Lợi ích của quản lý theo kết quả
RBM đem lại cho cơ quan, tổ chức
những lợi ích cơ bản dưới đây:
- Thứ nhất, RBM xác định cho cơ quan,
tổ chức một tầm nhìn bao quát và dài hạn,
bởi vì nó tính đến các tác động dài hạn của
các hoạt động và các quá trình; đồng thời nó
tiếp cận một cách có hệ thống và lô gích về
các hoạt động của cơ quan, tổ chức trong
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Thứ hai, RBM bảo đảm cơ quan, tổ
chức hoạt động một cách hiệu lực. RBM tập
trung vào các kết quả thay vì chỉ tập trung vào
những hành vi và hoạt động. Trong các
phương thức quản lý trước đó, các nhà quản
lý thường xem những hành vi và hoạt động
của cơ quan, tổ chức là những kết quả. Do đó,
một người lao động có thể rất bận rộn nhưng
chưa hẳn đã có những đóng góp vào việc đạt
được các mục tiêu của cơ quan, tổ chức; trong
khi đó, nhà quản lý vẫn có thể kết luận rằng
người lao động này rất tận tâm với cơ quan,
tổ chức và làm việc rất chăm chỉ, vì thế xứng
đáng được xếp hạng thi đua cao.
- Thứ ba, RBM tối ưu hoá các hoạt động
của cơ quan, tổ chức. RBM liên kết các hoạt
động và các quá trình của cơ quan, tổ chức
với mục tiêu chung của cơ quan, tổ chức
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan, tổ chức. RBM bảo đảm tất cả các bộ
phận của cơ quan, tổ chức đang hoạt động
đều hướng tới đạt kết quả của cơ quan, tổ
chức càng hiệu quả càng tốt.
- Thứ tư, RBM là điều kiện tiên quyết để
thực hiện trả lương theo kết quả, bởi vì nó
tạo ra những đo lường có ý nghĩa về kết quả
thực thi. Đây sẽ là căn cứ để đánh giá thành
quả của từng người lao động, từng bộ phận,
từng đơn vị và toàn bộ cơ quan, tổ chức; nó
cung cấp cơ sở để xếp hạng các cơ quan, tổ
chức hoặc thiết lập các tiêu chuẩn để so sánh
giữa các cơ quan, tổ chức với nhau.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý theo kết quả trong khu vực công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAÃN LYÁ THEO KÏËT QUAÃ TRONG KHU VÛÅC CÖNG
Lê VăN hoà*
* TS, Học viện Hành chính Quốc gia.
1 Vũ Minh Khương và Calla Wiemer, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Quản lý theo kết quả: Những khái niệm vận
dụng vào hệ thống giáo dục Việt Nam (2007).
1. Các phương thức quản lý khu vực công
Trong lịch sử, các Nhà nước tập trung sự
chú ý vào nguồn lực con người, kỹ thuật và
các nguồn lực tài chính với tư cách là đầu
vào cho các hoạt động, các chương trình, dự
án, được gọi là quản lý tập trung vào đầu
vào. Theo phương thức quản lý này, việc
phân bổ ngân sách cho các hoạt động,
chương trình, dự án căn cứ vào khoản mục
chi trên cơ sở hàng năm, thay vì phân bổ
ngân sách dựa trên kết quả trung và dài hạn
mà các hoạt động, chương trình, dự án tạo ra.
Hệ quả của phương thức quản lý này là các
cơ quan, tổ chức nhà nước ngày càng có xu
hướng gia tăng số lượng chương trình, dự án
nhằm gia tăng ngân sách và tìm mọi cách
giải ngân bất chấp các đầu ra của các hoạt
động, chương trình, dự án có tạo ra kết quả
đầu ra và tác động tích cực đối với xã hội hay
không.
