Bình Thuận để đầu tư du lịch; doanh nghiệp FDI sẽ cần gì ở địa phương khi quyết định đầu tư một dự án, và Bình Thuận hiện đã đáp ứng được tới đâu các nhu cầu đó của nhà đầu tư. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển du lịch - một ngành công nghiệp xanh cho tỉnh Bình Thuận.
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
ã Mục đích của luận văn là nhằm nêu lên toàn diện thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch tại tỉnh Bình Thuận từ năm 1988 đến nay, đánh giá những đóng góp của nó trong nền kinh tế xã hội của tỉnh, cũng như những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. Luận văn cũng hệ thống lại các văn bản pháp lý của Trung ương và địa phương về vấn đề này, nêu lên các nhân tố tác động, những cơ hội, thách thức trong thời gian tới; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp thiết thực đồng bộ trong quản lý Nhà nước, góp phần đề xuất, gợi ý cho địa phương đẩy mạnh được thu hút đầu tư nước ngoài trong việc phát triển ngành du lịch của tỉnh nhà.
ã Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nêu các khái niệm, đặc đểm của đầu tư nước ngoài và của ngành du lịch.
- Nghiên cứu các nhân tố tác động đến quy mô dòng vốn đổ vào địa phương, thực trạng và xu hướng của dòng vốn FDI trong bối cảnh hiện nay
- Nghiên cứu thực trạng đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
- Phân tích hệ thống chính sách của Trung ương và địa phương trong lĩnh vực này.
- Phân tích những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề ra những giải pháp Quản lý nhà nước nhằm tạo ra môi trường đầu tư tốt hơn, thu hút đầu tư nước ngoài cho phát triển du lịch của địa phương, đồng thời tạo được sự chặt chẽ trong quản lý dự án, tiến tới một đô thị du lịch bền vững.
ã Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Đầu tư nước ngoài gồm có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên, tại Bình Thuận nói riêng và nhiều tỉnh thành khác nói chung, hiện nay vốn đầu tư gián tiếp (mà chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA), và vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ) hầu như chỉ đầu tư vào phát triển các lĩnh vực mang tính chất xã hội, cộng đồng, như: trường học, bệnh viện, đường giao thông nông thôn, điện nước sinh hoạt nông thôn ., chứ không đầu tư vào phát triển kinh tế du lịch. Do đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung vào nghiên cứu dưới góc độ quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (gọi tắt là FDI) trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của Đảng ta về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, lịch sử, so sánh, tổng hợp, để từ đó đề ra giải pháp thực tiễn.
Luận văn dài 95 trang, chia làm 3 chương
88 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư nước ngoài về lĩnh vực du lịch tại tỉnh bình thuận giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í Minh lại không được các doanh nghiệp đánh giá cao. Nhiều tỉnh đã phối hợp với nhóm nghiên cứu tổ chức hội thảo đánh giá tình hình thực trạng môi trường đầu tư và đề ra chương trình hành động cụ thể.
Tại Bình Thuận, lãnh đạo tỉnh đã tổ chức “Hội thảo nâng cao năng lực cạnh tranh và môi trường đầu tư tỉnh Bình Thuận”. Hội thảo có sự góp mặt của lãnh đạo tỉnh, các Sờ, Ban, ngành, đại diện VCCI, đại diện của tất cả các doanh nghiệp lớn và cả những chuyên gia kinh tế. Tại Hội thảo, các đại biểu được nghe trình bày của VCCI về chỉ số PCI của Bình Thuận, lắng nghe đánh giá thẳng thắn của đại diện các doanh nghiệp, ý kiến của chuyên gia kinh tế. Trên cơ sở đó, lãnh đạo tỉnh kiểm điểm làm rõ những mặt hạn chế, thiếu sót trong công tác lãnh đạo; chỉ đạo, điều hành, sửa đổi các quy định không phù hợp làm xấu đi môi trường sản xuất, kinh doanh. Đồng thời UBND tỉnh Bình Thuận cũng có những chương trình hành động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư.
Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh:
Phát huy những điều kiện truyền thống:
Những thuận lợi về cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên chắc chắn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều tỉnh thành vẫn chưa tận dụng được những điều kiện này để làm ưu thế cho mình. Ví dụ như tỉnh Hà Tây ở đồng bằng sông Hồng và tỉnh Vĩnh Long ở đồng bằng sông Cửu Long đều có khoảng 700 doanh nghiệp đang chính thức hoạt động mặc dù so với Vĩnh Long, Hà Tây thuận lợi hơn nhiều vì chỉ cách trung tâm Hà Nội 30 phút đi xe, có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn và còn có lực lượng lao động có trình độ học vấn cao hơn.
Như đã trình bày ở trên, tỉnh Bình Thuận có một vị trí địa lý khá tốt và một tiềm năng du lịch hấp dẫn, rất thuận lợi để phát triển ngành “công nghiệp không khói” này. Song, nếu không có những chính sách cụ thể để phát huy những điều kiện truyển thống này thì sẽ không thể đạt được một hiệu quả tối ưu, mà thực tế qua đánh giá của VCCI đã cho thấy trong thời gian qua tỉnh Bình Thuận vẫn chưa thực hiện tốt.
Các điều kiện truyền thống chủ yếu để thu hút đầu tư du lịch của Bình Thuận chỉ bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên du lịch; còn nguồn nhân lực thì chưa thực sự đủ mạnh và cơ sở hạ tầng cũng chưa đáp ứng. Tuy nhiên, với một vị trí địa lý mang tầm chiến lược và một tài nguyên du lịch phong phú như Bình Thuận thì đó chính là những điều kiện tiên quyết cho một ngành du lịch phát triển và cũng là điểm hấp dẫn đầu tiên cho một nhà đầu tư, nhất là đối với những nhà đầu tư nước ngoài vốn là những người rất mạnh dạn và có óc khai thác.
Để phát huy những điều kiện này một cách hiệu quả hơn, các cơ quan ban ngành tỉnh Bình Thuận cần phải có những chương trình hành động cụ thể nhằm khai thác tài nguyên du lịch một cách tối ưu và bền vững:
Thứ nhất: Đồng bộ cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch:
Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện quan trọng bậc nhất để thu hút nhà đầu tư. Bởi lẽ dự án đầu tư muốn đi vào hoạt động được cần phải có một cơ sở hạ tầng tối thiểu, và để dự án hoạt động có hiệu quả cao cũng cần phải có một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.
Tỉnh Bình Thuận là địa bàn có vị trí thuận lợi cho các tuyến đường giao thông: cả đường bộ, đường sắt lẫn đường biển. Do đó tỉnh cần phải phát huy lợi thế này bằng việc xây dựng một cơ sở hạ tầng đồng bộ. Vốn là một tỉnh nghèo, trong những năm qua, nhờ có sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc mà bộ mặt của cả tỉnh đã thay đổi rõ rệt, ngân sách tỉnh đã dồi dào hơn, đồng thời tỉnh cũng đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng cho đời sống xã hội cũng như làm cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút đầu tư du lịch. Tuy nhiên, lịch sử thu hút đầu tư và phát triển du lịch của tỉnh còn khá ngắn ngủi, ngân sách vẫn còn thiếu hụt nhiều, và cho đến nay cơ sở hạ tầng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển.
