Kết luận
GDP/người và thịnh vượng quốc gia mới
là cái đích cuối cùng của công cuộc phát triển
đất nước và muốn thế nhất thiết phải quản lý
PTBV một cách khoa học. Nhà nước (cụ thể
là Chính phủ và chính quyền các địa phương)
và doanh nghiệp phải thực hiện việc tổ chức
PTBV theo các quy trình tiên tiến. Nhà nước
phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tìm
ra được những lĩnh vực mũi nhọn, những
sản phẩm chủ lực, những việc làm có thu
nhập cao; đồng thời nâng cao năng lực quản
lý, điều hành các hoạt động kinh tế của nhà
nước; cộng đồng doanh nghiệp phải theo kịp
các chuẩn mực tiên tiến của thế giới. Đánh
giá kết quả, hiệu quả PTBV là việc làm cần
thiết và có thể làm được đối với cả quốc gia
và đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Đổi mới quản lý PTBV phải đi
kèm với đánh giá kết quả, hiệu quả quản lý
PTBV ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý phát triển bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
*Email: ngothuyquynhapd@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 19, No. 2 (2020): 17-26
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Ngô Thúy Quỳnh1*
1Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội
Ngày nhận bài: 06/4/2020; Ngày chỉnh sửa: 15/4/2020; Ngày duyệt đăng: 17/4/2020
Tóm tắt
Nền kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây tuy đã tiến bộ hơn nhiều so với trước đây, các chỉ tiêu kinh tế có xu hướng tốt hơn, song nhiều lĩnh vực sản xuất có tình trạng thừa thiếu sản phẩm, thiệt hại do thiên tai dịch
bệnh ngày càng nhiều, cạnh tranh toàn cầu khó khăn gây nên sự phát triển thiếu bền vững trên phạm vi quốc
gia cũng như ở nhiều địa phương. Trong bối cảnh đó, nhận diện phát triển bền vững như thế nào và quản lý phát
triển bền vững ra sao đang là vấn đề cần làm rõ. Bài báo mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề
cơ bản về quản lý phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: Phát triển bền vững, quản lý phát triển bền vững, đánh giá quản lý phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Chính phủ đã ban hành chiến lược
phát triển bền vững, nhất là phát triển bền
vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đề
ra nhiều giải pháp nhưng cho đến nay nền
kinh tế cả nước cũng như kinh tế ở nhiều
địa phương có trình trạng phát triển thiếu
bền vững, gây nhiều thiệt hại cho người sản
xuất. Năm 2019, Việt Nam có 63 tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương, 664 đơn
vị hành chính cấp huyện, 8959 xã, có khoảng
714 nghìn doanh nghiệp và có hơn 95 triệu
dân [1]. Lợi ích cục bộ, xung đột lợi ích giữa
các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh
nghiệp với địa phương, giữa các địa phương
hiện hữu ở tất cả các nơi. Phát triển thiếu bền
vững đang hiển hiện trên phạm vi quốc gia
cũng như ở nhiều địa phương, làm giảm hiệu
quả phát triển trên nhiều phương diện. Thực
tế cho thấy, nếu không quản lý tốt các hoạt
động phát triển thì không thể có sự phát triển
bền vững. Vậy nên nhận thức ra sao, hiểu biết
thế nào và đối với việc quản lý phải làm gì
để Việt Nam có được sự phát triển bền vững
(PTBV) cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trước
tình hình như vậy, nhiều năm qua tác giả đã
dành công sức, thời gian để nghiên cứu về
vấn đề này và nay cho ra đời một bài báo với
mong muốn trình bày khái quát một số vấn
đề cơ bản về quản lý PTBV ở nước ta, góp
phần cung cấp thêm thông tin cho những ai
quan tâm.
18
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Thúy Quỳnh
2. Tiếp cận từ phương diện lý thuyết
2.1. Phát triển bền vững
2.1.1. Nhận thức và quan niệm về PTBV
Theo Hội đồng thế giới về Môi trường
và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc,
PTBV là sự phát triển đáp ứng được những
nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ mai sau [2, 3]. Nếu theo quan niệm
này thì sau vài chục năm tới sẽ hiểu thế nào
là không gây phương hại cho việc thỏa mãn
nhu cầu của các thế hệ tương lai? Nhu cầu
của con người thay đổi không ngừng. Thử
quay ngược lại thời gian cách đây khoảng vài
chục năm, khi người Việt Nam chưa “biết”
ăn bánh mì nhưng nay thì có tới khoảng 20%
người dân ăn bánh mì hàng ngày. Hoặc lúc
đó người dân Việt Nam chủ yếu đi lại bằng
xe đạp thì nay chủ yếu đi lại bằng xe máy, ôtô,
máy bay... Vậy trong 30 - 40 năm tới, người
dân Việt Nam thay đổi tập quán ăn uống, tập
quán sử dụng hàng hóa thế nào và sử dụng
phương tiện đi lại ra sao?