Bước phát triển tiếp theo của quản lý là
tập trung vào hoạt động hay quá trình. Quản
lý chương trình theo hoạt động (Program
Management By Action - PMBA) đã thu hút
được sự quan tâm vào những năm 1970 và
1980 khi các tổ chức tài trợ tham gia sâu vào
các dự án phát triển cơ sở hạ tầng và các dự
án phát triển công nghiệp. Quản lý chương
trình theo hoạt động đã kết hợp một số công
cụ và kỹ thuật để lập kế hoạch và lịch trình
hoạt động, ví dụ như Kỹ thuật Cơ cấu phân
chia công việc (Works Breakdown Structure
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
Từ những năm 1990, quản lý theo kết quả (Results Based Management -
RBM) đã được áp dụng rộng rãi trong cả khu vực tư và khu vực công, ở các nước
phát triển và đang phát triển. Mục tiêu chung của RBM là bảo đảm rằng mọi nỗ
lực của cá nhân, bộ phận, tổ chức và các quá trình đều hướng tới đạt những kết
quả mong đợi. Thực tiễn áp dụng RBM đã tạo nên bước ngoặt trong việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả, công bằng1, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của các tổ chức. Bài viết giới thiệu khái quát về RBM trong
khu vực công, bao gồm khái lược các phương thức quản lý khu vực công, khái
niệm và đặc trưng của RBM, quy trình và lợi ích của RBM.
- WBS), Biểu đồ Gannt, Phương pháp đường
găng (Critical Path Method - CPM), Kỹ thuật
Kiểm tra và Đánh giá Chương trình (Pro-
gram Evaluation and Review Technique -
PERT). Các kỹ thuật này tập trung vào việc
thực hiện các hoạt động tuân theo một lịch
trình đã định trước và bắt nguồn từ các lĩnh
vực kỹ thuật xây dựng và quản lý hệ thống.
Hơn nữa, các Nhà nước cố gắng hợp lý hoá
quá trình hành chính bằng việc tiến hành các
cải cách thủ tục hành chính, mà Việt Nam
đang nỗ lực trong hai thập kỷ qua là một
minh chứng cho phương thức quản lý này.
Vào những năm 1970, quản lý theo mục
tiêu (Management By Objectives - MBO) đã
có một sự trỗi dậy mạnh mẽ trong khu vực
công. Quản lý theo mục tiêu là một quá trình
thiết lập các mục tiêu trong nội bộ tổ chức,
trong đó nhà quản lý và nhân viên thống nhất
mục tiêu và hiểu cách thức để đạt mục tiêu.
Quản lý theo mục tiêu cho phép nhà quản lý
gánh vác trách nhiệm về thiết kế và thực hiện
một kế hoạch, chương trình, dự án trong điều
kiện được kiểm soát bằng cách thiết lập các
mục tiêu và xác định các chỉ số kết quả; đồng
thời, nó cung cấp cho các tổ chức công một
công cụ kiểm soát và khả năng dự báo trong
khi vẫn có thể giao trách nhiệm cho các cá
nhân và các nhóm. Ứng dụng phổ biến nhất
vào thời điểm đó là Phương pháp Khung lô
gích (Logframe Approach - LFA) được sử
dụng vào những năm 1970 bởi Cơ quan Phát
triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Kể từ khi
được chấp nhận rộng rãi và phỏng theo bởi
cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, phương
pháp khung lô gích được sử dụng chủ yếu
như là một công cụ phân tích cho việc thiết
kế và phê duyệt dự án. Tuy nhiên, tiềm năng
to lớn của nó cho việc theo dõi và đánh giá
kết quả chưa được nhận thức đầy đủ. Một
phiên bản thay thế được gọi là lập kế hoạch
dự án định hướng mục tiêu (Ziel Orientierte
Projekt Planung - ZOPP) được phát triển bởi
Cơ quan Phát triển Đức (GTZ), bao gồm các
thủ tục tiêu chuẩn để phân tích có sự tham
gia, giải quyết vấn đề và thiết lập các mục
tiêu với các tổ chức đối tác và các nhóm mục
tiêu. Việc sử dụng đa dạng phương pháp
khung lô gích trong hàng chục năm qua là
một minh chứng cho sức mạnh lâu dài của
cách tiếp cận này.