Trong thời gian tới, tỉnh cần có kế hoạch xây dựng và nâng cấp các tuyến nối liền các điểm, các khu du lịch, các tuyến đường xương cá trong các khu du lịch. Do tỉnh có tuyến quốc lộ 1A và tuyến đường biển, cả hai tuyến đều dài gần 200km, nên có thể nghiên cứu xây dựng các trạm dịch vụ phục vụ khách du lịch bên đường gồm các dịch vụ như: bãi đổ xe, bảo dưỡng kết hợp với ăn nhanh, giải khát, vệ sinh cho khách, bán các sản phẩm lưu niệm địa phương. Cũng cần lưu ý phát triển những tuyến xe buýt nội thành và tuyến xe buýt nối các điểm du lịch phục vụ nhu cầu tham quan của du khách.
Về đường sắt, nhân dịp 30 tháng 4 năm 2006 vừa qua, tỉnh đã khánh thành tuyến đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh – Phan Thiết. Trong thời gian tới, cần phải có kế hoạch xây dựng nhà ga Phan Thiết theo tiêu chuẩn nhà ga đưa đón khách du lịch. Hiện nay tại một số nước trên thế giới, như các quốc gia Pháp, Thụy Sĩ... đã rất thành công trong việc áp dụng hình thức giao thông đường sắt để phát triển du lịch. So với ôtô, đi du lịch bằng tàu hỏa có nhiều ưu điểm hơn, an toàn hơn, thú vị hơn, và dễ dàng ngắm cảnh thiên nhiên trong lành. Đồng thời, Sở Du lịch tỉnh cũng cần có kế hoạch phối hợp với các trung tâm du lịch lữ hành các tỉnh, thành phố để tổ chức các tour du lịch đến tỉnh bằng tàu hỏa, và tổ chức đưa đón khách tại các ga trên địa bàn tỉnh có các khu, tuyến, điểm du lịch.
Là một tỉnh có tiềm năng về du lịch cù lao, đảo; cần phải nghiên cứu xây dựng các phương tiện vận chuyển hành khách bằng đường biển, kết hợp song song với việc nâng cấp các dịch vụ phục vụ khách du lịch. Việc phát triển loại hình đường biển, cảng du lịch cần đa dạng và phù hợp cho mọi đối tượng khách du lịch từ bình dân đến thượng lưu. Chẳng hạn, để đến với Hòn Bà, Hòn Tranh, cù lao Câu..., du khách có thể đi bằng ghe máy, cũng có thể đi bằng du thuyền với chất lượng phục vụ cao...
Cơ sở hạ tầng nên tập trung trước tiên cho những trọng điểm du lịch và dân cư, điển hình là thành phố Phan Thiết. Bên cạnh việc đầu tư hệ thống giao thông, hạ tầng kỹ thuật khu qui hoạch cần đầu tư đồng bộ về hệ thống thông tin liên lạc, đường giao thông, điện, nước sinh hoạt,… để đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu tư dự án. Công tác này đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ban ngành như UBND huyện, tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, Công ty khai thác công trình thủy lợi, Trung tâm nuớc sinh hoạt nông thôn...
Về nguốn vốn phát triển cơ sở hạ tầng, hiện nay ngân sách tỉnh còn rất eo hẹp. Do đó, bên cạnh nguồn vốn ngân sách, cần huy động nguồn vốn ngoài ngân sách. Một trong những cách thức để có được cơ sở hạ tầng chất lượng và giá thành hạ là áp dụng hình thức đấu thầu và giao khoán. Sử dụng hợp lý, cân nhắc giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Thứ hai: Tăng cường công tác quảng bá xúc tiến du lịch:
Có kế hoạch xây dựng thương hiệu riêng cho du lịch Bình Thuận. Những logo, khẩu hiệu, hình ảnh... rất có tác dụng gây nên ấn tượng cho khách du lịch lẫn nhà đầu tư. Hiện nay thương hiệu du lịch của Việt Nam nói chung và từng tỉnh nói riêng nhìn chung còn khá yếu. Cần tham khảo kinh nghiệm của những nước có ngành du lịch phát triển để xây dựng được một thương hiệu có thể phản ánh được đặc trưng riêng của du lịch tỉnh Bình Thuận.
Nghiên cứu, xây dựng công tác quảng bá, xúc tiến du lịch phải gắn với chiến lược quảng bá, xúc tiến du lịch của cả nước.
Xây dựng chương trình phải thống nhất, tránh dàn trải, manh mún giữa các vùng, địa bàn nhằm quảng bá đầy đủ tiềm năng du lịch và nhân văn của tỉnh. Xây dựng các chương trình quảng cáo, trang web, đĩa CD, các chương trình truyền hình địa phương và trung ương. Chương trình phải cụ thể theo từng thời kỳ.
Có kế hoạch cụ thể cho từng năm về tổ chức các sự kiện nổi bật của tỉnh, các lễ hội đa dạng để thu hút khách du lịch, phấn đấu hàng năm để xây dựng được một “điểm nhấn” nổi bật để thu hút khách du lịch. Đầu tư, hỗ trợ cho Trung tâm xúc tiến Thương mại và Du lịch tổ chức công tác cung cấp thông tin du lịch miễn phí tại các địa bàn trọng điểm du lịch của tỉnh cho cả khách du lịch và nhất là nhà đầu tư.
Đặc biệt, liên quan trực tiếp đến thu hút FDI du lịch là phải xây dựng được chương trình phối hợp với các văn phòng đại diện du lịch Việt Nam ở nước ngoài, nhất là những quốc gia có nhiều nhà đầu tư lớn quan tâm đến thị trường Việt Nam, và những nước có mối quan hệ giao lưu du lịch với nước ta. Tham gia hoặc mở những đợt xúc tiến du lịch thông qua hội thảo quốc tế, hội chợ, triển lãm, tuyên truyền trên các phương tiên thông tin đại chúng.
Thứ ba: Tôn tạo các di tích văn hóa lịch sử, khôi phục và phát triển các lễ hội truyền thống, phát triển các làng thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ du lịch, xây dựng làng văn hóa dân tộc (như K’Ho, Rắc Lay, Chăm,...)
Thứ tư: Thu hút đầu tư phát triển du lịch phải kết hợp với giữ gìn bảo vệ môi trường:
Cũng giống như các ngành công nghiệp, ngành du lịch cũng dễ dàng dẫn tới sự xuống cấp của môi trường và cảnh tự nhiên nếu như chúng ta chỉ biết khai thác mà không có kế hoạch gìn giữ chúng. Do đó bên cạnh việc tạo sự dễ dàng cho nhà đầu tư, cũng cần thẩm định dự án một cách chặt chẽ đồng thời quản lý hoạt động của doanh nghiệp sau cấp phép. Đầu tư tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, xây dựng quy chế bảo vệ tài nguyên du lịch. Khuyến khích các chủ dự án bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển du lịch và các khu bảo tồn động vật biển.
Nâng cao chỉ số PCI Bình Thuận:
Theo nghiên cứu của VNCI cho thấy, nếu một tỉnh có số điểm PCI ở mức trung bình, tức khoảng 52-53 điểm, thì chỉ cần phấn đấu tăng mỗi chỉ số thành phần lên 1 điểm, tức chỉ số tổng hợp PCI tăng lên 9 điểm, thì đó đã là một bước tiến dài cho kinh tế địa phương. Ví dụ, PCI của tỉnh Long An hiện nay là 52,88. Nếu tăng mỗi chỉ số thành phần lên 1, thì PCI sẽ tăng 9 điểm, tương đương với tỉnh Vĩnh Long (61,83), trở thành nhóm tỉnh dẫn đầu. 9 điểm gia tăng của Long An còn làm tăng thêm: 200 doanh nghiệp trên 1000 dân, 28% vốn đầu tư trung bình tính trên đầu người, 31,8 triệu VNĐ lợi nhuận trên mỗi doanh nghiệp, tăng thêm 822 triệu VNĐ vốn đầu tư đăng ký trên 1000 dân tại sở Kế Hoạch và Đầu tư, trong đó vốn thực hiện là 458 triệu VNĐ; cuối cùng, giá trị kinh tế gia tăng tính theo phương pháp ngang giá sức mua theo bình quân đầu người tăng thêm 94 bát phở một người mỗi năm.