Tác giả cho rằng, PTBV có thể và cần được
hiểu là phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả,
sự gia tăng hiệu quả ổn định trong thời gian
dài dựa trên nền tảng sử dụng công nghệ cao
và có được sự phát triển cân đối, nhịp nhàng,
hài hòa giữa các bộ phận cấu thành của nền
kinh tế. Tác giả bài báo này đồng tình với
quan điểm của tác giả Ngô Doãn Vịnh [4] và
tác giả Ngô Thúy Quỳnh [2] cho rằng, cần
chú ý hai điểm: vững và bền. Khi nói đến
“vững” là nói đến phát triển có sự gia tăng
hiệu quả một cách tiến bộ (hiệu quả phát
triển không có tình trạng trồi sụt mà gia tăng
tốt). Còn khi nói đến “bền” tức là nói đến sự
gia tăng hiệu quả tương đối ổn định trong
thời gian dài. Nếu hiệu quả phát triển chỉ có
trong thời gian ngắn hoặc có tình trạng trồi
sụt thì không thể có phát triển bền vững.
2.1.2. Điểm qua yếu tố ảnh hưởng đến phát
triển bền vững và quản lý phát triển bền vững
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới PTBV và
quản lý PTBV nhưng tác giả xin nêu những
yếu tố chính để quan sát. Đó là: (1). Bối cảnh
quốc tế (đặc biệt là diễn biến của các liên
minh kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, chính trị và thương mại quốc tế) và
biến đổi khí hậu toàn cầu; (2). Tiềm lực kinh
tế của quốc gia (GDP/người, dự trữ ngoại tệ,
tỷ lệ nợ công, năng lực ngân sách, cộng đồng
doanh nghiệp, năng lực nghiên cứu sáng
tạo), năng suất lao động, hợp tác quốc tế và
độ mở kinh tế; (3). Ổn định chính trị, quan
hệ chính trị và kinh tế với các quốc gia khác
trên thế giới; (4). Quy mô và đặc điểm dân
số, vị trí địa kinh tế và địa chính trị; và (5).
Năng lực quản trị quốc gia và năng lực quản
trị địa phương. Mỗi giai đoạn phát triển vị
trí, vai trò của các yếu tố đối với PTBV và
quản lý PTBV có thể thay đổi.
2.2. Quản lý phát triển bền vững và đánh
giá quản lý phát triển bền vững
Cho đến nay chưa thấy có công trình nào
nghiên cứu thỏa đáng về vấn đề này. Để có
được nhận thức rõ hơn về quản lý PTBV và
đánh giá quản lý PTBV, tác giả xin trình bày
sâu hơn một số điểm quan trọng.
2.2.1. Quản lý PTBV: Quan niệm và nội
dung chủ yếu
a- Quan niệm về quản lý PTBV: Quản
lý phát triển là hành vi của một chủ thể xác
định, hữu trách tiến hành để làm cho đối
tượng quản lý có được sự phát triển có hiệu
19
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
quả hơn và bền vững hơn, đem lại nhiều
lợi ích hơn cho những người có liên quan.
Trong quá trình phát triển có ba chủ thể
tham gia, đó là: Nhà nước, doanh nghiệp
và người dân, trong đó, chủ thể Nhà nước
(chính quyền trung ương và chính quyền
cấp tỉnh, huyện, xã) giữ vai trò quan trọng
hàng đầu. Theo quan điểm của tác giả Ngô
Doãn Vịnh [4] cũng như quan điểm của hai
học giả Daron Acemoglu và Robinson [5]
thì quốc gia thành công hay thất bại trong
phát triển kinh tế là do thể chế kinh tế mà
thể chế kinh tế do Nhà nước đề ra và tổ chức
thực hiện nên suy cho cùng, Nhà nước giữ
vai trò quyết định đối với sự thành bại trong
phát triển kinh tế của quốc gia. Mặt khác,
khi doanh nghiệp phát triển có hiệu quả và
bền vững thì nền kinh tế quốc dân mới có
được sự phát triển hiệu quả và bền vững và
ngược lại. Ý thức và tinh thần phát triển của
người dân có ý nghĩa lớn đối với việc ủng hộ
chủ trương, chính sách của nhà nước và sẵn
sàng, tích cực đem tri thức và vốn để đầu
tư phát triển kinh tế. Quản lý PTBV phải
được tiến hành ở cả cấp quốc gia và cả ở cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp địa phương).
b- Nội dung quản lý PTBV: Việc quản lý
PTBV của quốc gia cũng như của địa phương
có những nội dung cơ bản như: i). Đề xuất và
tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối phát
triển kinh tế - xã một cách khoa học (Đối với
quốc gia và các địa phương. Đảm bảo sự phát
triển hài hòa, nhịp nhàng theo ngành và theo
các địa phương. Vấn đề quan trọng hàng đầu
là Nhà nước xác định rõ quy mô dân số hợp
lý, lĩnh vực mũi nhọn, sản phẩm chủ lực cần
tập trung sức phát triển); ii). Ban hành và tổ
chức thực hiện khung pháp lý, chính sách,
biện pháp đảm bảo thực hiện thành công chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội
theo ngành và theo địa phương; iii). Thanh
tra, kiểm tra, giám sát và tổ chức đánh giá
hiệu quả việc thực hiện quản lý PTBV cũng
như công khai kết quả đánh giá đó.