Quản lý công mới (New Public Management
- NPM) vào những năm 1980 đã đưa đến
việc tăng cường nỗ lực để trở thành Nhà
nước định hướng dịch vụ và khách hàng, tạo
ra sự phát triển của rất nhiều tiêu chuẩn dịch
vụ chất lượng. Qua đó, nó tạo ra một làn
sóng mới cho ra đời các phương pháp và kỹ
thuật ngay sau đó, bao gồm bảo đảm chất
lượng hay kiểm soát chất lượng, công nhận
ISO (International Standard Organization),
quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality
Management - TQM)... mà phần quan trọng
nhất là tập trung vào quá trình cung cấp dịch
vụ, các tiêu chuẩn chất lượng và chấp nhận
các mục tiêu cải tiến liên tục. Đồng thời, nó
cũng quan tâm đến việc thiết lập các chỉ số
đo lường kết quả và hiệu quả của việc cung
cấp dịch vụ công, tăng sự kiểm soát của Nhà
nước về chất lượng, tăng cường trách nhiệm
giải trình và cải thiện dịch vụ khách hàng.
Quản lý hiện đại đòi hỏi một sự thay đổi
lớn trong tập trung vào những nơi mà các
nhà quản lý dịch vụ công hy vọng xác định
được kết quả dự kiến, tập trung sự chú ý vào
việc đạt được các kết quả, đo lường kết quả
thường xuyên và khách quan, học tập kinh
nghiệm từ thông tin về kết quả, đưa ra những
điều chỉnh và cải thiện hiệu lực, hiệu quả các
chương trình - phương thức quản lý này
được gọi là RBM. Từ những năm 1990, các
Nhà nước trên khắp thế giới liên tục chịu
những sức ép về tính minh bạch, trách nhiệm
giải trình hơn từ những người dân trong việc
sử dụng các nguồn lực công; sự quan tâm của
công chúng, sự bội chi ngân sách ngày càng
tăng, niềm tin vào sự lãnh đạo chính trị giảm,
sự cần thiết phải quản trị minh bạch và có
trách nhiệm hơn là những yếu tố quan trọng
góp phần vào sự xuất hiện của RBM trong
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
khu vực công. Nhiều nước trên thế giới, đặc
biệt là các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác
Kinh tế và Phát triển (OECD) sử dụng RBM
như là phương tiện để thúc đẩy quản trị tốt
và quản lý khu vực công định hướng kết quả.
Trọng tâm của các phương thức quản lý
khu vực công nêu trên có thể được mô tả tóm
tắt như ở Bảng 1.1 dưới đây:
Tóm lại, qua nhiều thập kỷ, đã có một sự
thay đổi trong trọng tâm của cách tiếp cận
quản lý khu vực công từ đầu vào, đến hoạt
động, kiểm soát quá trình, đến đầu ra (mục
tiêu), và các kết quả. “RBM rõ ràng là một
sự tiến hoá trong quản lý và không phải là
một cuộc cách mạng”2 - có nghĩa là RBM
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát
triển các phương thức quản lý trước đó.
2. Khái niệm quản lý theo kết quả
Từ những năm 1990, RBM đã được áp
dụng rộng rãi trong cả khu vực tư và khu vực
công, ở các nước phát triển và đang phát
triển. Mục tiêu chung của RBM là bảo đảm
rằng mọi nỗ lực của cá nhân, bộ phận, tổ
chức và các quá trình đều hướng tới đạt
những kết quả mong đợi. Thực tiễn áp dụng
RBM đã tạo nên bước ngoặt trong việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả, công bằng, công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của các tổ chức.
Trong thực tế, RBM được áp dụng ở
những phạm vi khác nhau (cá nhân, bộ phận,
đơn vị, tổ chức, quá trình, chương trình, dự
án) và ở các cấp độ kết quả khác nhau (đầu
ra, kết quả đầu ra, tác động). Do đó, trong
các tài liệu viết bằng tiếng Anh, RBM
được diễn đạt bằng nhiều cụm từ khác
nhau như: Performance Management
(quản lý kết quả thực thi) hay Performance
Based Management (quản lý theo kết quả
thực thi), Outcome Management (quản lý
kết quả đầu ra) hay Outcome Based
Management (quản lý theo kết quả đầu ra),
Results-Oriented Management (quản lý
định hướng kết quả) hay Results-Based
Management (quản lý theo kết quả). Để đơn
giản và thống nhất trong cách diễn đạt, bài
viết này sử dụng cụm từ “quản lý theo kết
quả”.
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
2 Werner Meier (2003), Results-Based Management: Towards A Common Understanding Among Development Cooperation
Agencies, Based Management Group Ottawa, Prepared for the Canadian International Development Agency, Canada.
Cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác
nhau về RBM. Tuy nhiên, các định nghĩa đều
cho rằng RBM là một phương thức quản lý
có tầm nhìn chiến lược, cụ thể và rõ ràng, tập
trung vào các kết quả (đầu ra, kết quả đầu ra,
tác động), và định hướng các hoạt động đến
việc đạt được các kết quả một cách hiệu lực
và hiệu quả. Từ đó có thể hiểu, RBM là một
phương thức quản lý mà thông qua đó nhà
quản lý xác định các kết quả cần đạt được
một cách cụ thể, rõ ràng và dài hạn, định
hướng tất cả các nỗ lực và hoạt động vào
việc đạt được các kết quả một cách hiệu lực
và hiệu quả.
3. Các đặc trưng của quản lý theo kết quả
RBM có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Chú trọng đến các kết quả (đầu ra, kết
quả đầu ra, tác động), quá trình và các yếu
tố đầu vào. RBM chú trọng đến các đầu ra
(các kết quả trực tiếp), các kết quả đầu ra (tác
động ngắn hạn và trung hạn của đầu ra), tác
động (tác động dài hạn của đầu ra hay tác
động của kết quả đầu ra); đồng thời, nó cũng
chú trọng đến các quá trình để đạt các kết
quả này và các yếu tố đầu vào dưới dạng khả
năng (kiến thức, kỹ năng và năng lực mong
đợi từ các nhóm và các cá nhân có liên quan).
- Chú trọng đến lập kế hoạch theo kết
quả. RBM chú trọng đến lập kế hoạch theo
kết quả để hướng mọi nỗ lực của tổ chức vào
việc đạt được các kết quả mong đợi và sự
thành công tương lai. Điều này có nghĩa là,
nhà quản lý xác định những kết quả mong
muốn đạt được trong tương lai và trình bày
chúng dưới dạng các mục tiêu cụ thể trong
các kế hoạch thực thi. RBM cung cấp một
khuôn khổ rõ ràng cho các nhà quản lý tiến
hành lập kế hoạch chiến lược và quản lý
chiến lược trên cơ sở học tập kinh nghiệm và
trách nhiệm giải trình trong môi trường phân
công, phân cấp, phân quyền.
- Chú trọng đến đo lường và đánh giá
kết quả thực hiện. Thực tiễn cho thấy, nếu
nhà quản lý không thể đo lường được kết quả
thì nhà quản lý không thể quản lý được các
kết quả. Do đó, trong RBM, nhà quản lý chú
trọng đến việc đo lường các kết quả và đánh
giá sự tiến triển hướng tới đạt được các mục
tiêu mong đợi. RBM cung cấp cho nhà quản
lý hệ thống theo dõi và đánh giá các kết quả
thực hiện.
- Chú trọng đến cải thiện kết quả liên
tục. Trong RBM, mọi bộ phận của tổ chức
luôn được khuyến khích thực hiện những cải
tiến để đạt các tiêu chuẩn ngày càng cao, và
thông qua đó cung cấp các lợi ích ngày càng
tăng và thúc đẩy xây dựng kết quả cao hơn.
Điều này có nghĩa là, nhà quản lý xác định
rõ những kết quả của tổ chức, nhóm, cá nhân
hướng tới và tiến hành các bước để bảo đảm
rằng các cấp độ kết quả mong đợi đó sẽ đạt
được. Armstrong và Murlis viết, cải tiến liên
tục gồm: “Thiết lập một nền văn hóa trong
đó các nhà quản lý, các cá nhân và nhóm
gánh vác trách nhiệm cải tiến liên tục các quá
trình thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm
về các kỹ năng, năng lực và đóng góp của
chính họ”3.
- Chú trọng đến sự phát triển liên tục.
RBM chú trọng đến việc tạo ra một nền văn
hoá trong đó sự học tập và phát triển của tổ
chức và cá nhân là một quá trình liên tục.