Phân tích trên cho thấy sự cải thiện chỉ số PCI có tác động trực tiếp khá lớn lên sự thịnh vượng của một địa phương từ việc tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Những phương pháp truyền thống mà trước đây người ta vẫn thường coi trọng như nâng cao cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ học vấn, chất lượng nguồn nhân lực luôn có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế tỉnh nhưng tác động của nó phần lớn chỉ được nhận thấy ở những tỉnh có năng lực cạnh tranh trên mức trung bình. Có thể thấy rằng đó là những phương pháp rất cần thiết nhưng trong điều kiện một nền kinh tế còn nhiều khó khăn, ngân sách eo hẹp thì những phương pháp này tỏ ra kém khả thi và lại cần phải có thời gian khá dài mới thực hiện được; nói cách khác, tại các tỉnh có mức cạnh tranh thấp, những nỗ lực cải thiện về các điều kiện truyền thống có tác động không đáng kể đối với sự thịnh vượng. Do đó, với một tỉnh hiện đang xếp ở nhóm các tỉnh có chỉ số PCI tương đối thấp như Bình Thuận thì việc cải thiện từng chỉ số PCI thành phần sẽ là một biện pháp khả thi và hiệu quả để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cho tỉnh.
Mặt khác, chính các điều kiện truyền thống như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực... đã là kết quả của sự phát triển. Một số tỉnh có thể xuất phát điểm với điều kiện cơ sở hạ tầng nghèo nàn nhưng với sự tăng trưởng nhanh chóng đã cho phép chính quyền tỉnh đầu tư nhiều hơn cho phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Từ đó có thể thấy được ảnh hưởng quan trọng của sự điều hành của lãnh đạo tỉnh.
Sau đây xin được trình bày một số kiến nghị cải thiện những chỉ số thành phần có liên quan trực tiếp đến môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp FDI:
Thứ nhất: Cải thiện chi phí gia nhập thị trường:
Mục đích của việc xây dựng chỉ số thành phần Chi phí gia nhập thị truờng là đánh giá sự khác nhau giữa các tỉnh về chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới ở tỉnh. Ý tưởng xây dựng chỉ số thành phần này bắt nguồn từ cuộc điều tra về chi phí khởi sự kinh doanh ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi do Ngân hàng thế giới tiến hành. Tuy trình tự, thủ tục là thống nhất trên cả nước, nhưng trên thực tế ở các tỉnh thì vẫn chưa đạt được sự thống nhất này.
Việc đánh giá chỉ số này được căn cứ vào thời gian để một nhà đầu tư hoàn tất các thủ tục như đăng ký kinh doanh, đăng ký con dấu, đăng ký mã số thuế. v.v... và thời gian nhà đầu tư chờ đợi để có mặt bằng kinh doanh.
Với chỉ số này, Bình Thuận xếp thứ 26/44, tức là ở mức trung bình. Chi phí gia nhập thị trường có ảnh hưởng lớn đến tâm lý, ấn tượng ban đầu của nhà đầu tư khi triển khai dự án. Do đó chính quyền tỉnh cần phải có những giải pháp:
Nỗ lực trong công tác cấp phép đầu tư kinh doanh. Muốn vậy, nhất thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở ban ngành. Mỗi sở ban ngành đều phải có ý thức trách nhiệm cao và đều phải nỗ lực trong công tác của mình. Thực tế tại Bình Thuận hiện nay, có những cán bộ, có những phòng ban làm việc rất nhiệt tình, rất hết mình nhưng cũng có những nơi chưa thực sự làm tốt vai trò, nhiệm vụ. “Con sâu là rầu nồi canh”. Do đó lãnh đạo tỉnh cần có những biện pháp quán triệt tư tưởng cán bộ, chặt chẽ hơn trong công tác kiểm tra, giám sát.
Đặc biệt chú ý đến công tác giao đất, cho thuê đất. Cần phải có những biện pháp hiệu quả hơn trong công tác di dời giải tỏa, sử dụng hợp lý các biện pháp như tuyên truyền, xử phạt hành chính và cưỡng chế. Phải có những buổi họp dân kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để đẩy mạnh tuyên truyền công khai quy hoạch cho người dân được biết. Quy hoạch càng được công khai rộng rãi thì việc di dời giải tỏa càng tránh được sự phản ứng của người dân.
Đồng thời, tăng cường việc quản lý đất đai, không để dân xâm chiếm, ảnh hưởng đến khâu đền bù giải tỏa, kéo dài thời gian triển khai đầu tư.
Để công tác đền bù được nhanh chóng, cần chú ý công tác đo đạc chính xác lần đầu tiên để có cơ sở đền bù và phục vụ cho việc thu hồi đất, giao đất,… không phải đo đi đo lại, kéo dài thời gian khâu đền bù giải tỏa.
Phối hợp nắm bắt kịp thời và tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án để giải quyết, tạo điều kiện cho chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai đầu tư dự án.
Cần thành lập đơn vị dịch vụ tư vấn đầu tư giúp cho các nhà đầu tư ở xa thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư theo ủy quyền của chủ đầu tư.
Thứ hai: Phát huy tính minh bạch và tiếp cận thông tin:
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, tính minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phân biệt môi trường kinh doanh nào tạo thuận lợi cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Hai chuyên gia của Ngân hàng thế giới là Tara Vishwanatch và Daniel Kaufman đã đưa ra định nghĩa về tính minh bạch là sự gia tăng luồng thông tin kinh tế, xã hội và chính trị một cách kịp thời và tin cậy về các dịch vụ công của chính quyền, về chính sách tài chính tiền tệ... Ngược lại, thiếu tính minh bạch là tình trạng mà ở đó một cá nhân cố ý giữ riêng thông tin hoặc đưa ra các thông tin sai lệch hoặc không đảm bảo được đã cung cấp thông tin hoàn toàn phù hợp và có chất lượng.
Về điểm này, Bình Thuận thực hiện khá tốt và được các doanh nghiệp đánh giá rất cao. Chỉ số này của Bình Thuận xếp hạng 3/43 tỉnh thành được khảo sát. Bất kỳ một nhà đầu tư nào đến với Bình Thuận, họ sẽ được cung cấp một cách công khai những hướng dẫn chi tiết, rõ ràng kèm theo những biểu mẫu về các giai đoạn từ xúc tiến đầu tư cho đến khi dự án hoàn toàn đã đi vào hoạt động. Tất cả đều được đóng thành cuốn và phát miễn phí cho nhà đầu tư.