2.2.2. Đánh giá quản lý phát triển bền vững
Đây là vấn đề đang yếu ở Việt Nam. Kết
quả, hiệu quả quản lý phát triển thể hiện ở
kết quả, hiệu quả phát triển của nền kinh tế
và của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội.
Điều này được xem như nguyên tắc khoa
học trong tư duy, hành động đối với đánh
giá quản lý PTBV. Đánh giá kết quả, hiệu quả
quản lý PTBV phải có định lượng mà đã nói
đến định lượng thì phải có chỉ tiêu cụ thể.
Ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-TTg về
phê duyệt Chiến lược PTBV Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020 [6]. Trong đó, đã đưa ra hệ
thống 32 chỉ tiêu giám sát và đánh giá PTBV
(bao gồm: Chỉ số bền vững môi trường; Hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư; Năng suất lao động
xã hội; Tỷ trọng đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng
chung; Mức giảm tiêu hao năng lượng để sản
xuất ra một đơn vị GDP; Tỷ lệ năng lượng tái
tạo trong cơ cấu sử dụng năng lượng; Chỉ số
giá tiêu dùng; Cán cân vãng lai; Bội chi Ngân
sách nhà nước; Nợ của Chính phủ; Nợ nước
ngoài; Tỷ lệ nghèo; Tỷ lệ thất nghiệp; Tỷ lệ
lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã
qua đào tạo; Hệ số bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập (hệ số Gini); Tỷ số giới tính
khi sinh; Số sinh viên trên 10.000 dân; Số
thuê bao internet trên 100 dân; Tỷ lệ người
dân được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm thất nghiệp; Số người chết do tai
20
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Thúy Quỳnh
nạn giao thông trên 100.000 dân; Tỷ lệ số xã
được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới;
Tỷ lệ che phủ rừng; Tỷ lệ đất được bảo vệ, duy
trì đa dạng sinh học; Diện tích đất bị thoái
hóa; Mức giảm lượng nước ngầm, nước mặt;
Tỷ lệ ngày có nồng độ các chất độc hại trong
không khí vượt quá tiêu chuẩn cho phép; Tỷ
lệ các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất,
cụm công nghiệp xử lý chất thải rắn, nước
thải đạt tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia tương ứng; Tỷ lệ chất thải rắn thu
gom, đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia tương ứng). Nhìn vào danh
mục chỉ tiêu vừa nêu, có thể cho thấy nhận
thức về PTBV chưa thật tường minh, nhận
thức chưa rõ ràng; ngoài ra, quá nhiều chỉ
tiêu đo lường phát triển bền vững nhưng các
chỉ tiêu không đồng cấp độ và có nhiều chỉ
tiêu không phản ánh bản chất của PTBV.
Đối với cấp quốc gia, để đánh giá quản lý
PTBV tác giả cho rằng, cần đặc biệt coi trọng
đánh giá chất lượng quản lý. Để đánh giá cần
sử dụng các chỉ tiêu hay nhóm chỉ tiêu chủ
yếu như: (1) năng suất lao động, (2) GDP/
người; (3) tỷ lệ người nghèo, (4) tỷ lệ thất
nghiệp và ô nhiễm môi trường; (5) nhóm chỉ
tiêu về ổn định kinh tế vĩ mô: dự trữ quốc
gia, nợ công, thâm hụt ngân sách, khả năng
thích ứng với các biến động từ bên ngoài
cũng như khả năng ứng phó với biến đổi khí
hậu; (6) chỉ số tương quan giữa các bộ phận
cấu thành nền kinh tế; (7) tỷ trọng lĩnh vực
công nghệ cao chiếm trong nền kinh tế quốc
dân, hoặc chỉ tiêu về trình độ công nghệ cao
của các doanh nghiệp, (8) năng lực cạnh
tranh toàn cầu, (9) tiêu tốn điện năng để tạo
ra 1 đơn vị GDP...