RBM cung cấp các phương tiện để hợp nhất
việc học tập với công việc, giúp mọi người
học được từ những thành công và những
thách thức vốn có trong các hoạt động hàng
ngày. RBM tạo điều kiện học tập bằng cách
truyền tải thông tin kết quả cho những người
ra quyết định thông qua các vòng phản hồi
từ theo dõi kết quả thực thi liên tục, đánh giá
và kiểm toán. Điều này tạo cơ hội cho việc
học tập ở cấp độ cá nhân, nhóm và tổ chức
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
3 Michael Armstrong, Performance Management: Key strategies and Practical Guidelines, Third Edition, Kogan Page (2006).
để liên tục chuyển đổi tổ chức phát triển theo
hướng ngày càng thoả mãn các bên liên
quan. Sau đó, các quá trình ra quyết định
quản lý có thể được thông tin bởi các thông
tin kết quả tin cậy, có giá trị dẫn đến hiệu lực
và hiệu quả cao hơn.
- Chú trọng đến truyền thông. RBM chú
trọng đến truyền đạt thông tin. RBM tạo ra
một bầu không khí cho đối thoại liên tục giữa
các nhà quản lý và các cấp dưới để xác định
những mong đợi và chia sẻ thông tin về sứ
mệnh, các giá trị và các mục tiêu của tổ chức.
Thông qua đó, thiết lập sự hiểu biết lẫn nhau
về các kết quả cần đạt được, thiết lập khuôn
khổ cho việc quản lý và phát triển nhân sự
để bảo đảm đạt được các kết quả.
- Chú trọng đến các bên liên quan. RBM
chú trọng đến việc thoả mãn các nhu cầu và
mong đợi của tất cả các bên liên quan của tổ
chức - Nhà nước, ban quản lý, người lao
động, khách hàng, nhà cung cấp và công
chúng nói chung. Đặc biệt, người lao động
được đối xử như những đối tác trong tổ chức,
những lợi ích của họ được tôn trọng, những
quan điểm của họ được chào đón và lắng
nghe; họ được khuyến khích đóng góp vào
việc xây dựng mục tiêu và các kế hoạch cho
nhóm và cho chính họ. RBM tôn trọng
những nhu cầu của các cá nhân và các nhóm
cũng như những nhu cầu của tổ chức, và thừa
nhận rằng các nhu cầu này không nhất thiết
đồng nhất.
Chìa khoá cho sự thành công của RBM
là sự tham gia của các bên liên quan trong
suốt chu trình quản lý như trong việc xác
định kết quả mong muốn, đánh giá rủi ro,
theo dõi sự tiến triển, báo cáo về kết quả và
tích hợp các bài học kinh nghiệm vào các
quyết định quản lý.
- Chú trọng đến sự minh bạch và công
bằng. Sự minh bạch là cần thiết để bảo đảm
rằng những lợi ích của các nguyên tắc RBM
được thực hiện đầy đủ. Việc xác định rõ ràng
vai trò và trách nhiệm tương ứng của các bên
liên quan là cần thiết. Công bố thông tin
thích hợp về các phương pháp được sử dụng
để thu thập dữ liệu về chỉ số kết quả tin cậy
và có giá trị là rất quan trọng để thực hiện
nghĩa vụ trách nhiệm giải trình của các bên
liên quan. Phổ biến rộng rãi và thảo luận tích
cực thông tin về kết quả, bao gồm những tiến
bộ đạt được hướng tới đạt các kết quả đầu ra,
bài học kinh nghiệm và đề xuất những điều
chỉnh, thúc đẩy học tập trong tổ chức.
4. Quy trình quản lý theo kết quả
Thuật ngữ “Quản lý theo kết quả” liên
quan chặt chẽ với lý thuyết hệ thống, lý
thuyết nhân quả, và tính đến phương diện
thời gian. Các tài liệu nghiên cứu về RBM
đều cho rằng RBM gồm các thành tố là đầu
vào, hoạt động hay quá trình, các kết quả.
Tùy thuộc vào phạm vi và cấp độ áp dụng
RBM mà tên gọi và khái niệm về các thành
tố này có phần thay đổi. Tuy nhiên, trong mô
hình đầy đủ, cụm từ “kết quả” được áp dụng
cho ba cấp cao nhất của hệ thống thứ bậc
trong khung lô gích là các đầu ra, các kết quả
đầu ra, tác động. Các cấp thấp nhất trong
khung lô gích như: các đầu vào và các hoạt
động, không phải là mục tiêu hoặc kết quả,
mà là các phương tiện để đạt các kết quả.