Tuy đã được đánh giá cao, chính quyền tỉnh vẫn phải cố gắng hơn nữa để phát huy điểm mạnh này, vì đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì họ vốn rất e dè nếu họ không được cung cấp đủ thông tin. Tập trung vào các nội dung sau:
Bảo đảm thông tin luôn ở tình trạng sẵn có: nghĩa là thông tin phải luôn đầy đủ và kịp thời. Theo quy định của pháp luật, thông tin về đất đai và các kế hoạch của chính quyền tỉnh phải được phổ biến tới mọi người dân, tuy nhiên trên thực tế việc tiếp cận các thông tin này thường gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, tỉnh Bình Thuận cần thoải mái trong việc chia sẻ thông tin với nhà đầu tư. Tất cả các luật lệ, các văn bản hướng dẫn thi hành và các quyết định của tỉnh đều phải được chủ động tuyên truyền qua các thông tin đại chúng và niêm yết tại cơ quan. Tránh trường hợp đợi đến khi nhà đầu tư yêu cầu cán bộ mới chia sẻ. Việc chia sẻ thông tin có rất nhiều cái lợi: Thứ nhất, doanh nghiệp sẽ cảm thấy yên tâm, tự tin và tiến hành nhanh chóng các thủ tục để hoạt động kinh doanh. Thứ hai, doanh nghiệp có cơ hội khai thác và tận dụng các sáng kiến chính sách của chính quyền tỉnh. Thứ ba, doanh nghiệp có thể tránh được những hoạt động sai lầm, lệc lạc, trái pháp luật chỉ vì không am hiểu hoặc cập nhật không kịp thời các quy định của luật pháp. Thứ tư, giảm được những tiêu cực do những cán bộ lợi dụng tình trạng thông tin bị thiên lệch hoặc không rõ ràng để trục lợi.
Bảo đảm tính công bằng trong tiếp cận thông tin: nghĩa là bảo đảm cho tất cả mọi người đều có cơ hội ngang nhau trong tiếp cận thông tin. Tình trạng nhà đầu tư phải hối lộ nhờ cậy cán bộ để nắm thông tin, kế hoạch, quy hoạch địa phương; hay tình trạng một số người nắm bắt được thông tin biết rõ vị trí, địa điểm quy hoạch rồi đầu cơ tích trữ đất đai... đều ảnh hưởng không tốt đến việc triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Vẫn còn tồn tại việc một nhà đầu tư muốn đầu tư dự án trước hết phải đặt mối “quan hệ” với cán bộ của các cơ quan nhà nước của tỉnh, và ngay cả số thuế phải nộp cũng cần phải “thương lượng” với cán bộ thuế của địa phương. Chính vì vậy, sự công bằng trong việc mọi người được chia sẻ thông tin là một mục tiêu phấn đấu của các nhà lãnh đạo tỉnh nhằm hạn chế rất nhiều những tiêu cực như vừa kể ở trên.
Thông tin phải ổn định: nói cách khác thông tin phải có thể dự đoán trước được. Để thực hiện điều này, trước hết, chính sách pháp luật ở địa phương phải tuân thủ tuyệt đối theo chính sách pháp luật của trung ương. Bên cạnh đó, lãnh đạo cấp tỉnh cũng cần phải thường xuyên tiếp xúc với doanh nghiệp để thảo luận về các thay đổi pháp luật và chính sách có liên quan đến mọi hoạt động đầu tư kinh doanh.
Cởi mở thông tin bằng tất cả cả các phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt là thiết kế một trang WEB của tỉnh phải thực sự có sức thu hút và luôn luôn cập nhật đầy đủ thông tin, sao cho khi nhà đầu tư cần bất cứ điều gì liên quan đến tiềm năng, chủ trương, chính sách, số liệu, văn bản luật, trình tự thủ tục, thông tin về quy hoạch... có liên quan đến địa phương đều có thể tìm thấy một cách dễ dàng trên trang WEB của tỉnh mà không cần phải đến tiếp xúc với cán bộ của các cơ quan. Website của tỉnh cũng cần bao gồm nhiều thứ ngôn ngữ, đặc biệt là các ngôn ngữ thông dụng như Việt, Anh, Pháp, Hàn, Hoa, Nhật...
Thứ ba: Giảm chi phí thời gian thực hiện các quy định của Nhà nước:
Chi phí thực hiện các quy định của Nhà nước là khoảng thời gian để chủ dự án đến cơ quan Nhà nước giải quyết các thủ tục hành chính. Đối với các chủ đầu tư, họ thường rất ngại việc bỏ dở công việc kinh doanh để xoay sở và đương đầu với các vấn đề sự vụ giấy tờ liên quan đến quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước. Chỉ số này Bình Thuận hiện cũng xếp hạng khá cao 7/43 tỉnh thành. Tuy nhiên để thu hút FDI thì đây cũng là một vấn đề cần phải lưu ý và cải thiện hơn nữa.
Trước hết, chính quyền cần có những quy định cụ thể về thời hạn giải quyết cho hầu hết các thủ tục hành chính. Các loại đơn từ, quy trình thủ tục cần rõ ràng và nên có biểu mẫu in sẵn. Linh động giảm những thủ tục phiền hà không cần thiết song vẫn giữ được sự quản lý chặt chẽ.
Công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan Nhà nước cũng là một trong những thủ tục khiến nhiều nhà đầu tư khó chịu, nhất là đối với các dự án đầu tư về du lịch luôn bị kiểm tra khá thường xuyên. Vì vậy, cần giữ sự chặt chẽ ngay từ khâu cấp phép, còn khi dự án đã đi vào hoạt động thì không nên có những đợt kiểm tra kéo dài. Các cơ quan quản lý chức năng phải hoàn thành trách nhiệm thanh tra, kiểm tra song không được có những hành vi can thiệp gây tốn kém cho doanh nghiệp.
Thứ tư: Nghiêm khắc với những chi phí không chính thức:
Chi phí không chính thức là số tiền mà doanh nghiệp phải bỏ ra để chi trả các khoản phí không chính thức, tiền phạt và các khoản phí bất thường khác trong điều kiện hoạt động kinh doanh bình thường. Đây là một chỉ số góp phần đánh giá sự trong sạch minh bạch của chính quyền tỉnh, từ đó ảnh hưởng tới mối thiện cảm của nhà đầu tư đối với các cơ quan công quyền của địa phương. Chỉ số này Bình Thuận xếp thứ 32/43 tỉnh thành. Điều đó chứng tỏ vẫn còn nhiều tình trạng nhũng nhiễu nhà đầu tư.
Để cải thiện chỉ số này, cần tập trung vào:
Giảm thiểu những chi phí phát sinh cho nhà đầu tư.
Các công tác như đấu thầu, cung cấp dịch vụ từ Nhà nước... phải được công khai và bình đẳng, kiểm soát chặt chẽ để tránh việc doanh nghiệp có phải trả tiền hoa hồng cho quan chức của tỉnh để có được hợp đồng từ cơ quan nhà nước.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đặc biệt là cán bộ các ngành như ngành thuế.
Phân chia công việc, luân chuyển cán bộ, thực hiện tốt cơ chế “một cửa”.
Tác động tâm lý của nhà đầu tư: cho họ hiểu rằng họ không cần tốn kém cho những khoản không có trong quy định (tức không cần “bồi dưỡng” cho cán bộ địa phương) khi họ có yêu cầu nào đó đối với cơ quan Nhà nước.
Thứ năm: Nâng cao tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh:
Chỉ số này Bình Thuận khá thấp xếp thứ 40/42 tỉnh thành được điều tra. Đây là một điều đáng lo ngại. Vì đặc biệt đối với quản lý về đầu tư trực tiếp nước ngoài vốn là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi chính quyền phải năng động, sáng tạo. Sự năng động, sáng tạo của chính quyền không chỉ đơn thuần do tư chất của người cán bộ như nhiều người vẫn nghĩ, mà điều đó còn có thể cải thiện thông qua những phương pháp làm việc hiệu quả, chẳng hạn như:
Khi những văn bản pháp luật của Trung ương ban hành thiếu rõ ràng, nếu chính quyền địa phương cứ vì thế mà trì hoãn dự án đầu tư, buộc doanh nghiệp phải chờ đợi đến khi có văn bản hướng dẫn thi hành của cấp trên hoặc phải chuyển lên cấp trên để xin ý kiến giải quyết, thì nhiều khả năng là nhà đầu tư sẽ từ bỏ dự án. Do vậy, chính quyền tỉnh phải sáng tạo và xử lý linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật Trung ương.