Đối với cấp tỉnh cũng cần tiến hành đánh
giá kết quả, hiệu quả quản lý PTBV. Song các
chỉ tiêu sử dụng để phân tích, đánh giá có
sự khác biệt đôi chút so với khi đánh giá ở
cấp quốc gia nêu trên. Theo tác giả, nên sử
dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau: (1) năng suất
lao động, (2) GDP/người, (3) tỷ lệ người
nghèo, (4) tỷ lệ thất nghiệp, (5) tỷ lệ ô nhiễm
môi trường so chuẩn mức; (6) chỉ số tương
quan giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế,
(7) tỷ trọng lĩnh vực công nghệ cao trong nền
kinh tế, (8) trình độ công nghệ cao của các
doanh nghiệp, (9) số dân di cư ra khỏi tỉnh
hoặc nhập cư vào tỉnh, (10) năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh...
Trong quá trình phân tích, đánh giá kết
quả, hiệu quả quản lý PTBV cần so sánh các
chỉ tiêu qua các năm, các giai đoạn và so sánh
với chuẩn mức. Điều khó khăn là ở Việt Nam
hiện nay chưa có chuẩn mức, nên có thể so
sánh với mức đạt được của nước ngoài nếu
có số liệu.
3. Thực trạng quản lý phát triển bền
vững ở Việt Nam
Vì không có số liệu của tỉnh và số lượng
tỉnh ở Việt Nam là rất lớn nên tác giả chỉ dừng
lại ở việc phân tích, đánh giá kết quả, hiệu
quả quản lý PTBV đối với quốc gia. Những
ai quan tâm đến đánh giá kết quả, hiệu quả
quản lý PTBV ở cấp tỉnh có thể tham khảo.
3.1. Khái quát hệ thống quản lý phát triển ở
Việt Nam
Việc quản lý nhà nước đối với công cuộc
phát triển ở Việt Nam đang triển khai theo
ngành và theo lãnh thổ [7]. Giúp Chính phủ
và Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước theo ngành có 22
Bộ, cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc
21
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
Chính phủ. Giúp Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ trực tiếp quản lý theo lãnh thổ có
chính quyền 63 tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương (cùng với chính quyền các cấp
từ huyện đến xã). Hệ thống quản lý bên cạnh
nhiều tiến bộ cũng bộc lộ không ít bất cập.
Luật pháp, chính sách hiện hữu tương đối
đủ và từng bước được hoàn thiện, tuy nhiên
còn nhiều thiếu hụt, chồng chéo, chậm điều
chỉnh. Quản lý và điều hành của Nhà nước
có tiến bộ (theo Diễn đàn kinh tế thế giới [8],
từ năm 2010 đến nay thứ bậc trong bảng xếp
hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt
Nam tăng dần và đến năm 2019 Việt Nam
đứng thứ 67/141 quốc gia được xếp hạng)
nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Nổi cộm là
có nhiều sự chồng chéo, phân tán chức năng
quản lý trong bộ máy chính phủ, chính quyền
các địa phương làm kém hiệu quả hoạt động
của hệ thống quản lý.
Theo các nguồn tài liệu [1, 9], tính đến hết
năm 2018, Việt Nam có khoảng 714 nghìn
doanh nghiệp (trong đó có 17 nghìn doanh
nghiệp FDI) và có khoảng 5 triệu hộ kinh
doanh cá thể. Số lượng doanh nghiệp của
nước ta đang ít so với yêu cầu. Trong khi ở
Thái Lan cứ 30 người dân có 1 doanh nghiệp
thì ở Việt Nam cứ khoảng 130 người mới có
1 doanh nghiệp. Ở nước ta số doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm khoảng 93% trong tổng
số doanh nghiệp nên sức chống chọi với các
thay đổi lớn từ bên ngoài là có hạn, thậm chí
có thể nói là yếu. Ngoài số doanh nghiệp đã
nói ở trên Việt Nam còn có 13.171 hợp tác xã
phi nông nghiệp, 5.151.948 cơ sở kinh tế cá
thể phi nông nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam có
13.400 hợp tác xã nông nghiệp, 35.500 trang
trại nông nghiệp [10]. Nhìn chung, đa phần
doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào nhiều chuỗi
cung ứng toàn cầu (tiêu biểu như chuỗi cung
ứng linh kiện cho chế tạo sản phẩm điện tử,
ôtô, may, da giày, thuốc chữa bệnh) và do
đó thường bị động khi có biến từ bên ngoài
khó đoán định. GDP/người tính theo đô la
giá hiện hành của Việt Nam chỉ bằng khoảng
4% của Singapore, 37% của Thái Lan, 24%
của Malaysia [1]. Đó là những yếu tố gây khó
khăn cho quản lý PTBV, đòi hỏi việc quản lý
của Nhà nước cũng như của doanh nghiệp
đối với sản xuất hàng hóa và xuất nhập khẩu
phải được tính toán một cách khoa học, nhạy
bén, thích ứng với những biến động bất lợi từ
bên ngoài. Hơn nữa, lạm phát, trượt giá cũng
là vấn đề quan trọng cần kiểm soát trong quá
trình quản lý PTBV.