Mô hình lô gích về chuỗi các kết quả đầy
đủ được mô tả trực quan dưới dạng sơ đồ
như thể hiện ở Hình 1.1 dưới đây:
CHÑNH SAÁCH
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
Mô hình lô gích nêu trên cho thấy, đầu
vào là cần thiết để thực hiện các hoạt động
nhằm tạo ra các đầu ra, và các đầu ra này lại
tạo ra các kết quả ngắn hạn và trung hạn mà
dẫn đến các tác động lâu dài. Các yếu tố cấu
thành RBM được xác định trong mối quan
hệ với nhau dựa trên một chuỗi nhân quả và
theo chiều thời gian; chúng không thể được
sử dụng thay thế cho nhau, cũng không đặt
ra ngoài chuỗi, và mối quan hệ giữa chúng
có tính ổn định.
Từ mô hình lô gích về chuỗi các kết quả
nêu trên, có thể rút ra mô hình RBM như
được trình bày cụ thể dưới dạng sơ đồ như
Hình 1.2.
Như vậy, trong RBM, nhà quản lý phải
trả lời 4 câu hỏi quan trọng, đó là: Tại sao
chúng ta phải đầu tư? Chúng ta mong muốn
đạt được những kết quả gì từ sự đầu tư này?
Cái gì cần được tạo ra? Đầu tư này sẽ được
thực hiện như thế nào?
RBM cần được xem là một quá trình linh
hoạt và tiến triển, không phải là một hệ thống
cứng nhắc, tiêu chuẩn hoá và quan liêu4.
Theo cách hiểu thông thường, RBM là một
quá trình bao gồm 5 hoạt động cơ bản:
- Lập kế hoạch: Trong giai đoạn này, nhà
quản lý xác định các kết quả mong đợi và
quyết định những gì cần làm và cách thức
làm để đạt được các kết quả mong đợi đó,
thống nhất những mục tiêu và các yêu cầu
năng lực cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ
nhằm đạt các kết quả mong đợi.
- Tổ chức thực hiện: Trong giai đoạn
này, nhà quản lý chỉ đạo các cá nhân, bộ
phận, tổ chức thực hiện các hoạt động đã
được phân công nhằm đạt được các kết quả
mong đợi theo tiến độ đã xác định trong giai
đoạn lập kế hoạch.
- Giám sát thực hiện: Trong giai đoạn
này, nhà quản lý tiến hành theo dõi liên tục
những gì đang được thực hiện có đúng như
đã dự kiến trong kế hoạch hay không, và đưa
ra những phản hồi liên tục về sự tiến triển
hướng tới mục tiêu đã đặt ra trong kế hoạch.
- Đánh giá kết quả: Trong giai đoạn này,
nhà quản lý tiến hành các đánh giá để đo
lường các kết quả trong một giai đoạn thực
hiện bao gồm những thành tích, sự tiến triển
và những vấn đề; các đánh giá kết quả cung
cấp cơ sở cho giai đoạn tiếp theo của chu
trình liên tục. Đánh giá kết quả, đo lường các
39
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
4 Michael Armstrong, Performance Management: Key strategies and Practical Guidelines, Third Edition, Kogan Page (2006).
kết quả đã đạt được để đánh giá mức độ đạt
được các mục tiêu đã đặt ra trong kế hoạch,
rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra
các giải pháp nhằm cải tiến hoạt động quản
lý. Để tiến hành theo dõi và đánh giá, cần
thiết lập hệ thống theo dõi và đánh giá kết
quả.
- Xem xét lại kết quả: Ở giai đoạn này,
nhà quản lý xem xét những gì đã đạt được,
chẩn đoán những thiếu sót trong kết quả thực
hiện, cũng như trong lập kế hoạch; trên cơ sở
đó xác định những gì cần được làm bổ sung
và những hành động điều chỉnh cần thiết nếu
kết quả không đạt theo đúng kế hoạch.
Quy trình RBM được mô tả như ở
Hình 1.3.