Gần gũi, động viên doanh nghiệp thông qua việc yêu cầu doanh nghiệp nộp báo cáo hàng tháng và những buổi họp mặt giữa chính quyền và doanh nghiệp. Luôn luôn lắng nghe ý kiến doanh nghiệp để kịp thời nắm bắt được những khó khăn cũng như nguyện vọng của họ; giúp họ tháo gỡ những vướng mắc khó khăn.
Khuyến khích các sáng kiến, biện pháp tiên phong nhằm giải quyết những khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải.
Thực hiện hòm thư góp ý tại mỗi cơ quan công quyền.
Thứ sáu: Tăng cơ hội tiếp cận đất đai:
Tiếp cận đất đai là chỉ số tổng hợp giữa tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp cho biết sự khó khăn về đất đai và mặt bằng cản trở việc mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất và giá đất thực chất. Chỉ số này Bình Thuận xếp thứ 15/43 tình thành. Đối với môi trường đầu tư cho một FDI du lịch thì việc cấp giấy chứng nhận không phải là vấn đề còn nhiều bức xúc, mà vấn đề cần phải chú ý là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất và giá đất. Về chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tỉnh cần phải phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết những phần đất hiện là đất lâm nghiệp vì có rừng phòng hộ, kết hợp sao cho cho vừa tận dụng được tiềm năng để phát triển du lịch, vừa không làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Ở những khu vực này nên quy hoạch du lịch theo hướng thu hút những nhà đầu tư kinh doanh về du lịch sinh thái và du lịch bảo tồn động thực vật. Về giá đất, trên cơ sở thực hiện đúng theo chủ trương của Nhà nước đã được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương, tỉnh nên áp dụng theo mức ưu đãi nhất, có lợi nhất cho nhà đầu tư để thu hút đấu tư, chẳng hạn trong khung giá đất có nhiều mức giá, thì tỉnh có thể áp dụng khung giá tối thiểu.
Thứ bảy: Thực hiện tốt các chính sách của Trung ương:
Thực tế cho thấy trong thời gian qua Trung ương đã có rất nhiều chính sách ưu đãi thu hút nhà đầu tư cũng như phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên một tỉnh có hiện tượng thực hiện không đúng các quy định của Trung ương hoặc vô hiệu hóa các luật đã ban hành khi họ thiết lập thêm nhiều rào cản hay ban hành những quy định mâu thuẫn. Chỉ số này Bình Thuận chỉ đạt mức dưới trung bình 31/43. Do vậy, lãnh đạo tỉnh cần:
Triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi đầu tư của trung ương.
Khi trung ương có chính sách, địa phương phải lập tức có kế hoạch thực hiện, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương, giao nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên trách, có cơ chế thanh tra kiểm tra chặt chẽ.
Các cơ quan ban ngành chức năng phải có sự thống nhất cao và cùng phối hợp để đạt được mục tiêu chung.
Thứ tám: Tạo nên môi trường cạnh tranh công bằng:
Trong chỉ số PCI, các chuyên gia đánh giá chỉ số thành phần này là “mức độ ưu đãi của chính quyền địa phương đối với doanh nghiệp Nhà nước”. Chỉ số này cho thấy giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước có nhận được sự đối xử công bằng của chính quyền tỉnh hay không. Ở đề tài luận văn này, chúng ta chỉ đề cập đến FDI, do đó vấn đề công bằng ở đây không phải chỉ với doanh nghiệp Nhà nước mà còn là sự công bằng giữa các doanh nghiệp ngoài nước với các doanh nghiệp trong nước. Trong thời gian qua, nhà nước đã có rất nhiều cố gắng để tạo sự bình đẳng này, điển hình là việc áp dụng cơ chế một giá, ban hành Luật Doanh nghiệp áp dụng chung cho cả trong nước và ngoài nước... Tại tỉnh Bình Thuận, lãnh đạo tỉnh cũng đã đưa ra nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài bằng cách ưu đãi trong giá đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, giá điện, nước... Tuy nhiên kết quả vẫn chưa thực sự như mong đợi vì nhiều khu vực dịch vụ, nhất là của tư nhân, vẫn áp dụng cơ chế hai giá. Các cơ quan tỉnh cần quản lý nghiêm những vấn đề này, đồng thời giữ sự bình đẳng cho doanh nghiệp trong nước và cả doanh nghiệp ngoài nước cùng phát triển.
Thứ chín: Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:
Bình Thuận xếp thứ 28/43 về chỉ số này. Thực tế hiện nay chính sách thu hút FDI của Bình Thuận tuy đã có nhưng chưa đồng bộ, vì hầu như chỉ mới là những chính sách tác động trực tiếp đến doanh nghiệp mà chưa có những chính sách bổ trợ. Vì vậy cần phải nghiên cứu ban hành những chính sách có ảnh hưởng tích cực đến việc tạo ra một môi trường đầu tư lý tưởng, chẳng hạn như những chính sách về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng...
Bên cạnh việc nghiên cứu ban hành chính sách, cũng cần phải có kế hoạch thực hiện chính sách đó một cách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả; phân công trách nhiệm và có cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc thực thi. Đồng thời với mỗi chính sách phải có kế hoạch tuyên truyền rộng rải đến mọi người dân cũng như doanh nghiệp, đặc biệt phải đưa vào website của tỉnh.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với các dự án đang triển khai:
Sau đây xin kiến nghị một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với các dự án du lịch đang được triển khai, góp phần khắc phục những tồn tại, tạo điều kiện cho các dự án FDI du lịch trên địa bàn tỉnh hoạt động hiệu quả:
3.3.2.1. Thu hồi đất những dự án chậm triển khai:
Những dự án chậm triển khai không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả tỉnh, mà còn làm xấu đi môi trường đầu tư, tác động không tốt đến các dự án khác. Vì vậy đối với những dự án này cần có những biện pháp kiên quyết:
- Đối với các dự án quá thời hạn triển khai (trên 12 tháng), chủ đầu tư đã cam kết nhưng chưa xây dựng hoặc xây dựng cầm chừng, đối phó và hiện nay đã ngừng triển khai xây dựng đề nghị UBND tỉnh thu hồi.
- Đề nghị UBND tỉnh thu hồi các dự án quá thời hạn nhưng chưa nộp hồ sơ thuê đất, giao đất tại Sở Tài nguyên và Môi trường.
- Đối với các dự án có triển khai nhưng cầm chừng (xây dựng khoảng 02 đến 03 căn nhà nghỉ rồi dừng hoặc vừa hoàn tất thủ tục để đầu tư) giao Sở Kế hoạch và Đầu tư mời Chủ đầu tư thông báo gia hạn và yêu cầu có văn bản cam kết tiến độ tiếp tục triển khai xây dựng trong thời hạn 30 ngày. Nếu không triển khai báo cáo UBND tỉnh thu hồi.
3.3.2.2. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm:
Như đã trình bày trong mục 1.2.2.4 của chương này, công tác thanh tra, kiểm tra nếu quá rườm rà, phức tạp, tốn kém thì sẽ gây nên sự khó chịu cho nhà đầu tư. Do đó, trong công tác này, các cơ quan chức năng cần phải hết sức khéo léo. Cụ thể:
Đơn giản hóa các thủ tục thanh tra, kiểm tra. Chú trọng đến chất lượng thanh tra hơn là hình thức.