3.2. Một số đặc điểm về các yếu tố ảnh hưởng
tới quản lý PTBV của Việt Nam
a) Thuận lợi cũng có nhưng khó khăn nội
tại còn tương đối nhiều. Việt Nam ngày càng
có vị thế cao trên trường quốc tế. Tiềm lực
kinh tế quốc gia lớn dần nhưng khả năng tích
lũy từ nội bộ nền kinh tế còn hạn chế. Ở Việt
Nam, ý chí chính trị và chủ trương về PTBV
đã có nhưng gặp nhiều khó khăn trong quá
trình triển khai. Nhà nước ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật về PTBV và cố
gắng cải tiến năng lực quản lý PTBV. Bên
cạnh việc ban hành Quyết định số 153/2004/
QĐ-TTg về Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam - Nghị sự 21 (2004),
Quyết định số 432/QĐ-TTg về phê duyệt
Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011
– 2020 (2012), Nhà nước từng bước hoàn
thiện khung pháp luật và tiến hành đổi mới
tổ chức và chức năng của bộ máy quản lý (tại
các Luật Tổ chức Quốc hội, Tổ chức Chính
phủ, Tổ chức Chính quyền địa phương);
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp. Tuy nhiên, do chưa có chế tài đối với
22
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Thúy Quỳnh
người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước
nên việc kiểm điểm trách nhiệm quản lý rất
khó. Nền kinh tế Việt Nam còn bộc lộ không
ít bất cập, chưa thể giải quyết những yếu kém
nội tại. Dự trữ quốc gia chưa lớn (thậm chí
có thể nói còn nhỏ, bằng khoảng trên 12%
GDP, trong khi của Trung Quốc khoảng
30%, của Hàn Quốc khoảng 24,5% [11]). Độ
mở kinh tế lớn nên dễ bị tổn thương do thay
đổi từ bên ngoài. Năm 2018 chỉ tính giá trị
xuất khẩu chia cho GDP của Việt Nam đã đạt
khoảng 102% (năm 2019 ước khoảng 163%).
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp
khoảng 70 điểm % độ mở kinh tế (độ mở
kinh tế của Thái Lan đạt khoảng 68%). Năm
2018 Việt Nam đã làm ăn với 230 đối tác trên
thế giới (cũng năm này đã có 150 vụ việc
khởi xướng điều tra bởi 19 quốc gia và vùng
lãnh thổ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam) [12]. Năm 2018 ở Việt Nam doanh
nghiệp có vốn vốn đầu tư nước ngoài tạo ra
khoảng 19,4% GDP, khoảng 71% giá trị xuất
khẩu, khoảng 13,1% ngân sách nhà nước và
đóng góp khoảng 23,3% vốn đầu tư xã hội đã
thực hiện [1, 9]. Mặt khác, sự thất thoát gây
ra cho Việt Nam do các doanh nghiệp FDI
sử dụng chiêu chuyển giá, trốn thuế, tổn thất
do ô nhiễm môi trường là bao nhiêu thì
chưa được tính toán định lượng. Do đó, vấn
đề quản lý FDI càng trở nên quan trọng trong
quá trình PTBV. Việt Nam có địa hình phức
tạp (ba phần núi, bốn phần biển và một phần
đồng bằng), số dân tương đối đông và có cơ
cấu dân tộc tương đối phức tạp, mức sống
dân cư đang mới ở mức trung bình thấp của
thế giới. Chi phí đầu vào cho sản xuất đang
còn cao và cao hơn so ở các nước trong khu
vực. Cho đến nay, 12 Hiệp định về thương
mại tự do và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã
ký kết với nước ngoài đang phát huy hiệu lực,
có ảnh hưởng lớn (cả chiều tích cực và chiều
tiêu cực) đến phát triển kinh tế - xã hội của
nước nhà. Mặt khác, năng lực đổi mới sáng
tạo khoa học công nghệ cũng như năng lực
công nghiệp chế biến, chế tạo của người Việt
Nam đang còn rất hạn chế. Bên cạnh những
điểm vừa nêu trên, trong chương trình thời
sự VTV 8 giờ sáng ngày 05/4/2020 cho biết ở
Việt Nam hiện có khoảng 20 triệu lao động
làm việc trong khu vực phi chính thức (chiếm
khoảng 36% tổng lao động trong độ tuổi
đang làm việc), hàng năm có vài triệu người
từ vùng nông thôn kéo ra thành phố sinh
sống và làm ăn. Ở 2 đô thị lớn: TP. Hà Nội
và TP. Hồ Chí Minh số người sống không có
hộ khẩu thường trú chiếm tới 25-30% so với
dân số nội đô, mỗi năm số ô tô tăng khoảng
9-10% và số xe máy tăng với tốc độ khoảng
14-15%. Tất cả những điều vừa kể ra ở trên
là những yếu tố gây khó khăn cho quản lý
PTBV ở Việt Nam.
b) Các yếu tố bên ngoài vừa ảnh hưởng
tích cực vừa ảnh hưởng tiêu cực đến nước ta.