5. Lợi ích của quản lý theo kết quả
RBM đem lại cho cơ quan, tổ chức
những lợi ích cơ bản dưới đây:
- Thứ nhất, RBM xác định cho cơ quan,
tổ chức một tầm nhìn bao quát và dài hạn,
bởi vì nó tính đến các tác động dài hạn của
các hoạt động và các quá trình; đồng thời nó
tiếp cận một cách có hệ thống và lô gích về
các hoạt động của cơ quan, tổ chức trong
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Thứ hai, RBM bảo đảm cơ quan, tổ
chức hoạt động một cách hiệu lực. RBM tập
trung vào các kết quả thay vì chỉ tập trung vào
những hành vi và hoạt động. Trong các
phương thức quản lý trước đó, các nhà quản
lý thường xem những hành vi và hoạt động
của cơ quan, tổ chức là những kết quả. Do đó,
một người lao động có thể rất bận rộn nhưng
chưa hẳn đã có những đóng góp vào việc đạt
được các mục tiêu của cơ quan, tổ chức; trong
khi đó, nhà quản lý vẫn có thể kết luận rằng
người lao động này rất tận tâm với cơ quan,
tổ chức và làm việc rất chăm chỉ, vì thế xứng
đáng được xếp hạng thi đua cao.
- Thứ ba, RBM tối ưu hoá các hoạt động
của cơ quan, tổ chức. RBM liên kết các hoạt
động và các quá trình của cơ quan, tổ chức
với mục tiêu chung của cơ quan, tổ chức
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan, tổ chức. RBM bảo đảm tất cả các bộ
phận của cơ quan, tổ chức đang hoạt động
đều hướng tới đạt kết quả của cơ quan, tổ
chức càng hiệu quả càng tốt.
- Thứ tư, RBM là điều kiện tiên quyết để
thực hiện trả lương theo kết quả, bởi vì nó
tạo ra những đo lường có ý nghĩa về kết quả
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
thực thi. Đây sẽ là căn cứ để đánh giá thành
quả của từng người lao động, từng bộ phận,
từng đơn vị và toàn bộ cơ quan, tổ chức; nó
cung cấp cơ sở để xếp hạng các cơ quan, tổ
chức hoặc thiết lập các tiêu chuẩn để so sánh
giữa các cơ quan, tổ chức với nhau.
- Thứ năm, RBM là cơ sở để áp dụng hệ
thống phân bổ ngân sách theo kết quả và đổi
mới công tác lập kế hoạch trong các cơ quan,
tổ chức. Theo phương thức quản lý này, nhà
quản lý xác định rõ ràng các kết quả mong
muốn đạt được của cơ quan, tổ chức, các bộ
phận, các quá trình, chương trình, dự án và
của người lao động; đồng thời giúp xác định
các chi phí đầu vào cần thiết để đạt các kết
quả đó. RBM tạo ra sự cam kết của cơ quan,
tổ chức về nguồn lực được giao và giúp sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực này.
- Thứ sáu, RBM thúc đẩy sự phối hợp,
hợp tác trong nội bộ cơ quan, tổ chức và với
bên ngoài. RBM không chỉ thúc đẩy quá
trình thông tin phản hồi liên tục và đối thoại
về các mục tiêu chung của cơ quan, tổ chức,
tăng cường các mối quan hệ, trao đổi giữa
các cá nhân và bộ phận trong cơ quan, tổ
chức, hỗ trợ thông tin giữa cấp dưới và cấp
trên, mà còn tập trung vào những nhu cầu
của khách hàng bên trong và bên ngoài.
- Cuối cùng, một lợi ích quan trọng nhất
của RBM là nó góp phần thay đổi tác phong
của đội ngũ những người lao động, nhà quản
lý trong cơ quan, tổ chức; hướng mọi thành
viên trong cơ quan tập trung suy nghĩ về
những kết quả cần đạt được thông qua trả lời
những câu hỏi như: Chúng ta cần tạo ra
những kết quả gì? Những kết quả đó để phục
vụ ai? Chúng có tác động gì đối với xã hội?
Làm thế nào để đạt được các kết quả đó một
cách hiệu quả nhất? Đồng thời, nó tăng
cường trách nhiệm giải trình bên trong và với
bên ngoài của các nhà quản lý n
41
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
CHÑNH SAÁCH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_ly_theo_ket_qua_trong_khu_vuc_cong.pdf