Cơ chế thanh tra phải chặt chẽ, cán bộ thanh tra phải trong sạch. Tuyệt đối không để nhà đầu tư phải chi trả những “chi phí không chính thức” trong quá trình thanh tra.
Xử lý nghiêm khắc và kịp thời những sai phạm trong quá trình thanh tra, kiểm tra.
Các công tác thanh tra liên quan đến giải quyết khiếu nại, giải quyết tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng vì ảnh hưởng đến nhiều đối tượng.
Giải quyết các quy hoạch chồng lấn:
Hiện nay còn rất nhiều những quy hoạch chồng lấn cát đen, làm trì trệ tiến trình đầu tư các dự án du lịch. Do đó tỉnh cần sớm có những kế hoạch cụ thể để giải quyết thực trạng này.
- UBND tỉnh cần nhanh chóng chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường khảo sát hàm lượng cát đen của các dự án du lịch nằm trong quy hoạch khai thác cát đen. Nếu hàm lượng cát đen không cao khả năng khai thác không hiệu quả thì có thông báo chính thức để các Chủ đầu tư dự án yên tâm xây dựng.
- Đối với các dự án nằm trong quy hoạch phải khai thác cát đen, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường làm việc với đơn vị được phép khai thác xác định kế hoạch, thời gian khai thác và hoàn trả lại mặt bằng để các dự án chủ động triển khai xây dựng.
3.3.2.4. Công tác đền bù, giải tỏa:
Trong thời gian vừa qua có nhiều thay đổi về chính sách giá, chính sách đền bù cho các hộ dân nhưng các Sở, ngành chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện đến các cơ quan chức năng thực hiện đền bù, giải tỏa làm cho các cơ quan này lúng túng và bị động khi hiệp thương đền bù với dân (thường thì dân đòi áp giá cao nhất, chủ đầu tư thì muốn áp giá tại thời điểm thu hồi đất). Do vậy, UBND tỉnh phải có kế hoạch giao cho Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố thực hiện chính sách đền bù cụ thể theo từng thời điểm áp dụng mức giá để các ngành dễ áp dụng thực hiện.
Sở Kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ triển khai của dự án. Nếu dự án bị vướng đền bủ giải tỏa, Sở Kế hoạch Đầu tư phải kịp thời báo cáo và đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, địa phương phối hợp giải quyết. Trường hợp chủ đầu tư đã thương lượng nhưng người có quyền sử dụng đất muốn giữ đất, đòi hỏi chủ đầu tư giá quá cao so với thị trường, hoặc không hợp tác với cơ quan Nhà nước kiểm kê áp giá đền bù, thì UBND tỉnh cần chỉ đạo biện pháp cưỡng chế, để giao đất cho nhà đầu tư dự án du lịch triển khai xây dựng.
Một số hộ dân chưa chịu di dời vì Nhà nước chưa hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong khu tái định cư. Vì vậy, UBND tỉnh cần chú trọng triển khai quy hoạch khu tái định cư trước khi thực hiện quy hoạch du lịch.
3.3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các Sở, Ban, Ngành:
Về mối quan hệ phối hợp giữa các Sở, ngành và địa phương giải quyết các vấn đề liên quan đến việc theo dõi các dự án có vốn đầu tư nước ngoài cần phải được chấn chỉnh lại.
Theo quy định, hàng tháng, các các Sở, ngành liên quan và UBND các huyện, Thị xã và Thành phố phải có cáo báo bằng văn bản tình hình phát sinh trong tháng (tiến độ triển khai, giải quyết hồ sơ thuê đất, giao đất, xin giấy phép xây dựng…) gửi về Sở Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo trình UBND tỉnh xem xét, chỉ đạo. Tuy nhiên thời gian qua các Sở Ngành và địa phương thực hiện không đều, chỉ khi Sở Kế hoạch và Đầu tư có văn bản đề nghị mới có báo cáo; thậm chí co đơn vị có văn bản đề nghị 2- 3 lần và có ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh nhưng vẫn không thực hiện, làm khó khăn trong việc nắm bắt thông tin, xử lý báo cáo UBND tỉnh. Do vậy, UBND tỉnh cần chấn chỉnh và yêu cầu các Sở, ngành địa phương thực hiện nghiêm chế độ báo cáo theo quy định. Đồng thời, chất lượng của báo cáo phải bảo đảm đầy đủ nội dung cập nhật, phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc, những kiến nghị của nhà đầu tư để UBND tỉnh kịp thời chỉ đạo giải quyết. Bên cạnh đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư, với vai trò là cơ quan đầu mối, cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ tổng hợp này.
Quy hoạch du lịch kết hợp với sáng tạo mô hình phát triển du lịch:
Để định hướng cũng như quản lý hoạt động đầu tư du lịch, nhất thiết phải có quy hoạch du lịch. Chính quyền địa phương phải đặc biệt quan tâm và đầu tư cho công tác này. Bên cạnh đó, mô hình của từng khu du lịch là do nhà đầu tư sáng tạo, song để thu hút đầu tư du lịch thì chính quyền địa phương phải đưa ra được những mô hình phát triển du lịch ở tầm vĩ mô. Bởi lẽ chính quyền địa phuơng là những người biết rõ nhất về tiềm năng du lịch của tỉnh mình, và nếu đưa ra được những mô hình hấp dẫn, địa phương sẽ thu hút được nhà đầu tư. Đặc biệt, những quy hoạch du lịch càng mới lạ và cần vốn đầu tư lớn luôn là mối quan tâm đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những mô hình du lịch ở tầm vĩ mô cần được thể hiện song song với quy hoạch du lịch của địa phương. Cụ thể, cần chú ý thực hiện một số công việc sau đây:
Xác định không gian quy hoạch (trong đó, phải xác định khu vực trung tâm). Trên cơ sở xác định quy hoạch phát triển du lịch, cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch du lịch được duyệt cho phù hợp với thực tế, phù hợp với các ngành kinh tế khác, các vùng, các địa phương, tránh trùng lấp hoặc lãng phí khi tổ chức đầu tư.
Xác định các tuyến, điểm du lịch: Dựa vào cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, các điểm du lịch quan trọng của tỉnh được xác định theo từng vùng, từng địa bàn trên sự đánh giá tài nguyên du lịch và hệ thống kết cấu hạ tầng để phát triển du lịch. Kế hợp với du lịch các tỉnh thành lân cận.
Công tác qui hoạch cần được đồng bộ, không chỉ quy hoạch sử dụng đất mà cần đánh giá thực trạng dân cư sinh sống trên địa bàn, đề ra giải pháp quy hoạch khu tái định cư, để tái định cư, ổn định cuộc sống cho dân trong vùng quy hoạch, để công tác triển khai đầu tư dự án được thuận lợi hơn.
Cần chú trọng thu hút đầu tư dự án có qui mô lớn, hạn chế chấp thuận đầu tư những dự án diện tích nhỏ.
Xác định các mô hình phát triên du lịch gắn với tài nguyên của từng vùng như:
+ Du lịch gắn với khai thác thế mạnh về tài nguyên biển.
+ Du lịch gắn với khai thác các giá trị văn hóa, tài nguyên nhân văn, lễ hội; gắn với nhu cầu khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu các giá trị vật thể, phi vật thể nổi trội của tỉnh.
+ Du lịch gắn với thể thao, mạo hiểm, giải trí, nghỉ dưỡng.
+ Du lịch gắn với tham quan, nghiên cứu sinh thái rừng, núi, hồ, thác, đảo, làng văn hóa, làng nghề...
+ Du lịch gắn với tham quan di tích chiến tranh, di tích cách mạng, di tích văn hóa.
+ Du lịch kết hợp chữa bệnh tại các nguồn nước khoáng nóng.