Việc Việt Nam mở cửa sâu rộng với các nước
đã đem đến những cơ hội tốt để thúc đẩy
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, khó khăn đến
từ bên ngoài cũng nhiều và diễn biến khó
đoán định. Trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ, việc
khó kiểm soát các mạng xã hội, tình trạng bị
hacker tấn công phá hoại quản lý phát triển
và sản xuất kinh doanh; công nghệ trung
bình và kém chuyển dịch từ các nước phát
triển sang các nước đang phát triển là không
tránh khỏi; xung đột giữa các nước lớn, biến
động xã hội ở nhiều nơi trên thế giới (Brexit
của Anh, chiến tranh ở nhiều khu vực tại
Trung Đông và ở Châu Phi, cấm vận của Mỹ
với Iran, các dòng nhập cư vào Châu Âu)
đã tác động tới sự phát triển kinh tế của toàn
thế giới nói chung và tới Việt Nam nói riêng.
Chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và
Mỹ, xung đột giữa Nhật Bản và Hàn Quốc,
23
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
giữa Hàn Quốc và Trung Quốc cũng như
nhiều quốc gia đã sử dụng hàng rào kỹ thuật,
sử dụng chiêu chống bán phá giá gây tác
động bất lợi cho doanh nghiệp của các quốc
gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Trong chương trình thời sự 19 giờ của VTV
ngày 24/02/2020 về kinh tế thế giới trong bối
cảnh COVID-19, chuyên gia kinh tế Trần
Toàn Thắng cho biết nếu nền kinh tế Trung
Quốc giảm 1% thì kinh tế Hàn Quốc giảm
3,35%, của các nước khác giảm khoảng 0,3%,
của Việt Nam giảm khoảng 0,2%. Cũng theo
ông Thắng, các chuyên gia kinh tế dự báo dịch
COVID-19 sẽ làm nền kinh tế thế giới giảm
khoảng 1%. Hay theo chương trình thời sự
Đài Truyền hình Việt Nam (sáng 01/4/2020),
ở nước ta do dịch COVD-19 đã có hơn 11
nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường, vốn
FDI thu hút giảm khoảng 8%, giá trị xuất
khẩu hàng dệt may giảm trên 8,9%, thủy sản
giảm 11,2% so cùng kỳ năm trước.
Biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng lớn
đến quản lý PTBV ở Việt Nam. Theo số liệu
thống kê 2018 [13], thiệt hại do thiên tai tăng
từ mức 5.362 tỷ đồng năm 2015 lên 15.766 tỷ
đồng năm 2018. Trong 10 năm (2009-2019),
Việt Nam thiệt hại do thiên tai khoảng 400
nghìn tỷ đồng (tương đương 17 tỷ USD,
trung bình khoảng 1,7 tỷ USD mỗi năm)
[14]. Chỉ tính riêng dịch tả lợn Châu Phi ở
Việt Nam đã làm khoảng 6 triệu con lợn bị
tiêu hủy, tương ứng đổ đi khoảng 16-17 vạn
tấn thịt lợn lọc [15] và gây nên tình trạng
trong 3 tháng cuối năm 2019 Việt Nam thiếu
khoảng 20 vạn tấn thịt lợn; giá thịt lợn tăng
khoảng 30% so cùng kỳ năm 2018. Theo Bộ
Tài nguyên và Môi trường, nếu nước biển
dâng 1m vào năm 2100 [14] thì khoảng 1/3
diện tích đồng bằng sông Cửu Long, khoảng
10% vùng đồng bằng sông Hồng, khoảng
7-8% ven biển miền Trung bị ngập (tức là có
khoảng 10 -11 triệu người bị ảnh hưởng do
nước biển dâng).
3.3. Một số đánh giá về quản lý PTBV ở
Việt Nam
Căn cứ vào nguyên tắc hiệu quả phát triển
kinh tế - xã hội phản ánh trực tiếp hiệu quả
quản lý PTBV và căn cứ vào số liệu thống kê
có được, tác giả xin điểm qua một số vấn đề
quan trọng:
a) Phân tích từ số liệu của Tổng cục
thống kê [1] cho thấy, trong bối cảnh diễn
biến khó lường của nền kinh tế thế giới
Việt Nam đang và sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Điểm xuất phát đã thấp, khả năng
cạnh tranh lại có hạn nên tương lai phát
triển dù có những thuận lợi nhưng cũng
đứng trước nhiều thách thức lớn. Trong
giai đoạn từ 2010 đến 2018 nền kinh tế
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đạt trung
bình khoảng 6,2%/năm, GDP/người ngày
một tăng (từ 1.333 USD năm lên 2.500
USD theo giá hiện hành); nợ công giảm từ
mức hơn 69% xuống còn 56% GDP, tỷ lệ
người nghèo giảm từ khoảng 14,2% năm
2010 xuống còn khoảng 6,8% năm 2018.
Hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam
vẫn ở mức thấp (nếu tính theo giá sức mua
tương đương, năng suất lao động của Việt
Nam chỉ bằng 7,3% năng suất lao động
của Singapore; 19% của Malaysia; 37% của
Thái Lan; 44,8% của Indonesia và bằng
55,9% của Philippines). Trong tình thế như
vậy, Việt Nam khó cạnh tranh ở ngay trong
khu vực ASEAN chứ chưa nói đến cạnh
tranh quốc tế. Xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu do các doanh nghiệp FDI tạo ra, tức
là doanh nghiệp FDI giữ vai trò lớn trong
cạnh tranh quốc tế và PTBV của nước ta.
24
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Thúy Quỳnh
Bảng 1. Tổng hợp thêm một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Việt Nam
Chỉ tiêu Đơn vị 2010 2015 2018
Tăng bình quân năm
(%)
2010-2015 2016-2018
1. Dân số 103 ng 86.974 91.709,8 94.666 1,1 1,055
2. Lao động 103 ng 49.048,5 52.840 55.354 1,5 1,49
% so dân số % 56,4 57,6 58,4 - -
3. GDP, Giá 2010 Tỷ đ 2.157.828 2.875.856 3.493.399 5,9 6,7
Trong đó:
- Nông nghiệp Tỷ đ 396.578 462.536 500.567 3,15 2,95
- Công nghiệp Tỷ đ 693.351 982.411 1.242.420 7,2 7,6
- Dịch vụ Tỷ đ 693.351 1.101.236 1.354.796 9,7 8,75
GDP, Giá hiện hành Tỷ đ 2.157.828 4.192.862 5.542.332 - -
Hệ số trượt giá Lần 1,0 1,46 1,59 - -
4. GDP/người
Theo giá 2010 Tr. đ 24,8 31,4 36,9 4,85 5,5
Theo giá hiện hành Tr. đ 24,8 45,7 44,3 - -
5. Năng suất lao động Tr. đ
Theo giá 2010 Tr. đ 43,99 54,4 63,1 4,86 5,13
Theo giá hiện hành Tr. đ 43,99 73,35 101,1 - -
6. Giá trị xuất khẩu Tỷ USD 71.2367 162.017 243.697 17,85 14,6
Riêng khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
Tỷ USD 39.152 114.380 173.963
Tỷ trọng so tổng số (6) % 54,9 70,6 71,4 - -
7. Chỉ số giá tiêu dùng, năm sau so
năm trước
% 11,75 0,63 3,54 - -
8. Nợ công, % so GDP** % 56,6 61,3 61 - -
9. Tỷ giá hối đoái (1) VNĐ/1 USD 19.490 21.246 23.270 - -
10. Năng lực cạnh tranh toàn cầu
của Việt Nam *
Thứ bậc
trong bảng
xếp hạng
75/144
(năm 2012)
[16]
68/144
(năm 2014)
[16]
67/141
(năm 2019)
[17]
- -
Nguồn: [1, 10]; * [16]; ** [17]; (1) [18]
b) Quản lý và điều hành kinh tế của chính
quyền trung ương, chính quyền địa phương
(gồm chính quyền các cấp tỉnh, huyện, xã)
và của cộng đồng doanh nghiệp tuy từng
bước có tiến bộ nhưng vẫn chưa tạo ra tiền
để đủ mức để nền kinh tế có được sự bứt
tốc và phát triển bền vững. Nhìn chung, sự
phát triển của nền kinh tế chưa có được sự
cân đối, hài hòa, nhịp nhàng cần thiết. Khi
so sánh với các chỉ số tương quan giữa nông
nghiệp và phi nông nghiệp; giữa SXSP vật
chất và SXSP dịch vụ; giữa công nghiệp và
nông nghiệp, giữa dịch vụ và công nghiệp
của Việt Nam với của Nhật Bản, Hàn Quốc
trong giai đoạn nền kinh tế của họ có sự bứt
tốc như ở Bảng 2 thì thấy các chỉ số tương
quan giữa các bộ phận cấu thành nền kinh
tế Việt Nam trong quá trình phát triển còn
chưa thật tương xứng ở mức cần thiết như
của hai quốc gia Đông Á đang đứng trong
nhóm các nước phát triển.