+ Du lịch kết hợp với văn hóa ẩm thực.
+ Phát triển các loại hình du lịch công vụ, hội nghị, hội thảo, nghiên cứu, hội chợ... chủ yếu tại thành phố Phan Thiết (du lịch Mice: Meeting – Incentive – Convention - Exhibition, Event).
Quy hoạch và xây dựng mô hình du lịch thu hút đầu tư phải tuân thủ nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Du lịch bền vững tức là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch của tương lai.
Marketing địa phương:
Marketing được nghiên cứu và vận dụng ở Việt Nam từ năm 1986, nhưng hầu như chỉ được áp dụng nhiều ở các doanh nghiệp tư nhân. Cho đến thời gian gần đây marketing mới được vận dụng rộng rãi cho một số địa phương (Marketing Places). Qua đó, mỗi địa phương phải xác định thị trường, mục tiêu của địa phương, nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng trên thị trường mục tiêu và định vị trên thị trường mục tiêu đó. Chúng ta đã được chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của những doanh nghiệp tư nhân nhờ có chiến lược marketing tốt. Đối với một địa phương cũng vậy. Tỉnh Đồng Nai nhờ có chiến lược marketing đầu tư mà chỉ trong 10 tháng đầu năm 2002 đã có gần 70 dự án với tổng vốn gần 200 triệu USD, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong rất nhiều tỉnh thành hiện nay, marketing địa phương chưa được thực hiện thường xuyên, chưa được nhận thức đầy đủ như một chiến lược góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Thực tế đã cho thấy việc đẩy mạnh marketing địa phương sẽ là một trong những giải pháp hữu hiệu để địa phương có được nhiều mối quan hệ hợp tác hiệu quả với những nhà đầu tư.
Để góp phần thu hút đầu tư, lãnh đạo chính quyền địa phương cần có những giải pháp cụ thể để tạo ra một chiến lược marketing địa phương hiệu quả:
Trước hết phải nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động marketing địa phương và có cơ quan trực thuộc chính quyền địa phương chuyên trách thực hiện cũng như kiểm soát công tác này.
Thông tin quảng bá về hình ảnh địa phương.
Tuyên truyền chiến lược trong địa phương để tạp ra ý thức trách nhiệm trong nhân dân, khơi dậy lòng mến khách. (Việc này Thái Lan đã từng làm trong những năm Thái Lan phát động là năm du lịch).
Quảng bá qua các nhà đầu tư. Chính những nhà đầu tư thành công ở địa phương quảng bá cho địa phương sẽ có tác dụng rất cao đối với những nhà đầu tư chưa đến địa phương.
Có những khóa bồi dưỡng Marketing địa phương cho cán bộ.
Tổ chức hội thảo và nghiên cứu các đề tài về Marketing địa phương.
Luôn luôn có những hoạch định chính sách marketing địa phương theo mỗi giai đoạn phát triển và có ngân sách thực hiện. Việc hoạch định phải bao gồm phân tích SWOT – đó là cách xem xét những Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Nguy cơ (Threats) để phân tích thực trạng thu hút nguồn vốn FDI tại tỉnh.
Một ví dụ phân tích SWOT ở mức độ sơ khởi về du lịch tại Bình Thuận:
Điểm mạnh (Strengs):
Bình Thuận chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí thuận lợi cho phát triển du lịch.
Có tài nguyên du lịch phong phú.
Con người và bản tính hiếu khách
Sự chỉ đạo đúng đắn của chính quyền địa phương, định hướng kinh tế của tỉnh.
Điểm yếu (Weaknesses):
Cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém.
Nguồn lao động chưa đáp ứng yêu cầu.
Chính sách, thủ tục chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư.
Công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh du lịch địa phương chưa hiệu quả. Lượng khách còn ít, nhất là các khu vực xa Thành phố Phan Thiết.
Chính quyền chưa thực sự năng động trong giải quyết các nhu cầu của nhà đầu tư.
Cơ hội (Opportunities):
Với một môi trường chính trị an toàn, ổn định, thiên nhiên ít biến động lớn, Việt Nam được khách du lịch quốc tế đánh giá cao.
Việt Nam sắp trở thành thành viên chính thức của WTO. Nhiều hiệp định song phương và đa phương phát huy tác dụng.
Xu hướng nguồn vốn FDI trên thế giới và khu vực tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, du lịch.
Gần các thị trường du lịch lớn.
Sự khuyến khích của Chính phủ trong định hướng xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội.
Nguy cơ (Threats):
Bình Thuận phải phát triển nhanh và bền vững để tránh tụt hậu so với các tỉnh thành lân cận có nhiều tiềm năng du lịch như Bà Rịa Vũng Tàu, Lâm Đồng...
Sự cạnh tranh thu hút FDI của các tỉnh thành khác.
Sự mất lòng tin của nhà đầu tư
Trên cơ sở những phân tích SWOT, hoạch định Marketing địa phương sẽ đưa ra những giải pháp, trong đó có sự kết hợp giữa những yếu tố của SWOT theo sơ đồ sau:
S
Liệt kê những điểm mạnh
W
Liệt kê những điểm yếu
O
Liệt kê các cơ hội
SO
Sử dụng những điểm mạnh để tận dụng cơ hội
WO
Vượt qua điểm yếu tận dụng các cơ hội
T
Liệt kê các mối đe dọa
ST
Sử dụng điểm mạnh để tránh đe dọa
WT
Tối thiểu hóa các điểm yếu và tránh khỏi các đe dọa
Thứ nhất: Kết hợp S với O nhằm sử dụng điểm mạnh để tận dụng các cơ hội:
Khi những điểm mạnh S1, S2, S3, S4 được liệt kê ở trên kết hợp với O1, O4, O5, có thể thấy rằng cần phải xây dựng Bình Thuận thành một trung tâm du lịch có dịch vụ tốt nhất, chứ không phải những khu nghỉ mát bình thường. Khi đó, doanh thu sẽ tăng lên vì Bình Thuận thu hút được những khách hạng sang sẵn sàng trả nhiều tiền và nghỉ lại lâu hơn. Đồng thời, kết hợp các điểm mạnh với O2, O3 để thu hút dòng vốn của các tập đoàn du lịch trên thế giới. Cũng giống như mọi loại hình kinh doanh khác, các nhà khai thác du lịch lữ hành, quản lý khách sạn, quản lý khu nghỉ mát luôn quan sát khắp thế giới để tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Tuy vậy, việc làm sao để xây dựng hình ảnh Bình Thuận thành một trung tâm du lịch như trên không phải là một điều đơn giản, đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải có một kế hoạch hết sức chi tiết và có sự phối hợp chặt chẽ với doanh nhân.
Thứ hai, kết hợp S và T nhằm sử dụng những điểm mạnh để tránh các mối đe dọa.
Kết hợp thế mạnh S1, S2, S3 và T1, T2: cần phải có những biện pháp nối kết với các nền kinh tế của khu vực Đông Nam Bộ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển trong khi vẫn phát triển thế mạnh riêng biệt của mình.
Kết hợp S7 và T3 cần đưa ra giải pháp sau: các chính sách và cơ chế thu hút FDI phải mang tính kịp thời, đầy đủ, khả thi và thực sự mang lại hiệu quả. Tạo hình ảnh tốt về bộ máy quản lý nhà nước trong lòng doanh nghiệp bằng những buổi gặp mặt thường xuyên giữa chính quyền và doanh nghiệp. Ngoài ra cũng cần có một bộ phận trực tiếp để giải quyết khó khăn cho từng doanh nghiệp.
Thứ ba, kết hợp W với O nhằm vượt qua các điểm yếu để tận dụng các cơ hội
Tận dụng O5 để khắc phục W1, W2, W3, W4: tận dụng những chính sách ưu đãi của Chính phủ để cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải cách hành chính,...
Tận dụng O2 ,O3 để khắc phục W3, W4, W5: Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, các cơ quan Nhà nước tại tỉnh Bình Thuận có thể học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn quản lý trong lĩnh vực du lịch, nhà hàng, khách sạn..., cũng như cải cách hành chính cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ tư, kết hợp W với T nhằm tối thiểu hóa các điểm yếu và tránh khỏi các đe dọa.
W2 + T2: Tỉnh cần có kế hoạch điều phối ngân sách chi cho việc đào tạo đội ngũ quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn, tăng khả năng nhìn nhận về thị trường quốc tế và đối phó với những tình huống khó khăn.
W3 + T3: Thủ tục hành chính vẫn chưa đủ sức tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, do đó yêu cầu đặt ra là tỉnh phải làm sao để có được những thủ tục gọn nhẹ, rõ ràng, nhằm gíup cho các doanh nhân nước ngoài có thể tiếp cận dễ dàng với pháp luật cũng như các chính sách, đất đai, tín dụng...
W5 + T1, T2: Cần phải xây dựng một bộ máy quản lý nhà nước tại tỉnh Bình Thuận sao cho đầy năng động, sáng tạo. Trước hết phải quảng bá cho được cái riêng, cái ưu thế đặc trưng của Bình Thuận một cách rõ ràng, không chung chung. Sau đó phải cho nhà đầu tư cảm nhận được rằng các cơ quan công quyền luôn ở bên cạnh họ để lắng nghe khó khăn và luôn năng động trong việc giúp họ tháo gỡ những khó khăn đó.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh một nền kinh tế hội nhập, Tỉnh Ủy và UBND tỉnh Bình Thuận luôn xem đầu tư trực tiếp nước ngoài là một thành phần quan trọng của nền kinh tế. Thực tế những năm qua cho thấy, từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế địa phương. Đặc biệt, trong việc phát triển du lịch - một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh – thì chính các chủ đầu tư nước ngoài không chỉ đóng vai trò là những người tiên phong mà còn là những doanh nghiệp rất mạnh về vốn, có khả năng đáp ứng được những quy hoạch với quy mô lớn của tỉnh.
Bình Thuận vốn là một tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch có khả năng hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên hiện tỉnh không chỉ còn tồn đọng những khó khăn nội tại mà còn phải đối mặt với rất nhiều những thách thức trong thời gian tới. Để khắc phục hạn chế và tận dụng cơ hội phát huy điểm mạnh, các nhà lãnh đạo tỉnh cần phải có những giải pháp đồng bộ. Điều quan trọng là phải xem nhà đầu tư vừa là đối tượng quản lý, vừa như khách hàng, để từ đó biết lắng nghe họ, chia sẻ với họ những khó khăn, những tâm tư nguyện vọng. Bên cạnh đó, sự sáng tạo và tiên phong của lãnh đạo tỉnh cũng là một yếu tố tạo điểm mạnh cho môi trường đầu tư của địa phương. Sự giải quyết vấn đề nhanh nhạy, linh động trong khuôn khổ những quy định của pháp luật luôn khiến cho các nhà đầu tư hài lòng vì cảm thấy mình được quan tâm.
Ngoài ra, cũng cần nhận thấy một điều hiển nhiên rằng: Nếu chính quyền tỉnh không thu hút được đông khách du lịch, thì nhà đầu tư cũng sẽ không mặn mà với việc đổ vốn vào địa phương. Do vậy, thu hút đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực du lịch thì trước hết cũng cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá cho du lịch tỉnh, tạo được thương hiệu riêng, để du lịch Bình Thuận thực sự có chỗ đứng trong lòng du khách. Để làm được điều này, tỉnh phải thực hiện sự liên kết với các tỉnh thành lân cận, như Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng... , nhằm chia sẻ tiềm năng, tạo ra một vành đai du lịch.
Sau cùng, một nền kinh tế phát triển ổn định thì bản thân nội lực vẫn giữ vai trò quyết định. Do đó đầu tư nước ngoài sẽ không thể thay thế đầu tư trong nước, nó chỉ đóng vai trò như chất men xúc tác, làm khơi dậy và tăng trưởng các nguồn đầu tư bên trong.
Do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và bạn bè để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật đầu tư số 59/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam số 18/2000/QH10 ngày 09/6/2000.
Luật Du lịch được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.
Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ban hành ngày 31 tháng 7 năm 2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ban hành ngày 19 tháng 3 năm2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Thông tư số 12/2000/TT-BKH ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;
Quyết định số 233/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 01 tháng 12 năm 1998 về việc phân cấp, ủy quyền cấp giấy phép đầu tư dối với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thông tư số 13/2001/TT-BTC ngày 08 tháng 3 năm 2001 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Quyết định số 39/2002/QĐ-UBBT ngày 29 tháng 5 năm 2002 của Ủy Ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc ban hành bản quy định về quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Thuận
Quyết định số 50/2003/QĐ-UBBT của UBND tỉnh Bình Thuận ban hành ngày 01 tháng 8 năm 2003 về việc ban hành quy định chính sách thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Bình Thuận giai đoạn từ năm 2003 đến 2010; và Quyết định số 15/2006/QĐ-UBBT của UBND tỉnh Bình Thuận ban hành ngày 09 tháng 02 năm 2006 về việc hủy bỏ khoản 3 điều 4, các điều 7, điều 8 của quy định trên.
Quyết định số 01/2005/QĐ-UBBT của UBND tỉnh Bình Thuận ban hành ngày 01 tháng 01 năm 2005 về việc quy định giá các loại đất tại tỉnh Bình Thuận.
Một số chỉ tiêu Kinh tế xã hội chủ yếu tỉnh Bình Thuận 2001 – 2005 - Cục thống kê tỉnh Bình Thuận – tháng 11/2005.
Thông tin tư liệu Bình Thuận tập IV – Thư viện Bình Thuận – tháng 12 năm 2005.
Tạp chí Phát triển Kinh tế (các số 139, 143, 146)
Các báo cáo hàng tháng, quý, năm của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Sở Du lịch tỉnh Bình Thuận.
Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 – Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Hà Nội, tháng 12 năm 2005.
Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001-2004 (sách phục vụ thảo luận các dự thảo văn kiện Đại hội X) – Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia, 10/2004.
Toàn cảnh kinh tế Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia - 2004
Báo cáo nghiên cứu chính sách – VNCI số 4 “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2005. Đánh giá chất lượng điều hành kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tư nhân” – 2005.
Kỷ yếu hội thảo – Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức- một giải pháp quan trọng tăng cường năng lực quản lý hành chính Nhà nước ở Việt Nam (tại Hà Nội. 19/8/2003) - Bộ Nội Vụ Học viện Hành chính Quốc gia.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - Trần Xuân Tùng – NXB Chính trị quốc gia.
Kinh tế du lịch và Du lịch học - Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình – NXB Trẻ.
Dự thảo báo cáo tổng hợp “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Bình Thuận đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” - Sở Du lịch Bình Thuận – 2006.
Báo cáo kết quả điều tra khảo sát năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2006 - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Thuận, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Địa lý Kinh tế Việt Nam
Đề cương giới thiệu Luật Du lịch - Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Tư pháp và Vụ pháp chế Tổng cục Du lịch
Các website: www.binhthuan.gov.vn, www.Mpi.gov.vn, www.vietnamtourism.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_0738.doc