25
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 19, Số 2 (2020): 17-26
Bảng 2. Chỉ số tương quan giữa các ngành, lĩnh vực trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam
Chỉ số tương quan
So sánh tương quan ở Việt Nam (%) Mức trung bình chỉ số tương quan
của Nhật Bản, Hàn Quốc* (%)2011-2015 2011-2018
1. Giữa Nông nghiệp và Phi nông nghiệp 1: 2,21 1: 2,42 1: 3-3,5
2. Giữa SXSP vật chât và SXSP dịch vụ 1: 2,45 1: 1,78 1: 3,5-5
3. Giữa Công nghiệp và Nông nghiệp 1:2,28 1:2,57 1: 3,5-4
4. Giữa Dịch vụ và Công nghiệp 1:1,34 1:1,15 1: 2,5-3
Nguồn: Xử lý theo số liệu thống kê Niên giám 2010 và 2018, Tổng cục thống kê.
Ghi chú: * Số liệu tính cho giai đoạn 1980-2000 (cứ lĩnh vực này tăng 1% thì lĩnh vực kia tăng bao nhiêu %); SXSP: sản
xuất sản phẩm.
4. Kết luận
GDP/người và thịnh vượng quốc gia mới
là cái đích cuối cùng của công cuộc phát triển
đất nước và muốn thế nhất thiết phải quản lý
PTBV một cách khoa học. Nhà nước (cụ thể
là Chính phủ và chính quyền các địa phương)
và doanh nghiệp phải thực hiện việc tổ chức
PTBV theo các quy trình tiên tiến. Nhà nước
phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tìm
ra được những lĩnh vực mũi nhọn, những
sản phẩm chủ lực, những việc làm có thu
nhập cao; đồng thời nâng cao năng lực quản
lý, điều hành các hoạt động kinh tế của nhà
nước; cộng đồng doanh nghiệp phải theo kịp
các chuẩn mực tiên tiến của thế giới. Đánh
giá kết quả, hiệu quả PTBV là việc làm cần
thiết và có thể làm được đối với cả quốc gia
và đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Đổi mới quản lý PTBV phải đi
kèm với đánh giá kết quả, hiệu quả quản lý
PTBV ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh.
Tài liệu tham khảo
[1] Tổng cục Thống kê (2018). Niên giám thống kê
Việt Nam.
[2] Ngô Thúy Quỳnh (2016). Phát triển bền vững
nhìn từ góc độ quản lý nhà nước. Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế - Học viện Hành chính Quốc gia:
“Quản lý chiến lươc mục tiêu phát triển bền
vững, cách tiếp cận, tư duy hệ thống hoá và điều
khiển học - Bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam”, Hà Nội, tháng 3/2016.
[3] Thủ tướng Chính phủ (2004). Quyết định số
153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam - Nghị sự 21.
[4] Ngô Doãn Vịnh (2010). Phát triển: điều kỳ diệu
và bí ẩn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
[5] Daron Acemoglu & Robinson A. (2013). Tại sao
các quốc gia thất bại. Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ
Chí Minh, trang 103-109.
[6] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số
432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về phê duyệt
Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020.
[7]
chinhphu/bonganh
[8] Diễn đàn Kinh tế thế giới (2019). Báo cáo
xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Truy
cập từ <https://tuoitre.vn/viet-nam-tang-10-
bac-xep-hang-nang-luc-canh-tranh-toan-
cau-20191009114319843.htm>.
[9] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019). Sách trắng
doanh nghiệp Việt Nam 2019. Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội.
[10] https://thoibaonganhang.vn/den-het-nam-2018-
ca-nuoc- hop-tac-xa-nong-nghiep
[11] https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_sách_quốc_
gia_theo_dự _trữ_ngoại_tệ
26
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngô Thúy Quỳnh
[12] h t tp : / /www.mofahcm.gov.vn /v i /mofa /
nr091019080134
[13] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/2017-thiet-
hai-thien-tai-lon-chua-tung-co-386-nguoi-
chet-420427.html
[14]
[15] https://vnexpress.net/thoi-su/viet-nam-da-thiet-
hai-vi-dich-ta-lon-chau-phi-
[16] https://baodautu.vn/nang-luc-canh-tranh-viet-
nam, nam 2015
[17]
viet, nam 2019
[18] https://news.zing.vn/bo-tai-chinh-no-cong-
nam-2018
[19] https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/
menu/trangchu/hdk
SUSTAINABLE DEVELOPMENT MANAGEMENT IN VIETNAM
Ngo Thuy Quynh1
1National Academy of Public Administration, Hanoi
Abstract
In the past few years, Vietnam’s economy has been much better than before, economic indicators tend to be better, but many production sectors have in the condition of both product shortage and redundancy, damages
due to more natural disasters, difficult global competition... causing unsustainable development on the national
scale as well as in many localities. In this context, how to identify and manage sustainable development is
an issue that needs clarification. The paper desires to further clarify some of the basic issues on sustainable
development management in Vietnam.
Keywords: Sustainable development, sustainable development management, sustainable development
management assessment.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_ly_phat_trien_ben_vung_o_viet_nam.pdf